MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .1
1. Tính cấp thiết của đề tài. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. 2
3. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 3
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu . 4
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu . 4
7. Bố cục của luận văn. 5
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH. 6
1.1. Đặc điểm của lao động làm việc trong các khu công nghiệp. 6
1.2. Khái niệm bảo đảm quyền của người lao động trong các khu công
nghiệp. 7
1.3. Nội dung pháp luật về các cách thức, biện pháp bảo đảm quyền của
người lao động trong các khu công nghiệp . 7
1.3.1. Người lao động tự bảo vệ . 7
1.3.2. Bảo đảm quyền của người lao động bằng việc ghi nhận các quyền
cụ thể của người lao động. 8
1.3.3. Bảo đảm quyền của người lao động thông qua các thiết chế quản
lý nhà nước . 8
1.3.4. Bảo đảm quyền của người lao động thông qua tổ chức công đoàn 9
1.3.5. Bảo đảm quyền của người lao động thông qua con đường tòa án10
1.4. Các yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền của người lao động
trong các khu công nghiệp. 10
1.4.1. Ý thức pháp luật của người lao động . 10
1.4.2. Yếu tố chính sách, pháp luật lao động . 11
1.4.3. Yếu tố năng lực quản lý nhà nước về lao động. 12
Kết luận chương 1. 13Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH.15
2.1. Tình hình về hoạt động các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình
Định. 15
2.2. Thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động trong
các khu công nghiệp qua thực tiễn của tỉnh Bình Định . 15
2.2.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về biện pháp tự bảo vệ
của người lao động trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình
Định. 15
2.2.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về bảo đảm quyền của
người lao động bằng việc ghi nhận các quyền cụ thể của người lao động
trên địa bàn tỉnh Bình Định . 16
2.2.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về bảo đảm quyền của
người lao động thông qua các thiết chế quản lý nhà nước. 17
2.2.4. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về bảo đảm quyền của
người lao động thông qua tổ chức công đoàn . 18
2.2.5. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện bảo đảm quyền của
người lao động thông qua con đường tòa án . 18
Kết luận chương 2. 19
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG .21
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động . 21
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bảo đảm quyền của người lao động phải dựa trên đường lối, quan điểm
của Đảng trong lĩnh vực lao động . 21
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bảo đảm quyền của người lao động đặt trong bối cảnh hội nhập khu vực
và quốc tế. 213.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bảo đảm quyền của người lao động. 22
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của người lao
động. 22
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người lao động
trong các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Định .22
Kết luận chương 3. 23
PHẦN KẾT LUẬN . 24
29 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 639 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động - Qua thực tiễn các khu công nghiệp của tỉnh Bình Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o vệ quyền của người lao động trong các khu
công nghiệp; các Báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội, Ban quản lý Khu kinh tế, Liên đoàn lao động
tỉnh Bình Định
Phương pháp phân tích các quy phạm của luật thực định có liên
quan đến tên đề tài của luận văn.
Phương pháp tổng hợp các quan điểm khác nhau về nhận thức
khoa học xung quanh các khái niệm, các quy phạm pháp lý có liên quan
đến bảo đảm quyền của người lao động trong các khu công nghiệp.
Phương pháp thống kê các số liệu thực tiễn trong quá trình áp dụng
các quy phạm có liên quan đến tên đề tài của luận văn.
Phương pháp so sánh luật học nhằm đối chiếu với các quy định
pháp luật về quyền của người lao động...
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật về
bảo đảm quyền của người lao động trong các khu công nghiệp; các Nghị
quyết, chính sách ban hành của tỉnh Bình Định về bảo đảm quyền của
người lao động trong các khu công nghiệp.
4
- Thực tiễn bảo đảm quyền của người lao động trong các khu công
nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của người
lao động trong các khu công nghiệp tỉnh Bình Định.
