Tóm tắt Luận văn Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk)

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC

THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ

CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO LUẬT TỐ

TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .8

1.1 Khái niệm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật. 8

1.2 Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và

chỉ tuân theo pháp luật. 14

1.2.1 Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập . 15

1.2.2 Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật . 22

1.2.3 Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt

động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm . 26

1.3 Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập

và chỉ tuân theo pháp luật. 29

1.4 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong mối liên hệ với các nguyên tắc khác trong

luật tố tụng hình sự . 32

1.4.1 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm sự vô

tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng . 32

1.4.2 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc suy đoán vô tội . 34

1.4.3 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo

pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án. 35

1.4.4 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật trong mối liên hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền

bình đẳng trước Toà án. 35

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1. 37

Chương 2: NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT

XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP

DỤNG TẠI ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK . 382

 2.1 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân

theo pháp luật theo quy định pháp luật. 38

2.2 Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử

độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 49

2.2.1 Tình hình xét xử trong những năm gần đây (2009 – 2014) . 49

2.2.2 Những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và

Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật tại Đắk Lắk. 52

2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc

Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

tại Đắk Lắk . 66

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2. 79

Chương 3: NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO

HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ

HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO

PHÁP LUẬT . 80

3.1 Những yêu cầu cải cách tư pháp về nguyên tắc Thẩm phán, Hội

thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 80

3.2 Những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc

Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp

luật. 88

3.2.1 Triển khai thực hiện Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức Tòa

án nhân dân năm 2014 . 88

3.2.2 Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về đảm bảo hiệu quả áp

dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ

tuân theo pháp luật. 94

3.2.3 Nâng cao trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân

dân để đảm bảo hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm

xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật . 99

3.2.4 Giải pháp trau dồi đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và Hội

thẩm. 102

3.2.5 Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. 104

3.2.6 Các giải pháp khác. 106

3.2.7 Một số giải pháp riêng để nâng cao hiệu quả nguyên tắc Thẩm

phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên

địa bàn tỉnh Đắk Lắk . 108

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3. 111

KẾT LUẬN . 112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 114

 

