Tóm tắt Luận văn Phạm trù lễ của Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay

Trước Khổng Tử, kể từ thời Chu Công, Lễ đã có hai nghĩa: nghĩa cũ là tế lễ có tính chất

tôn giáo, nghĩa mới là pháp điển phong kiến do Chu Công chế định, có tính cách chính trị, để

duy trì trật tự xã hội. Sau dùng rộng ra ý nghĩa của Lễ chỉ cả phong tục tập quán và sau cùng

qua thời Đông Chu nhất là từ Khổng Tử nó có một nội dung mới, nội dung luận lý chỉ sự kỷ

luật về tinh thần: Người có lễ là người biết tự chủ khắc kỷ

Khổng Tử chủ trương tòng Chu, giữ pháp điển lễ nhạc của Chu Công thì tất nhiên rất

trọng Lễ và buộc vua chúa phải trọng Lễ. Lễ để duy trì trật tự xã hội, có trật tự đó thì vua mới

được tôn, nước mới được trị, nếu vua không trọng lễ thì còn bắt ai trọng nó được nữa.

Chính vì vậy trong việc trị nước cũng như tu thân học đạo, sửa mình để đạt đức “Nhân”

thì “Lễ” là một trong những yếu tố được Khổng Tử rất mực coi trọng. Điều này được thể hiện

rõ trong cuốn Luận ngữ.

Quan niệm về Lễ không chỉ dừng ở Khổng Tử mà nó đã được phát triển và mang những

hàm nghĩa khác nhau trong quan niệm của một số triết gia khác như Mạnh Tử, Tuân tử hay

trong cả Lễ Ký - một tập sách do nhiều nho gia thời Hán viết ra.

Nói tóm lại dù Lễ có được hiểu ở những khía cạnh nào và ở các nhà Nho khác nhau, ở

những giai đoạn lịch sử khác nhau song vẫn lấy tư tưởng Lễ của Khổng Tử làm tiền đề lý

luận bởi mục đích của Nho gia nói chung và Khổng Tử nói riêng là nhằm ổn định trật tự xã

hội và giáo hóa con người. Và chúng ta không thể phủ nhận phạm trù Lễ của Khổng Tử đã ít

nhiều thực hiện được mục đích đó trong lịch sử xã hội Trung Hoa.