- Về thời gian: từ năm 2013 đến nay.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của pháp
luật về bảo đảm quyền của người lao động trong các khu công nghiệp,
thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật này tại tỉnh Bình Định để từ đó
phân tích, đánh giá, tổng hợp nhằm tìm ra các giải pháp hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền của người lao động trong các
khu nghiệp trên địa bàn tỉnh Bình Định.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ đặc điểm của người lao động làm việc trong các khu
công nghiệp;
- Phân tích các cách thức, biện pháp bảo đảm quyền của người lao
động cũng như các yếu tố tác động đến bảo đảm quyền của người lao
động trong các khu công nghiệp;
- Phân tích, đánh giá thực trạng về các cách thức, biện pháp bảo
đảm quyền của người lao động trong các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bình Định để chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những tồn tại,
hạn chế và luận giải nguyên nhân của chúng;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
bảo đảm quyền của người lao động trong các khu công nghiệp.
6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Tại sao cần phải bảo đảm quyền của người lao động trong các
khu công nghiệp?
5
- Các cách thức, biện pháp bảo vệ quyền của người lao động được
quy định như thế nào?
- Thực trạng việc thực thi pháp luật về các cách thức, biện pháp
bảo vệ quyền của người lao động trong các khu công nghiệp qua thực
tiễn tỉnh Bình Định như thế nào?
- Nguyên nhân của những hạn chế của việc thực thi pháp luật về
các cách thức, biện pháp bảo vệ quyền của người lao động trong các khu
công nghiệp qua thực tiễn tỉnh Bình Định như thế nào?
- Đề xuất các giải pháp tháo gỡ các vướng mắc như thế nào?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Hoạt động của các khu công nghiệp nói chung và trên địa bàn
tỉnh Bình Định đã ảnh hưởng đến quyền của người lao động.
- Các cách thức, biện pháp bảo đảm quyền của người lao động
trong các khu công nghiệp được áp dụng không có hiệu quả trên thực tế.
7. Bố cục của luận văn
Với mục đích, phạm vi nghiên cứu đã được xác định như trên, luận
văn được xây dựng theo bố cục như sau:
Phần mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền của người lao
động trong các khu công nghiệp và pháp luật điều chỉnh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền của người lao
động trong các khu công nghiệp và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh
Bình Định.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
bảo đảm quyền của người lao động trong các khu công nghiệp trên địa
bàn tỉnh Bình Định.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
1.1. Đặc điểm của lao động làm việc trong các khu công nghiệp
Đặc điểm của lao động trong các khu công nghiệp:
- Lao động nhập cư đến làm việc tại các khu công nghiệp
Phát triển khu công nghiệp tạo ra một kênh thu hút lao động rất có
tiềm năng và hiệu quả, góp phần quan trọng giải quyết việc làm cho
người lao động. Sự gia tăng nhanh về số lượng của các dự án đầu tư
trong nước và nước ngoài thực hiện tại các khu công nghiệp trong các
ngành sử dụng nhiều lao động đã tạo ra lực hút mạnh đối với lao động
nhập cư đến làm việc tại các khu công nghiệp. Lao động di cư tới các
khu công nghiệp đã đóng một vai trò không nhỏ trong việc cung ứng
nguồn lao động và bù đắp sự thiếu hụt lực lượng lao động, đặc biệt là
nguồn lao động giản đơn và không có chuyên môn kỹ thuật, góp phần
quan trọng vào sự phát triển sản xuất, kinh doanh và thành công của các
doanh nghiệp trong khu công nghiệp, đặc biệt là đối với các doanh
nghiệp thuộc các ngành gia công xuất khẩu và sử dụng nhiều lao động.
- Vị trí làm việc công nghiệp của họ.
Mỗi công nhân đảm nhiệm công việc cụ thể, ở một khâu cụ thể
trong một dây chuyền sản xuất hàng loạt. Nên họ được nhà máy đào tạo
nghề trong một thời gian ngắn (tối đa chỉ khoảng 1 tháng với những vị
trí yêu cầu trình độ kỹ thuật, có những vị trí đơn giản chỉ cần 2 ngày).
Chính vì công việc đòi hỏi thao tác công nghiệp cụ thể nên trong số lao
động được tuyển vào doanh nghiệp thì lao động giản đơn và không có
chuyên môn kỹ thuật chiếm chủ yếu. Với hành trang, trình độ học vấn
cũng như kỹ năng tay nghề hạn chế như vậy, họ rất khó khăn trong tìm
kiếm việc làm, ổn định cuộc sống nơi đô thị. Ðồng thời do hiểu biết còn
7
hạn chế nên không ít người lao động thường chỉ quan tâm đến thu nhập
thực tế chứ không chú ý tới các chế độ, chính sách, quyền lợi được pháp
luật lao động bảo vệ.