pdf26 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 542 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và Hội thẩm phải tự mình đưa ra quyết định để giải quyết vụ án, không lệ thuộc vào bất cứ yếu tố nào khác. Hoạt động xét xử phải đảm bảo đúng pháp luật về trình tự thủ tục cũng như các quyết định đưa ra phải chính xác, có căn cứ pháp lý. Không một cá nhân, cơ quan, tổ chức nào được phép can thiệp vào hoạt động xét xử. 1.2 Nội dung nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 1.2.1 Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập Xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án là trung tâm của việc thực hiện và xét xử là hoạt động trọng tâm, đòi hỏi việc xét xử phải bảo đảm tính độc lập. Chính vì vậy, nguyên tắc độc lập xét xử được coi là tiền đề nền tảng của hoạt động tư pháp trong Nhà nước pháp quyền, bảo đảm quan trọng cho việc xét xử được bình đẳng, dân chủ, khách quan. Theo tác giả luận văn, nếu lấy chủ thể của hoạt động xét xử để nghiên cứu 7 thì sự độc lập được biểu hiện trên hai khía cạnh, đó là: Độc lập với các yếu tố khách quan và độc lập với các yếu tố chủ quan. Thứ nhất: Độc lập với các yếu tố khách quan. - Độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng. Đối với các cơ quan Đảng thì mặc dù, về nguyên tắc, trong hoạt động của mình Tòa án phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, nhưng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền hoạt động theo nguyên tắc pháp chế và mọi hoạt động của Đảng, kể cả hoạt động lãnh đạo, cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Vì lẽ đó, trong hoạt động xét xử, Tòa án chỉ căn cứ vào pháp luật và làm đúng theo các quy định của pháp luật; nghĩa là: khi xét xử Tòa án chỉ thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, không bị bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào chỉ đạo. - Độc lập với các cơ quan Nhà nước khác. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đều là công cụ của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên mỗi cơ quan đều có chức năng, nhiệm vụ riêng khi tham gia vào quá trình tố tụng. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đưa ra chính kiến của mình nhưng không buộc HĐXX phải thực hiện theo. - Sự độc lập của Tòa án với yêu cầu của bị can, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Thứ hai: Độc lập với các yếu tố chủ quan - Sự độc lập giữa các cấp xét xử trong hệ thống Tòa án, độc lập trong một Tòa án. - Thẩm phán, Hội thẩm độc lập với nhau trong HĐXX. - Độc lập trong việc đưa ra quyết định dựa trên những chứng cứ và quy định của pháp luật để kết luận về vụ án. 1.2.2 Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm chỉ tuân theo pháp luật, nhằm hạn chế tối đa oan sai, tiêu cực, tránh bỏ lọt tội phạm. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm cần phải nắm vững 8 các quy định của pháp luật TTHS và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Các giai đoạn TTHS phải có nội dung là thực hiện các nhiệm vụ cụ thể trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách công minh và khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật, góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền hợp pháp của công dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền quyết định bị cáo có tội hay không có tội. Vì thế, quyết định của Tòa án phải là quyết định khách quan, chính xác và độc lập xét xử phải là một nguyên tắc hoạt động của Tòa án. Khi xét xử vụ án hình sự, Thẩm phán và Hội thẩm căn cứ vào các tình tiết của vụ án, các chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào quy định của pháp luật để xác định tội phạm cũng như hình phạt đối với người phạm tội. 1.2.3 Mối quan hệ giữa độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm Độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật luôn có mối quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau. Trong đó “độc lập” là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật và chỉ “tuân theo pháp luật” là cơ sở cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm độc lập khi xét xử. Yếu tố độc lập và tuân theo pháp luật không thể tách rời nhau. Độc lập nhưng phải tuân theo pháp luật và tuân theo pháp luật nhưng phải đảm bảo sự độc lập, tránh tình trạng áp đặt. Chính vì mối quan hệ này mà Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ cả hai nội dung “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” như đã nêu. Như vậy, có thể nhận thấy “Độc lập và tuân theo pháp luật” là hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi nào đảm bảo Thẩm phán và Hội thẩm độc lập thì họ mới tuân theo pháp luật được và ngược lại. 1.3 Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật xác định