pdf13 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 1804 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Phạm trù lễ của Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào giáo dục đạo đức cho sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Công trình trình bày Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức cách mạng, lối sống mới cho thanh niên; phân tích thực trạng đạo đức, lối sống sinh viên; thực trạng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên; đề ra các nhóm giải pháp về giáo dục đạo đức cho sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Công trình “Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam” công bố ngày 26 tháng 8 năm 2005. Tính cho đến nay, đây là cuộc điều tra về vị thành niên và thanh niên lớn nhất, toàn diện nhất ở Việt Nam, là nguồn thông tin bổ ích, đáng tin cậy về tình trạng sức khỏe, đời sống xã hội, thái độ, hoài bão của thế hệ thanh niên Việt Nam ngày nay. Đây là các công trình rất công phu, mỗi tác giả lại có cái nhìn chuyên sâu về từng khía cạnh của đời sống thanh niên hiện nay và từ đó đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao đạo đức xã hội. Song, các tác phẩm còn dừng lại ở những giải pháp ở tầm vĩ mô, chung chung mang tính định hướng mà chưa thực sự cụ thể, phù hợp để xây dựng những chuẩn mực đạo đức cho từng nhóm bộ phận những người Việt Nam, chưa xây dựng được chương trình, biện pháp giáo dục đạo đức hiệu quả cho đối tượng thanh thiếu niên. Một số luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ triết học đã được bảo vệ xoay quanh vấn đề con người, mẫu người, đạo làm người và vấn đề giáo dục đào tạo con người theo những nguyên tắc chuẩn mực đạo đức của nho giáo như: “Tìm hiểu mẫu người quân tử qua hai tác phẩm “Luận Ngữ” và “Mạnh Tử” của Nguyễn Xuân Lộc, “Quan niệm của Nho giáo nguyên thủy về con người qua các mối quan hệ thân - nhà - nước- thiên hạ” của Trần Đình Thảo, “Quan niệm của Khổng Tử về giáo dục” của Nguyễn Bá Cường, “Quan niệm của Khổng Tử về con người và giáo dục đào tạo con người” của Nguyễn Thị Tuyết Mai Mặc dù các luận văn, luận án đều có phạm vi nghiên cứu cụ thể của từng đề tài xong các tác giả ở những mức độ nhất định đã đề cập đến tư tưởng về lễ trong quan hệ mật thiết với các phạm trù đạo đức khác góp phần hình thành nên tính toàn vẹn của mẫu người lý tưởng mà Nho giáo muốn xây dựng. Với thái độ trân trọng những thành tựu nghiên cứu của các học giả đi trước đã cung cấp nhiều kiến thức về phạm trù Lễ cũng như đạo đức, lối sống xã hội vô cùng bổ ích và có giá trị, tôi đã tham khảo, kế thừa có chọn lọc và trung thực nguồn tư liệu quý báu đó trong quá trình thực hiện luận văn của mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích Từ viêc̣ nghiên cứu có hê ̣thống tư tưởng của khổng Tử về Lễ , luâṇ văn đánh giá những giá trị, hạn chế và rút ra bài học lịch sử của nó cùng những kiến nghị đối với sư ̣nghiêp̣ giáo dục đạo đức học sinh Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích nêu trên luận văn sẽ giải quyết một số nhiệm vụ sau: - Trình bày cơ sở hình thành quan niệm Lễ của Khổng Tử - Phân tích phạm trù Lễ và các phạm trù trong mối tương quan với phạm trù Lễ. - Trình bày các nội dung cơ bản trong phạm trù Lễ của Khổng Tử. - Phân tích thực trạng đạo đức học sinh ở Việt Nam hiện nay - Đưa ra ý nghĩa của Lễ đối với việc giáo dục đạo đức học sinh ở Việt Nam và một số kiến nghị cho sự nghiệp giáo dục đạo đức học sinh hiện nay. 4. Đối tượng và phaṃ vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu Phạm trù Lễ của Khổng