1.2. Khái niệm bảo đảm quyền của người lao động trong các
khu công nghiệp
Quyền của người lao động là những quyền liên quan đến người lao
động và người sử dụng lao động. Dưới góc độ pháp lý, quyền chủ thể là
khả năng của chủ thể xử sự theo một cách thức nhất định khi tham gia
quan hệ pháp luật.
Theo cách hiểu thông thường trong tiếng Việt, “bảo đảm” có
nghĩa là làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có những
gì cần thiết. Do vậy, bảo đảm quyền của người lao động trong các khu
công nghiệp được hiểu: là các cách thức, biện pháp làm cho các quyền
của người lao động trong các khu công nghiệp không chỉ là các quy định
trong pháp luật mà phải được thực hiện trên thực tế cuộc sống và có khả
năng phục hồi các quyền của người lao động nếu nó bị xâm hại.
1.3. Nội dung pháp luật về các cách thức, biện pháp bảo đảm
quyền của người lao động trong các khu công nghiệp
1.3.1. Người lao động tự bảo vệ
Tự bảo vệ của người lao động là trạng thái tâm lý pháp luật của
người lao động đối với pháp luật, được thể hiện ở sự yêu, ghét, quan tâm
hay thờ ơ đối với pháp luật. Thành ngữ tiếng La-tinh có câu Nemo
cencetur ignorare legem có nghĩa là Không ai được coi như không biết
pháp luật. Do đó, biện pháp tự bảo vệ là biện pháp thể hiện tính định
đoạt cao nhất của chủ thể, là việc người lao động tự mình tiến hành các
biện pháp trong khuôn khổ pháp luật nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình. Ngay khi phát hiện ra có hành vi xâm phạm, người lao
động có thể tự mình thực hiện để bảo vệ, ngăn chặn các hành vi xâm hại
tới quyền của mình hoặc cũng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền buộc chấm dứt những hành vi đó hoặc đi kiện.
8
1.3.2. Bảo đảm quyền của người lao động bằng việc ghi nhận
các quyền cụ thể của người lao động
Hệ thống quy phạm pháp luật bảo đảm quyền của người lao động
trong các khu công nghiệp ở Việt Nam không nằm gọn trong một ngành
luật nào, mà tồn tại ở nhiều ngành luật khác nhau. Xem xét về quyền của
người lao động trong các văn bản pháp luật cho thấy, nội dung bảo đảm
quyền của người lao động trong các khu công nghiệp bằng việc ghi nhận
các quyền cụ thể của người lao động như sau:
- Bảo đảm việc làm cho người lao động
- Bảo đảm quyền được hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng
nghề trên cơ sở thoả thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao
động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ sinh lao
động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và được hưởng phúc
lợi tập thể
- Bảo đảm quyền được thành lập, gia nhập, hoạt động Công đoàn
của người lao động
- Bảo đảm quyền đình công của người lao động
1.3.3. Bảo đảm quyền của người lao động thông qua các thiết
chế quản lý nhà nước
Một trong những hoạt động thể hiện vai trò quản lý của Nhà nước
trong quan hệ lao động là tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp
luật lao động tại các doanh nghiệp. Đây là một hoạt động có tác dụng
tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao nhận thức thi hành nghiêm
túc các qui định của pháp luật lao động, kịp thời uốn nắn các lệch lạc,
sai trái, giúp các doanh nghiệp phòng ngừa và hạn chế các vi phạm pháp
luật lao động, tranh chấp lao động. Theo nội dung này, các hành vi vi
phạm trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội sẽ bị xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội như: tuyển, quản lý
lao động; giao kết hợp đồng lao động; thử việc; thực hiện hợp đồng lao
động; về sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động; tiền lương; thời
giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất;
lập hồ sơ để hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
9
1.3.4. Bảo đảm quyền của người lao động thông qua tổ chức
công đoàn
Nguyên tắc quan hệ lao động là quan hệ mang tính bình đẳng.