vai trò, vị trí của cơ quan Tòa án trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng. Nguyên tắc này còn có ý nghĩa trong việc đảm bảo công bằng xã hội. Mọi cá nhân dù ở địa vị xã hội nào, nếu vi phạm pháp luật đều bị xét xử như nhau. Thẩm phán độc lập là một trong các yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, 9 xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nguyên tắc này có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với lý luận cũng như thực tiễn áp dụng. 1.4 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối liên hệ với các nguyên tắc khác trong luật tố tụng hình sự Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ mật thiết với một số nguyên tắc trong luật tố tụng hình sự như: nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án. Việc nghiên cứu và tìm hiểu nội dung của nguyên tắc này không chỉ có ý nghĩa với các cơ quan và cán bộ làm công tác pháp luật mà còn cần thiết đối với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và mọi công dân vì nó đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm trong quá trình xét xử không bị ràng buộc bởi bất cứ yếu tố nào khác ngoài pháp luật đồng thời loại trừ mọi sự can thiệp từ bên ngoài vào hoạt động xét xử của Tòa án. Mặt khác việc tìm hiểu và nắm vững nguyên tắc này tạo điều kiện cho việc xét xử được khách quan, trung thực, bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và là một cơ sở quan trọng cho việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; đảm bảo cho Tòa án giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, chống được các biểu hiện tiêu cực nhằm từng bước thực hiện công bằng xã hội trong TTHS. 10 Chương 2 NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK 2.1 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật theo quy định pháp luật Qua các thời kỳ phát triển lịch sử của đất nước, tuy có sự thay đổi rất nhiều thể chế, hệ thống tổ chức bộ máy song nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo quy định của pháp luật” đều được quy định trong các bản Hiến pháp và các đạo luật khác được ban hành như BLTTHS, Bộ luật Tố tụng dân sự. Kế thừa những quy định của pháp luật TTHS trước đó và tiếp nhận những tư tưởng, quan điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở nước ta, nguyên tắc này được quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn được quy định cụ thể hơn tại khoản 1, Điều 9 Luật Tổ chức TAND năm 2014 “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào”. Trong BLTTHS có những quy định liên quan đến độc lập xét xử của Tòa án. Cụ thể: Thứ nhất: Các quy định mang tính nền tảng, định hướng cho việc đảm bảo Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật như: Điều 1, Điều 3, Điều 14 BLTTHS. Nội dung những quy định này mang tính định hướng đóng vai trò quan trọng, làm nền tảng cho quá trình xây dựng và thực thi pháp luật TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thứ hai: Các quy định cụ thể đảm bảo Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật như: Quy định Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi (Điều 46 BLTTHS), quy định 11 về trình tự tố tụng (Điều 207, Điều 222 BLTTHS), quy định về giới hạn thẩm quyền (Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 196 BLTTHS). Ngoài những quy định nêu trên trong BLTTHS còn có những quy định khác nhằm góp phần thực hiện hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cụ thể: quy định về chế độ bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm, thuyên chuyển, kỷ luật, cách chức, khen thưởng... đối với Thẩm phán, Hội thẩm; quy định về kinh phí hoạt động của Tòa án nhân dân. Trong quá trình cải cách tư pháp ở nước ta, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã và đang từng bước được bảo đảm bằng những chủ trương về đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính; về quy chế Thẩm phán và các quy định của Hiến pháp và pháp luật tố tụng. 2.2 Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 2.2.1 Tình hình xét xử trong những năm gần đây (2009 – 2014) Trình bày bảng số liệu thống kê về số vụ án hình sự được thụ lý, số bị cáo và số lượng vụ án hình sự được giải quyết, kết quả xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tỉ lệ bản án, quyết định bị hủy. Qua đó đưa ra kết luận về số lượng vụ án hình sự, số lượng bị cáo, số lượng án phúc thẩm, án bị hủy đã tăng theo thời gian. 2.2.2 Những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật tại Đắk Lắk 2.2.2.1 Những hạn chế của Thẩm phán và Hội thẩm trong độc lập xét xử. - Hạn chế về năng lực của Thẩm phán và Hội thẩm. Đối với một tỉnh miền núi như Đắk Lắk vấn đề bổ sung nguồn nhân lực chất lượng, đào tạo bồi dưỡng cho Thẩm phán và Hội thẩm luôn gặp nhiều khó