Tử để từ đó rút ra ý nghĩa của Lễ đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Triết học Nho giáo nguyên thủy bao gồm rất nhiều vấn đề như con người, chính trị - xã hội, giáo dục nhưng ở đây luận văn chỉ nghiên cứu về phạm trù Lễ của Khổng Tử và ý nghĩa của nó đối với việc giáo dục đạo đức học sinh ở Việt Nam hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng - chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về vấn đề đạo đức. Luận văn sử dụng các phương pháp như lịch sử - lôgic, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch 6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn đã làm rõ hơn những nội dung trong quan niệm về Lễ của Khổng Tử và từ đó làm rõ vai trò quan trọng trong tư tưởng Lễ của Khổng Tử đối với việc giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay. - Luận văn góp phần làm phong phú, sâu sắc thêm lý luận và phương pháp giáo dục đạo đức con người qua tìm hiểu Lễ trong triết học Trung Quốc cổ đại nói chung và trong triết học Khổng Tử nói riêng. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy triết học và đạo đức trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp, Trung học phổ thông ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn bao gồm 2 chương, 7 tiết: Chương 1: Quan niệm Lễ của Khổng Tử Chương 2: Ý nghĩa của Lễ trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay. Chương 1 QUAN NIỆM LỄ CỦA KHỔNG TỬ 1.1. Cơ sở hình thành quan niệm Lễ của Khổng Tử 1.1.1. Khổng Tử cuộc đời và sự nghiệp Khổng Tử là người ấp Châu, làng Xương Bình, nước Lỗ nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Khổng Tử sinh vào mùa đông tháng 10 năm Canh Tuất là năm thứ 21 đời vua Linh Vương nhà Chu, tức là năm 551 trước Công Nguyên. Bà Nhan thị có lên cầu tự trên núi aNi Khâu, cho nên khi sinh ra ông mới nhân điềm ấy mà đặt tên ông là Khâu, tên tự là Trọng Ni. Có sách chép rằng trán ông cao và gồ lên cho nên mới đặt tên là Khâu. Khâu nghĩa là cái gò. Khổng Tử tôn phù nhà Chu để giảm bớt cái quyền các nước Chư hầu, giữ quyền vua Chư hầu mà bớt quyền các quan Đại phu. Vì vậy cho nên ông đi chu du khắp thiên hạ mà không tìm được chỗ nào để thi hành cái đạo của mình. Cũng bởi vậy nên ông đã chu du nhiều nước song không được trọng dụng. Cuối đời, thấy thật sự bất lực việc làm chính trị ông về quê dạy học, san định Dịch, Thi, Thư, Lễ, Nhạc của cổ nhân, viết sách Xuân Thu để bộc lộ quan điểm của mình. Nhiều quan điểm của ông thể hiện qua các buổi tọa đàm mà nội dung của nó sau này được trình bày trong “Luận Ngữ” do học trò của ông chép lại. Sau khi Khổng Tử mất, nhất là qua giải pháp tàn khốc “đốt sách, chôn nho” của Tần Thủy Hoàng thì sách của Khổng Tử không còn giữ được là bao. Khi đạo Nho được phục hưng (đời Hán Vũ Đế), sách Nhạc chỉ còn một thiên, được đem ghép vào bộ “Lễ ký” gọi là thiên “Nhạc ký”. Những sách khác được người đương thời sưu tầm, bổ sung tạo thành năm kinh là: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu. 1.1.2. Điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội thời kỳ Xuân Thu Thời Xuân Thu về mặt kinh tế sức sản xuất đã phát triển. Công cụ sản xuất nhất là công cụ bằng sắt bắt đầu xuất hiện việc dùng bò kéo cày trở thành phổ biến. Cùng với sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương nghiệp, buôn bán cũng phát đạt hơn trước. Về chính trị - xã hội, suốt thời Xuân Thu vì mệnh lệnh Thiên tử không được chư hầu tuân thủ, chế độ tông pháp bị phá bỏ, trật tự lễ nghĩa, cương thường xã hội đảo lộn, đạo đức suy vi nên các nước chư hầu đua nhau động binh gây