Người lao động muốn làm việc cho người sử dụng lao động hay không
là quyền của họ. Nhưng một khi đã tham gia vào một quan hệ lao động
cụ thể nào rồi thì dù muốn hay không thì người lao động cũng ở vào "thế
yếu" hơn so với người sử dụng lao động. Điều này cũng dễ hiểu bởi trên
thực tế hiện nay, người lao động do sức ép của việc làm, thu nhập mà họ
thường chấp nhận thua thiệt. Do vậy, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người lao động không chỉ là trách nhiệm của riêng ai mà là vấn đề
chung của toàn xã hội, trong đó thiết thực nhất vẫn là tổ chức công đoàn.
Công đoàn là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam và
công đoàn có quyền cùng với cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên
chức và những người lao động khác. Công đoàn cơ sở thực hiện vai trò
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên
công đoàn, người lao động; tham gia, thương lượng, ký kết và giám sát
việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể, thang lương, bảng lương, định
mức lao động, quy chế trả lương, quy chế thưởng, nội quy lao động, quy
chế dân chủ ở doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức; tham gia, hỗ trợ giải
quyết tranh chấp lao động; đối thoại, hợp tác với người sử dụng lao động
xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ tại doanh nghiệp, cơ
quan, tổ chức. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận và quy định
cho tổ chức công đoàn có một vị trí, vai trò to lớn trong hệ thống chính
trị - xã hội. Công đoàn có nhiều chức năng như tham gia quản lý Nhà
nước; chức năng bảo vệ lợi ích công nhân, viên chức, lao động; chức
năng giáo dục nhưng cơ bản và trung tâm nhất vẫn là chức năng bảo vệ
người lao động.
10
1.3.5. Bảo đảm quyền của người lao động thông qua con đường
tòa án
Tranh chấp lao động nếu chỉ phát sinh giữa một người lao động và
người sử dụng lao động, hoặc đối tượng tranh chấp chỉ liên quan đến
một người - cá nhân người lao động, thì đó là tranh chấp lao động cá
nhân. Sự ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp chỉ
ở mức độ hạn chế. Tuy nhiên, nếu tranh chấp xảy ra giữa tập thể người
lao động và người sử dụng lao động trong phạm vi toàn doanh nghiệp thì
lúc đó tranh chấp sẽ có tác động tiêu cực rất lớn đến sản xuất và nhiều
khi còn ảnh hưởng đến cả an ninh trật tự công cộng. Vì thế hậu quả pháp
lý cũng có những biểu hiện khác nhau và vì tính chất ấy các quy định áp
dụng để giải quyết, các cơ chế giải quyết cũng có sự khác nhau.
Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều định ra một cơ chế
giải quyết những bất đồng, xung đột của hai bên chủ thể trong mối quan
hệ lao động. Việc giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án được thực
hiện bởi tòa án với tư cách là cơ quan tài phán mang tính quyền lực nhà
nước và được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ. Xét về
nguyên tắc, các vụ tranh chấp lao động, đình công chỉ được giải quyết
tại Tòa án sau khi đã qua hòa giải hoặc trọng tài không thành.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, người lao động và đại diện
cho người lao động được quyền khởi kiện vụ án lao động, quyền yêu cầu
giải quyết đình công. Đây là cơ sở để người lao động tự bảo vệ quyền lợi
của mình khi có sự xâm hại từ phía người sử dụng lao động.
1.4. Các yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền của người lao
động trong các khu công nghiệp
1.4.1. Ý thức pháp luật của người lao động
Ý thức pháp luật của người lao động thể hiện ở sự hiểu biết về các
quyền cơ bản và cơ chế bảo vệ quyền của người lao động. Sự hiểu biết
pháp luật trước hết sẽ giúp họ tự phòng, tránh sự vi phạm pháp luật từ
phía người sử dụng lao động; đấu tranh bảo vệ quyền lợi hợp pháp,
11
chính đáng của mình khi bị người sử dụng lao động hoặc các chủ thể
khác xâm phạm.