khăn bởi điều kiện kinh tế, xã hội còn hạn chế. Ngoài những nguyên nhân tác động như hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập chưa phù hợp, cơ sở vật chất và điều kiện làm việc vẫn còn nhiều khó khăn, chế độ lương và chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm vẫn chưa thực sự tương xứng và phù hợp thì nguyên nhân chủ yếu vẫn là do 12 trình độ chuyên môn đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm của ngành Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk vẫn còn chưa cao so với nhiều tỉnh khác. - Thẩm phán và Hội thẩm còn phụ thuộc nhiều vào bản kết luận điều tra và bản cáo trạng của VKS trong hồ sơ vụ án. Trong nhiều vụ án tại địa bàn tỉnh Đắk Lắk, HĐXX tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án nên có thành kiến với bị cáo có tội, từ đó đặt những câu hỏi mang tính áp đặt buộc bị cáo khai đúng với những lời khai trước đó. Đây cũng chính là nguyên nhân để việc xét hỏi của Thẩm phán và Hội thẩm tại phiên tòa diễn ra nhiều lúc còn nặng nề và mang tính áp đặt giữa Thẩm phán và Hội thẩm đối với bị cáo. - Còn tồn tại “định hướng xét xử” thông qua các cơ chế về việc họp án ba ngành, họp báo cáo án trong nội bộ cơ quan, thỉnh thị án cấp trên trước việc xét xử. Những tác động xấu là có thể xảy ra tình trạng “án bỏ túi” khi những cuộc họp liên ngành có khi lại khiến cho các bên xác định luôn đường lối xử lý như mức hình phạt cụ thể, biện pháp chấp hành hình phạt mà không cần xem xét tới kết quả tại phiên tòa sau đó, nó khiến cho các Thẩm phán ở Đắk Lắk nói riêng và cả nước nói chung hầu như không quan tâm đến các tình tiết của vụ án, không nắm rõ nội dung vụ án nên dễ thống nhất với quan điểm đề xuất của Thẩm phán giải quyết vụ án. Ngoài ra, hoạt động thỉnh thị án cấp trên và họp bàn nhằm mục đích áp dụng thống nhất pháp luật. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm. - Hội thẩm nhân dân chưa phát huy được hết vị trí của một người làm công tác xét xử trên thực tế. Trên thực tế, Hội thẩm nhân dân tại tỉnh Đắk Lắk chưa phát huy được hết quyền năng của mình như pháp luật đã quy định. Nhiều trường hợp tại Đắk Lắk đối với các vụ án không có nhiều tình tiết phức tạp, Hội thẩm nhân dân không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án mà họ chỉ đọc trước phiên xét xử từ 1 đến 2 buổi, hoặc thậm chí có nhiều trường hợp Hội thẩm chỉ đọc ngay trước phiên xét xử. Như vậy tính độc lập xét xử không được đảm bảo. Trong báo cáo tổng kết công tác năm 2012 và triển khai nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2013 của ngành Tòa án tỉnh Đắk Lắk đã thừa nhận thực tế này, báo cáo chỉ rõ rằng “Các Hội thẩm ít chủ động trong việc thẩm vấn mà chủ yếu do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chủ động và trực tiếp thẩm vấn”. 13 2.2.2.2 Những hạn chế của Thẩm phán và Hội thẩm trong việc tuân theo các quy định của pháp luật khi xét xử. - Số lượng án hủy do lỗi chủ quan của Thẩm phán vẫn còn tồn tại nhiều. Tại báo cáo tổng kết công tác năm 2013, triển khai nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2014 của TAND hai cấp tỉnh Đắk Lắk đã nêu lại vấn đề này, theo đó mặc dù đã có nhiều cố gắng, tỷ lệ án hủy, sửa do lỗi chủ quan đã giảm nhưng vẫn còn. Trong nhiều vụ án mà Thẩm phán, Hội thẩm đã thấy rõ ràng, có thể quyết định tội danh, quyết định hình phạt nhưng lại vướng vào giới hạn xét xử và nhiều trường hợp buộc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, vi phạm giới hạn khi tuyên án, phải điều tra, xét xử lại lại gây mất nhiều thời gian trong giải quyết vụ án hình sự mà thực tiễn tại Đắk Lắk đã cho thấy rõ điều đó. - Việc áp dụng quy định của BLHS trong xét xử còn nhiều hạn chế. + Không tuân thủ đúng quy định của pháp luật trong xét xử khiến việc nhận định không chính xác, đánh giá không đúng tính chất hành vi phạm tội dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, xét xử không đúng tội phạm. + Nhận định không đúng về tính chất và mức độ của hành vi phạm tội dẫn đến áp dụng sai các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử. + Vi phạm quy định về phạm vi xét xử theo quy định tại điều 196 BLTTHS. Điều này đã cho thấy nhiều Tòa án trên địa bàn tỉnh Đắk Lắc, do Thẩm phán và Hội thẩm không tuân thủ chặt chẽ quy định của Bộ luật TTHS về giới hạn xét xử nên đã để xảy ra nhiều trường hợp vi phạm về vấn đề này. 2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế trong việc tuân thủ nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật ở Đắk Lắk 2.2.3.1 Nguyên nhân đến từ những bất cập trong quy định của pháp luật. - Hệ thống pháp luật còn quá chồng chéo và chưa thực sự rõ ràng trong nhiều quy định gây khó khăn cho Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử. Sở dĩ còn việc Thẩm