chiến tranh thôn tính và tranh giành địa vị của nhau diễn ra liên miên và vô cùng khốc liệt. Chính vì vậy trong thời kỳ này đã xuất hiện nhiều học thuyết nhằm tìm cách sửa đổi để cứu vớt thiên hạ trong đó có học thuyết của khổng Tử, lấy nhân, nghĩa, lễ, trí để dạy người, lấy cương thường mà hạn chế nhân dục để giữ trật tự ở trong xã hội cho bền vững. 1.2. Khổng Tử bàn về Lễ 1.2.1. Phạm trù Lễ Trước Khổng Tử, kể từ thời Chu Công, Lễ đã có hai nghĩa: nghĩa cũ là tế lễ có tính chất tôn giáo, nghĩa mới là pháp điển phong kiến do Chu Công chế định, có tính cách chính trị, để duy trì trật tự xã hội. Sau dùng rộng ra ý nghĩa của Lễ chỉ cả phong tục tập quán và sau cùng qua thời Đông Chu nhất là từ Khổng Tử nó có một nội dung mới, nội dung luận lý chỉ sự kỷ luật về tinh thần: Người có lễ là người biết tự chủ khắc kỷ Khổng Tử chủ trương tòng Chu, giữ pháp điển lễ nhạc của Chu Công thì tất nhiên rất trọng Lễ và buộc vua chúa phải trọng Lễ. Lễ để duy trì trật tự xã hội, có trật tự đó thì vua mới được tôn, nước mới được trị, nếu vua không trọng lễ thì còn bắt ai trọng nó được nữa. Chính vì vậy trong việc trị nước cũng như tu thân học đạo, sửa mình để đạt đức “Nhân” thì “Lễ” là một trong những yếu tố được Khổng Tử rất mực coi trọng. Điều này được thể hiện rõ trong cuốn Luận ngữ. Quan niệm về Lễ không chỉ dừng ở Khổng Tử mà nó đã được phát triển và mang những hàm nghĩa khác nhau trong quan niệm của một số triết gia khác như Mạnh Tử, Tuân tử hay trong cả Lễ Ký - một tập sách do nhiều nho gia thời Hán viết ra. Nói tóm lại dù Lễ có được hiểu ở những khía cạnh nào và ở các nhà Nho khác nhau, ở những giai đoạn lịch sử khác nhau song vẫn lấy tư tưởng Lễ của Khổng Tử làm tiền đề lý luận bởi mục đích của Nho gia nói chung và Khổng Tử nói riêng là nhằm ổn định trật tự xã hội và giáo hóa con người. Và chúng ta không thể phủ nhận phạm trù Lễ của Khổng Tử đã ít nhiều thực hiện được mục đích đó trong lịch sử xã hội Trung Hoa. 1.2.2. Các phạm trù trong mối tương quan với phạm trù Lễ 1.2.2.1. Mối quan hệ giữa Lễ và Nhân Trong Luận Ngữ khái niệm Nhân được Khổng Tử nhắc tới nhiều lần tùy từng đối tượng, từng hoàn cảnh mà Nhân được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo nghĩa rộng nhất Nhân là nguyên tắc đạo đức. Theo Khổng Tử Nhân là nội dung, Lễ là hình thức của Nhân và Chính danh là con đường để đạt đến điều Nhân. Để đạt được đức Nhân con người phải có Lễ, Lễ là hình thức biểu hiện của Nhân, con người sẽ không đạt được Nhân nếu như: xem, nghe, nói, làm điều trái Lễ. Và vì vậy cũng như nhạc, thi, thư, Lễ là phương tiện để giáo hóa con người. Nếu không có Nhân mà dùng Lễ thì Lễ chỉ là hình thức sáo rỗng mà thôi. 1.2.2.2. Mối quan hệ giữa Lễ và Nghĩa Theo Khổng Tử Nghĩa chính là để cái thích đáng hay cái đạo lý. “Khổng Tử nói: thấy việc nghĩa mà chẳng làm, ấy là người chẳng có khí dõng” (Tử viết: kiến nghĩa bất vi, vô dõng dã) [Luận ngữ, Vi chính, 24]. Hay Khổng Tử còn nói: “Này, đạt nhân là phải có tính chất phác và ngay thẳng”. Theo Khổng Tử Nghĩa trái ngược với lợi “Bực quân tử tinh tường về việc nghĩa, kẻ tiểu nhơn rành rẽ về việc lợi” (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi) [Luận ngữ, Lý nhân, 16]. Nghĩa chính là cơ sở để hình thành Lễ còn Lễ chính là mục tiêu, tiêu chuẩn để xác hành vi có Nghĩa hay không. 