Do vậy, bảo đảm quyền của người lao động chỉ thực sự có hiệu
quả nếu người lao động thể hiện vai trò chủ động của mình trong việc tự
bảo vệ. Nếu người lao động không có ý thức tự bảo vệ mình, thờ ơ
quyền lợi chính đáng của mình thì Nhà nước hay bất kỳ chủ thể nào
cũng không thể can thiệp được với mục đích bảo đảm quyền cho họ.
1.4.2. Yếu tố chính sách, pháp luật lao động
Trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của nước ta cùng
với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, hệ thống chính sách, pháp luật về lao động cũng được đổi mới,
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Hệ thống chính sách, pháp luật về lao
động đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp với chủ trương, đường lối của
Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù
hợp với Hiến pháp năm 2013; phù hợp với các tiêu chuẩn của Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Năm 1994, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao động và đã qua 4
lần sửa đổi, bổ sung. Năm 2012, Quốc hội đã ban hành Bộ luật Lao động
sửa đổi trên cơ sở kế thừa những nhân tố phù hợp của Bộ luật Lao động
năm 1994 và sửa đổi những điểm bất hợp lý, bổ sung nhiều điểm mới
cho phù hợp với quá trình phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Ngoài
ra, Quốc hội còn ban hành Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề
nghiệp năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật An toàn, vệ
sinh lao động năm 2015, Theo đó, Chính phủ và các bộ, ngành cũng
ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật
nêu trên. Việc tạo ra hành lang pháp lý đã tạo điều kiện quan trọng cho
việc hình thành và phát triển thị trường lao động. Tuy nhiên, để bảo đảm
quyền của người lao động trong các khu công nghiệp cần phải tiếp tục
được đánh giá để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các thông lệ quốc tế
và cam kết quốc tế của Việt Nam, nhất là các chính sách liên quan trực
12
tiếp đến người lao động và chi phí của doanh nghiệp như tiền lương tối
thiểu, giờ làm thêm, bảo hiểm xã hội... Đây là những chính sách liên
quan chặt chẽ giữa lợi ích của người lao động và người sử dụng lao
động. Vì vậy, cần phải tăng cường đối thoại, thương lượng để phương án
lựa chọn bảo đảm tính hài hòa, tạo động lực làm việc cho người lao
động và sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm tính
cạnh tranh cho các doanh nghiệp hoạt động.
1.4.3. Yếu tố năng lực quản lý nhà nước về lao động
Năng lực quản lý nhà nước về lao động thể hiện ở chất lượng và
hiệu quả thực hiện các nội dung quản lý đã được đề cập trên đây. Trên
phạm vi toàn quốc hay tại một địa phương cụ thể, nếu thực hiện các nội
dung đó có chất lượng và hiệu quả thì đương nhiên nó sẽ có ảnh hưởng
tốt tới việc thực thi pháp luật và ngược lại. Nguồn lực đảm bảo thực hiện
là yếu tố quyết định trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của tất cả các
công việc trên, trong đó điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất và tài
chính là những nguồn lực đặc biệt quan trọng.
13
Kết luận chương 1
Qua nghiên cứu chương 1, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Một là, phát triển khu công nghiệp tạo ra một kênh thu hút lao động
rất có tiềm năng và hiệu quả, góp phần quan trọng giải quyết việc làm
cho người lao động. Sự gia tăng nhanh về số lượng của các dự án đầu tư
trong nước và nước ngoài thực hiện tại các khu công nghiệp trong các
ngành sử dụng nhiều lao động đã tạo ra lực hút mạnh đối với lao động
nhập cư đến làm việc tại các khu công nghiệp. Nên trong số lao động
được tuyển vào doanh nghiệp thì lao động giản đơn và không có chuyên
môn kỹ thuật chiếm chủ yếu. Với hành trang, trình độ học vấn cũng như
kỹ năng tay nghề hạn chế như vậy, họ rất khó khăn trong tìm kiếm việc
làm, ổn định cuộc sống nơi đô thị. Ðồng thời do hiểu biết còn hạn chế
nên không ít người lao động thường chỉ quan tâm đến thu nhập thực tế
chứ không chú ý tới các chế độ, chính sách, quyền lợi được pháp luật lao
động bảo vệ.