phán, Hội thẩm tại Đắk Lắk áp dụng pháp luật một cách tùy tiện, có sự không độc lập, có sự thống nhất chứng cứ bằng cuộc họp liên ngành, thỉnh thị án, có sự tác động của các cá nhân khác đến hoạt 14 động xét xử, trước hết một phần là do hệ thống pháp luật chưa rõ ràng, cụ thể, chưa có những chế tài cần thiết đủ mạnh để răn đe trước những hành vi vi phạm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật. - BLHS chưa thực sự rõ ràng trong nhiều quy định, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật vào hoạt động xét xử. Đặc biệt nhất chính là quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999 về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho phép HĐXX, tùy nghi lựa chọn những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, ngoài những tình tiết đã được pháp luật quy định. - Trong một số quy định của BLTTHS cũng tồn tại nhiều bất cập làm ảnh hưởng đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Có thể kể đến quy định về giới hạn xét xử của Tòa án tại điều 196 BLTTHS bởi nó đã tạo cho giới hạn xét xử của Thẩm phán bị lệ thuộc nhiều vào Viện kiểm sát, nó có thể khiến cho Thẩm phán và Hội thẩm không thực sự độc lập trong xét xử, khó đưa ra quan điểm đánh giá riêng trong nhiều vụ án mà Thẩm phán, Hội thẩm đã thấy rõ ràng, có thể quyết định tội danh, quyết định hình phạt nhưng lại vướng vào giới hạn xét xử và nhiều trường hợp buộc phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, điều tra lại gây mất nhiều thời gian trong giải quyết vụ án hình sự. 2.2.3.2 Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự ở Đắk Lắk cho thấy nguyên nhân nằm ở sự tác động từ nhiều phía tới Thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử. - Tác động của tổ chức Đảng tới Thẩm phán và Hội thẩm: Đối với tỉnh Đắk Lắk, 100% số Thẩm phán đều là đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trên thực tế xảy ra ở tỉnh Đắk Lắk nói riêng và cả nước nói chung đã có không ít cấp ủy Đảng cố tình tác động tới Thẩm phán, Hội thẩm vào mặt chuyên môn, thực tế cũng đã cho thấy có nhiều vụ án mà sự tác động của các cấp ủy Đảng đã dẫn đến việc xét xử không chính xác nếu không muốn nói là sai pháp luật. Cần phải xem xét sự tác động như thế nào là đúng. Sai ở người Thẩm phán, Hội thẩm do không vững vàng về niềm tin và không xác định rõ giới hạn của ba từ “Đảng lãnh đạo” nên đã để tình trạng tác động của một số lãnh đạo cấp ủy Đảng vào công tác xét xử của Tòa án. 15 - Tác động từ lãnh đạo Tòa án ở một số địa phương trên địa bàn Tỉnh Đắk Lắk còn xảy ra Trước hết hệ thống Tòa án Việt Nam được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Đứng đầu mỗi Tòa án là Chánh án, đây chính là thủ trưởng của đơn vị. Các Thẩm phán chịu sự điều chỉnh, sắp xếp công việc của Chánh án. Có sự tác động của lãnh đạo Tòa án mà đặc biệt là của Chánh án đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu lực của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, chỉ tuân theo pháp luật trên thực tế. - Tác động từ dư luận trước và trong mỗi phiên tòa. Xét cho cùng, báo chí cũng chỉ là quan điểm của cá nhân, thậm chí đó là quan điểm tập thể, quan điểm đó có thể đúng và cũng có thể chưa chính xác. Trên thực tế hiện nay có nhiều vụ án xét xử theo hướng “làm dịu” sự phản ứng của dư luận xã hội. Nếu Thẩm phán và Hội thẩm xét xử không dựa trên pháp luật và bị tác động bởi dư luận, báo chí thì rõ ràng vi phạm nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Có nhiều vụ án gây bức xúc trong quần chúng nhân dân khiến cho người dân phản ứng mạnh tại phiên tòa và một số Thẩm phán đã thừa nhận, nếu vụ án được xét xử tại trụ sở bị cáo chỉ có thể bị xử tù từ vài năm nhưng do xét xử lưu động, sự việc gây bức xúc trong quần chúng nhân dân nên phải xử nặng hơn để có tác dụng giáo dục chung. 2.2.3.3 Nguyên nhân từ yếu tố chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của một số Thẩm phán, Hội thẩm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Là một tỉnh khó khăn và thuộc vùng cao nguyên phía Tây của cả nước, Đắk Lắk gặp nhiều khó khăn trong việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho tỉnh, trong đó có việc thu hút những cử nhân luật. Việc đảm bảo cho đội ngũ Thẩm phán hiện tại trên địa bàn tỉnh đáp ứng được những điều kiện về trình độ chuyên môn một cách vững vàng đã là điều không dễ dàng, nên việc giúp cho họ nâng cao hơn nữa trình độ lại càng là một khó khăn bởi tình hình kinh tế, xã hội nhiều khi không cho phép. Hiện nay, ngành Tòa án nói chung cũng như ngành Tòa án Đắk Lắk nói riêng vẫn chưa có một quy chế riêng về đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán và Hội thẩm, chỉ có "Quy tắc ứng xử của cán bộ công chức ngành TAND". 