1.2.2.3. Mối quan hệ giữa Lễ và Pháp Pháp theo nghĩa hẹp là luật lệ, quy định, là điều luật, hiến lệnh có tính chất khuôn mẫu mà mọi người không phân biệt vua tôi, trên dưới, sang hèn đều phải tuân theo, theo nghĩa rộng pháp có thể hiểu như là thể chế chế độ xã hội. Lễ và Pháp đều là những quy định nhằm ổn định trật tự xã hội. Nếu như Khổng Tử chủ trương giáo hóa con người bằng đạo đức thì Hàn phi lại chủ trương trị nước bằng Pháp. 1.2.2.4. Mối quan hệ giữa Lễ và Nhạc Nhạc cũng như Lễ rất có ảnh hưởng về đường chính trị. “Thanh tâm chi đạo, dữ chính thông hỹ: đạo thanh âm thông với chính trị vậy” (Nhạc ký, XIX). Dùng Nhạc cũng như dùng Lễ phải lấy giữ đạo trung. Nhạc khiến người ta đồng thương, đồng vui. Nhưng thương hay vui đều phải lấy điều hòa làm chủ. Lễ và Nhạc đều dùng để sửa đổi tâm tính cho ngay chính hay nói cách khác Lễ và Nhạc đều là phương tiện nhằm giáo hóa con người góp phần ổn định trật tự xã hội. 1.2.2.5. Mối quan hệ giữa Lễ và Hòa Việc thực hiện Nhân và khôi phục Lễ là Hòa. Tuy nhiên quan điểm Hòa của Khổng Tử còn có phần hạn chế đó là thủ tiêu sự đấu tranh bởi theo ông người nghèo vùng lên đấu tranh là không nên, người quân tử cũng vậy họ chỉ biết nên tranh việc thi bắn mà thôi. 1.3. Một số nội dung cơ bản của Lễ 1.3.1. Lễ là những quy định về nghi thức tế lễ Lễ bái là việc mang ý nghĩa tôn giáo nhưng nó không chỉ là những nghi thức có tính hình thức. Với Khổng Tử, khi tế lễ phải kính cẩn nghiêm túc ông nói “Cư thượng bất khoan, vi lễ bất kính, lâm tang bất ai, ngô hà dĩ quan tri tạng” nghĩa là ở bậc trên mà không khoan nhượng, làm lễ mà không nghiêm túc sẽ gặp việc tang mà không bi thương hạng người đó còn gì cho ta xem xét nữa. Ngoài ra Khổng Tử còn quan tâm tới cả nghi thức, nghĩa vụ, bổn phận của mỗi con người khi tế lễ. Điều đó nghĩa là khi tế lễ phải đúng danh phận của mình, đúng những nghi thức, quy định mà xã hội đã đặt ra thì không được vi phạm nếu vi phạm thì sẽ là người thất lễ, tiếm lễ, tiếm quyền. Khổng Tử không chỉ quy định địa vị cho mỗi con người khi tế lễ mà còn quy định cả cách ăn mặc khi tế lễ. Cách ăn mặc trong lúc tang chế, ở chỗ triều đường hay khi đi trận mạc phải theo Lễ cũng là có ý để gây nên những tình cảm cho xứng đạo nhân. Trong những quy định của Lễ trong việc tế lễ tang ma còn có cả thời gian để tang và cư tang. Ngoài thời gian cư tang còn quy định cách thức cư tang nhất là đối với cha mẹ, nhưng khi cha mẹ chết phải làm nhà tạm ở nơi chôn cất và ở đó ba năm. 1.3.2. Lễ là đường lối trị nước và luật lệ quốc gia Lễ được vận dụng trong lĩnh vực chính trị còn có tên là đường lối trị nước gọi là Lễ trị. Lúc bấy giờ có hai quan điểm khác nhau về đường lối trị nước đó là Pháp trị và Lễ trị. Khổng Tử phê phán Pháp trị và đề cao Lễ trị. Khổng Tử cho rằng dùng đức và Lễ để trị nước thì có sức quy tụ lớn. Ông nói: “Lấy đức làm cơ sở cho chính sự thì như sao Bắc đẩu ở trên trời, chỉ đứng một chỗ mà các sao khác đều chầu về”. Phạm trù Lễ của Khổng Tử còn được dùng về phương diện phân tôn ti trật tự, tức là phép tắc để tổ chức luân lí ở trong gia đình, xã hội và quốc gia. 1.3.3. Lễ là chuẩn mực đạo đức của con người trong xã hội Mục đích cơ bản của Khổng Tử là xây dựng Lễ, xây dựng mẫu người có đạo đức nhân nghĩa mong muốn có một xã hội bình yên theo quan niệm của giai cấp phong kiến đương thời. Trước hết những quan hệ đạo đức đó được thể hiện trong gia đình, tế bào của xã hội mà trước hết là mối quan hệ với cha mẹ, bởi vì cha mẹ là người đầu tiên của các mối quan hệ xã hội. Lễ còn được quy định cả những cách ứng xử của những người có chức, có quyền trong xã hội như trong quan hệ vua tôi Lễ giáo khuyên người ta trong quan hệ với bạn bè phải chân thành thân mật “Cửu nhi kính chi”. Trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức ấy mà con người điều chỉnh hành vi xử thế của mình trong các quan hệ cho phù hợp. 1.3.4. Lễ là công cụ tiết chế hành vi của con người Khổng giáo vốn lấy tình cảm làm trọng nhưng cái tình cảm của con người mà không được hạn chế thì thành hư hỏng. Sự giáo hóa Lễ của Khổng Tử rất sâu sắc. Trong Lễ ký đã viết “Lễ chi giáo hóa giã vi, kỳ chỉ tà giả ư vị hình, sử nhân nhật tỷ thiện, viễn tộ, nhi bất tự tri giã: sự giáo hóa của lễ rất cơ màu, khăn cấm điều bậy ngay lúc chưa hình ra khiến người ta ngày ngày đến gần điều thiện tránh xa điều tội mà tự mình không biết”. Kết luâṇ chương 1 Lễ là một trong những phạm trù đạo đức có ý nghĩa rất phổ biến trong đời sống văn hóa tinh thần của người Trung Quốc; và cũng là một trong năm đức cơ bản nhất của con người trong thuyết “ngũ thường” của Nho gia là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Lễ là phạm trù xã hội tổng hợp, bao gồm những nghi thức trong tế lễ, những nguyên tắc về tổ chức và hành động chính trị, những chuẩn mực về tư tưởng và hành vi của con người nhằm bảo đảm trật tự và sự yên bình của xã hội phong kiến Tông pháp Trung Quốc đương thời. Lễ còn được coi là đường lối chính trị gọi là “Lễ trị” xã hội có trật tự được xem là xã hội có lễ, con người có đạo đức được đánh giá là con người có lễ: Hiểu lễ là điều kiện để hiểu được thực chất các phạm trù và các khái niệm khác của học thuyết Khổng Tử. Chương 2 Ý NGHĨA CỦA LỄ TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Khái quát quá trình du nhập Lễ của Khổng giáo ở Việt Nam Một dân tộc tiếp thu tư tưởng văn hóa của một dân tộc khác là một việc làm thường thấy trong lịch sử. Việt Nam tiếp thu Khổng giáo trong lịch sử cũng là một việc làm khách quan. Lễ được du nhập vào nước ta lúc đầu không phải là kết quả của sự trao đổi văn hóa giữa hai quốc gia, hai dân tộc. Nó cũng không phải là quá trình “gặp gỡ” tự phát hay tự giác nào mà là sự xâm nhập của một nền văn hóa nước lớn đối với một nước nhỏ bị gọi là “Man di”. Sự du nhập của Lễ vào Việt Nam là để thực hiện mục đích đồng hóa người Việt Nam của phong kiến phương Bắc. Lễ giáo trong quá trình du nhập, truyền bá vào nước ta đã gặp phải sự đấu tranh quyết liệt, trước hết là của truyền thống văn hóa Việt Nam, được biểu hiện bằng những cuộc nổi dậy của quần chúng nhân dân chống lại bọn xâm lược, chống mọi âm mưu đồng hóa. Sự diễn biến về tư tưởng người Việt Nam trong lịch sử không chỉ có sự tác động của riêng lễ giáo mà còn là sự tác động chung của tam giác (Thế kỷ XVI), nghĩa là ngoài nho giáo ra còn chịu ảnh hưởng của cả phật giáo và đạo giáo. 2.2. Thực trạng đạo đức học sinh hiện nay Hiện nay, ở nước ta sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã có bước phát triển cả về qui mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất. Bên cạnh đó khi đất nước bước vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế cũng đặt ra rất nhiều thách thức cho ngành giáo dục đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ ngày nay. Cùng với sự phát triển kinh tế là sự gia tăng khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, các khuyết tật của nền kinh thị trường cũng xuất hiện và tác động mạnh mẽ tới nhận thức và tư tưởng của nhân dân. Những biểu hiện đáng báo động về đạo đức, lối sống trong một bộ phận học sinh là điều cần được quan tâm và cần phải có những biện pháp kịp thời. Song trước tiên cần tìm hiểu nguyên nhân nào đã dẫn đến những hiện tượng trên. Thứ nhất, Ngành giáo dục những năm qua đã đạt được nhiều thành tích quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần vào thành tựu phát triển kinh tế, giải