16 2.2.3.4. Nguyên nhân từ cơ chế bổ nhiệm Thẩm phán chưa thật sự khiến cho nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật được vận hành trôi chảy. Thủ tục bổ nhiệm Thẩm phán hiện nay cũng là vấn đề ảnh hưởng đến độc lập xét xử của Thẩm phán. Việc bổ nhiệm một Thẩm phán qua nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều thủ tục, nhiều "cửa" sẽ đảm bảo hơn về chất lượng Thẩm phán. Tuy nhiên, chính nhiều “cửa" đó cũng sẽ sinh ra nhiều yếu tố tác động đến Thẩm phán hơn. Công tác tổ chức tập huấn Hội thẩm cũng chưa được quan tâm đúng mực, tổ chức không thường xuyên, nội dung tập huấn mới chỉ chú trọng vào nội dung của BLTTHS, Bộ luật Tố tụng dân sự, thời gian tập huấn còn quá ngắn. Nội dung kỹ năng xét xử và các văn bản pháp luật khác hầu như không được đề cập đến gây ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. Chế độ ưu đãi đối với Thẩm phán và Hội thẩm. Thẩm phán hiện nay hưởng lương theo ngạch hành chính của các cán bộ, công chức bình thường. Nhất là đối với một tỉnh cao nguyên khó khăn như Đắk Lắk, việc thiếu thốn nhiều điều kiện cơ sở vật chất đã khó khăn, cán bộ ngành Tòa án lại càng vất vả hơn trong cuộc sống hằng ngày bởi điều kiện kinh tế và khả năng trang trải cuộc sống. 2.2.3.5. Một số nguyên nhân khác. Giữa Tòa án và cơ quan Đảng có mối quan hệ khá chặt chẽ với nhau. Tổ chức cơ sở đảng được thành lập ở các cơ quan trong bộ máy Nhà nước trong đó có Tòa án. Sự chi phối là điều không thể tránh khỏi nếu bản thân lãnh đạo của những người Thẩm phán, Hội thẩm này không thật sự nghiêm túc và coi thường nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường cũng là một trong những tác nhân. Bởi Đắk Lắk là một tỉnh nghèo, khó khăn với các điều kiện kinh tế, xã hội hạn chế. Điều cần lưu ý, ở Đắk Lắk chủ yếu là đồng bào dân tộc Tây Nguyên sinh sống, chính trình độ dân trí không cao so với mặt bằng chung của nhiều tỉnh đồng bằng khiến cho nhận thức và khả năng tiếp nhận thông tin từ dư luận của đồng bào sẽ bị hạn chế hơn rất nhiều, nên việc đề cao cảnh giác trước mọi luồng thông tin xấu của các phần tử chống phá Nhà nước, có thể gây kích động cho bà con là điều luôn được đề cao. 17 Chương 3 NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT 3.1 Những yêu cầu cải cách tư pháp về nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật Các quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay là: - Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng gọn nhẹ, tinh giản, đấu tranh phòng ngừa tội phạm, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. - Đổi mới mô hình TTHS theo hướng mở rộng tranh tụng, bảo đảm dân chủ, công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động TTHS, hạn chế đến mức thấp nhất và khắc phục kịp thời oan sai trong TTHS. - Tăng cường hợp tác quốc tế trong TTHS góp phần đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm xuyên quốc gia. Trên cơ sở thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành TTHS ở Việt Nam hiện nay, định hướng của Đảng về cải cách tư pháp khi tiến hành nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nói riêng cần phải thực hiện theo những định hướng sau: Thứ nhất, cải cách tư pháp phải dựa trên quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Thứ hai, bảo đảm địa vị cao nhất của pháp luật trong thực tiễn đời sống xã hội, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nước và thực trạng đấu tranh, xử lý tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Thứ ba, đối với Toà án, Nghị quyết số 49-NQ/TW đề ra nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án theo hướng tổ chức Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào địa giới hành chính. Thứ tư, nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật phải đặt trong bối cảnh đổi 18 mới thể chế, cải cách hành chính, cải cách lập pháp và đặc biệt là nâng cao vai trò, vị trí của người Thẩm phán. Thứ năm, cải cách tư pháp, nâng cao hiệu quả nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật phải đảm bảo sự kế thừa tinh hoa truyền thống dân tộc song hành cùng hội nhập quốc tế. 3.2 Những giải pháp để nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật 3.2.1 Triển khai thực hiện Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 Ngày 24 tháng 11 năm 2014, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) và Nghị quyết thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), đây là một căn cứ pháp lý quan trọng trong việc khẳng định vị trí, chức năng, nhiệm vụ cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành Tòa án nói chung và của Thẩm phán, Hội t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflhs_phan_ba_bay_nguyen_tac_tham_phan_va_hoi_tham_xet_xu_doc_lap_va_chi_tuan_theo_phap_luat_theo_luat.pdf
Tài liệu liên quan