quyết những vấn đề khoa học xã hội, từng bước đưa Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nhìn lại trước yêu cầu của sự phát triển, giáo dục và đào tạo đang đứng trước nhiều thách thức lớn. Thứ hai, bên cạnh việc chưa thực sống trong môi trường sư phạm nhân văn thì một bộ phận học sinh khi về nhà lại phải sống trong môi trường dạy dỗ bạo lực. Thứ ba, những tác động tiêu cực từ xã hội đó là tác động của phim ảnh, sách báo, trò chơi bạo lực, phản giáo dục cũng như do ảnh hưởng của công nghệ thông tin, đặc biệt là do ảnh hưởng của mạng intenet. 2.3. Môṭ số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh Việt Nam hiện nay 2.3.1. Phạm trù Lễ trong triết học Khổng Tử với việc giáo dục đạo đức học sinh Việt Nam hiêṇ nay Phạm trù Lễ trong triết học Khổng Tử là phạm trù nếu gạt bỏ những yếu tố mâu thuẫn, những hạn chế về mặt lịch sử, những ràng buộc bởi lợi ích giai cấp thì có thể vận dụng vào nhiều môi trường như học đường, gia đình, xã hội để góp phần vào việc khắc phục những diễn biến phức tạp của đạo đức trong xã hội, hàm dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện làm cho con người ngày càng hoàn thiện hơn. Với nội dung Lễ của Khổng Tử chúng ta có thể vận dụng những nội dung phù hợp với điều kiện của từng địa phương, của từng chủ thể đạo đức cho phù hợp, nhằm nâng cao hiệu quả chiến lược giáo dục toàn diện. Dùng Lễ để góp phần bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tự giác làm điều thiện, đề cao thực hành đạo đức, tu dưỡng đạo đức cá nhân Việc dùng Lễ để giáo dục học sinh là biện pháp để nuôi dưỡng những tình cảm tốt đẹp, cổ động những hành vi đạo đức, uốn nắn những hành vi chưa thật sự phù hợp, phòng ngừa những mầm họa, những hành vi quá khích, quá lố, cự đoan. Dùng Lễ để rèn luyện năng lực tiết chế cảm xúc, hành vi trước những tác động của ngoại cảnh, góp phần điều chỉnh các mối quan hệ xã hội hài hoà Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội, ở mỗi mối quan hệ con người có vai trò, trách nhiệm khác nhau nên có cách xử sự khác nhau. Để duy trì được hoà khí con người phải sử dụng Lễ để cư xử cho phù hợp. Dùng Lễ để giúp các em phân biệt trên dưới, tôn ti trật tự để các em ý thức hơn về phạm vi của mình là một điều cần thiết giúp các em ăn ở cho phải đạo. Dùng Lễ để góp phần tạo lập môi trường đạo đức, hình thành đời sống tinh thần lành mạnh Đạo đức trong thanh thiếu niên đang biến đổi quá nhanh. Một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên đã bị tiêm nhiễm bởi lối sống ích kỷ, chỉ biết đến bản thân, không quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ người khác, vô lễ với người trên, bất hiếu với cha mẹ, lười học, dối trá, xa vào tệ nạn xã hội như nghiện hút, mại dâm Nếu áp dụng những nội dung của Lễ thì sẽ góp phần hình thành những kỷ cương trật tự trong nhà trường, gia đình và xã hội, các em sẽ được hấp thụ bởi bầu không khí lễ nghĩa, hoà thuận, biết chấp nhận sự khác biệt để cư xử cho hợp Lễ. Lễ không phải là phương tiện cũng như phương pháp duy nhất trong việc tìm kiếm những định hướng giá trị đạo đức cho học sinh hiện nay. Một nền giáo dục hiện đại, thông minh là nền giáo dục coi trong việc giáo dục đạo đức bên cạnh dạy kiến thức, thực hiện song hành giữa dạy người và dạy chữ. 2.3.2. Một số kiến nghị cho sự nghiệp giáo dục đạo đức học sinh Việt Nam hiện nay Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội trong nhà trường Để tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, phòng chống tội phạm trong nhà trường, trước hết tạo điều kiện cho học sinh học tập chủ nghĩa Mác-Lênin. Bên cạnh việc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, nhà trường còn tạo điều kiện cho các em học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Từ đó, dần dần trang bị cho mình những chuẩn mực đạo đức cách mạng. Song song với quá trình trang bị tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh của mình, nhà trường cần tạo cho học sinh môi trường học đường an toàn. Nhằm tạo sự chuyển biến nhận thức của học sinh về vấn đề đạo đức, lối sống, nhà quản lý giáo dục, và người trực tiếp làm công tác giáo dục phải hiểu đối tượng được giáo dục là ai, có đặc trưng gì, thường có biểu hiện gì Phải hiểu tâm lý, tính cách của đối tượng học sinh được giáo dục Nhà giáo dục vĩ đại người Nga Usinxki nói rằng: Muốn giáo dục con người về mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt. Phải hiểu tâm lý, tính cách thanh thiếu niên, phải tạo điều kiện để thanh thiếu niên được học hành, tu dưỡng, tự rèn luyện. Do đó, không thể xem nhẹ việc giáo dục đạo đức, không thể coi giáo dục đạo đức là kết quả đương nhiên của dạy trí. Muốn vậy, phải coi giáo dục đạo đức là một khoa học thực sự, có đối tượng, có nội dung, có phương pháp đặc thù. Để hiểu tâm lý các em, giáo viên cần thường xuyên cập nhật những tài liệu chuyên về tâm lý của từng lứa tuổi, lối sống của giới trẻ, những thay đổi của xã hội. Khi xã hội thay đổi, điều kiện kinh tế xã hội thay đổi thì tâm sinh lý của trẻ em cũng có nhiều biến đổi mà các tài liệu ở giảng đường đại học chưa thể dự biến được. Để tạo điều kiện cho giáo viên nâng cao sự hiểu biết về tâm lý học sinh, ngành giáo viên cần tổ chức các lớp bồi dưỡng thường xuyên theo chu kỳ cho giáo viên. Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục của các tổ chức thanh niên, nhà trường, các đoàn thể xã hội với quá trình tự tu dưỡng, tự rèn luyện của thanh niên Thực hiện thành công sự nghiệp giáo dục con người toàn diện, trong đó chú trọng cả dạy chữ và dạy người cần phát huy sức mạnh tổng hợp của sự phối kết giữa gia đình, nhà trường với các tổ chức thanh niên, các tổ chức nhà trường, các đoàn thể xã hội. Tăng cường vai trò của tổ chức Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên, Hội cha mẹ học sinh, Hội chữ thập đỏ,... trong việc tổ chức cho học sinh tự rèn luyện, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng để thực hiện tốt công tác giáo dục học sinh toàn diện. Coi giáo dục Lễ như một môn khoa học về đạo làm người của học sinh Dân tộc ta đã có truyền thống giáo dục lâu đời dựa trên phương châm “Tiên học Lễ, hậu học Văn”. Đó là một di sản quí báu. Mỗi thời đại giải thích phương châm này theo cách của mình nhưng cái chung nhất vẫn là đề cao những giá trị đạo đức, đề cao việc làm người. Chúng ta phải thấy được chính đạo đức là yếu tố quan trọng hình thành nhân cách của mỗi con người. Chính vì vậy cần phải đưa việc giáo dục Lễ nói riêng và đạo đức nói chung trở thành môn khoa học trong mỗi nhà trường để giúp các em ngay từ bước chân đầu đời phải hiểu được tại sao phải “Tiên học Lễ” rồi mới “Hậu học Văn”. Tăng cường giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh Hành vi đạo đức của trẻ đầu tiên bị điều khiển bởi người khác qua những hướng dẫn trực tiếp, sự giám sát, sự trừng phạt, phần thưởng và sửa chữa cho đúng, hình thành trong trẻ quan điểm về đạo đức. Vấn đề đặt ra làm thế nào xây dựng được cầu nối từ thông tin, tình cảm, thái độ đến sự thay đổi của h

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfy_pham_tru_le_cua_khong_tu_va_y_nghia_cua_no_8812_1997133.pdf
Tài liệu liên quan