Hai là, trong mối quan hệ với người sử dụng lao động, người lao
động luôn ở vị trị yếu thế hơn, có sự phụ thuộc và chịu sự quản lý, điều
hành của người sử dụng lao động. Như vậy, xuất phát từ vị thế của
người lao động là chủ thể rất dễ bị xâm hại tới quyền, lợi ích. Từ đó,
muốn tạo ra quan hệ lao động được bình đẳng hơn, pháp luật lao động
đã có những quy định để bảo vệ người lao động , qua đó hạn chế sự lạm
quyền của người sử dụng lao động.
Ba là, bảo đảm quyền của người lao động trong các khu công
nghiệp được hiểu: là các cách thức, biện pháp làm cho các quyền của
người lao động trong các khu công nghiệp không chỉ là các quy định
trong pháp luật mà phải được thực hiện trên thực tế cuộc sống và có khả
năng phục hồi các quyền của người lao động nếu nó bị xâm hại.
Bốn là, các cách thức, biện pháp bảo đảm quyền của người lao
động trong các khu công nghiệp, bao gồm: người lao động tự bảo vệ;
14
bảo đảm quyền của người lao động bằng việc ghi nhận các quyền cụ thể
của người lao động; bảo đảm quyền của người lao động thông qua các
thiết chế quản lý nhà nước; bảo đảm quyền của người lao động thông
qua tổ chức công đoàn; Bảo đảm quyền của người lao động thông qua
con đường tòa án.
Năm là, các yếu tố tác động đến việc bảo đảm quyền của người lao
động trong các khu công nghiệp, bao gồm: ý thức pháp luật của người
lao động; yếu tố chính sách, pháp luật lao động; yếu tố năng lực quản lý
nhà nước về lao động.
15
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA
NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH
2.1. Tình hình về hoạt động các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bình Định
Theo quy hoạch phát triển các khu công nghiệp Việt Nam đến năm
2020, trên địa bàn tỉnh Bình Định sẽ có 08 khu công nghiệp với tổng
diện tích quy hoạch 1.761 ha, hai khu công nghiệp mới sẽ được hình
thành Cát Khánh, Bồng Sơn. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Bình Định đã
hình thành 05 khu công nghiệp. Trong đó, 03 khu công nghiệp (Phú Tài,
Long Mỹ, Nhơn Hòa) đã cơ bản được lấp đầy; khu công nghiệp Bình
Nghi đang chuẩn bị thủ tục chuẩn bị đầu tư; khu công nghiệp Hòa Hội,
khu công nghiệp Cát Trinh đang kêu gọi đầu tư.
2.2. Thực trạng pháp luật về bảo đảm quyền của người lao
động trong các khu công nghiệp qua thực tiễn của tỉnh Bình Định
2.2.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về biện pháp
tự bảo vệ của người lao động trong các khu công nghiệp trên địa bàn
tỉnh Bình Định
Trong những năm gần đây, người lao động đã biết cách phản ứng
trước sự xâm hại đến lợi ích chính đáng của mình. Hiện tượng này một
phần lớn là do nền kinh tế - xã hội Việt Nam đã phát triển vượt bậc trong
thời gian gần đây, cơ hội để tiếp cận thông tin, hiểu biết pháp luật lao
động, cơ hội để tiếp cận với các dịch vụ pháp lý, trong đó có cả trợ giúp
pháp lý ngày càng trở nên thuận lợi và dễ dàng đối với người lao động.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia đánh giá về sự hiểu biết pháp luật lao
động nói chung của người lao động cũng như của cán bộ công đoàn cơ
sở còn rất hạn chế. Dường như người lao động không tự đánh giá được
một hành vi hay một quyết định của người sử dụng lao động đối với
16
mình là đúng hay sai, mọi việc đối với người lao động hầu như chỉ dừng
lại ở chỗ “chấp nhận được” hay là “không thể chấp nhận được”, còn yếu
tố pháp lý ít được tính đến. Người lao động đã đứng trong dây chuyền
sản xuất rồi mà vẫn không biết gì về Bộ luật lao động, hoặc biết có luật
nhưng không biết nội dung cụ thể.
2.2.2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về bảo đảm
quyền của người lao động bằng việc ghi nhận các quyền cụ thể của
người lao động trên địa bàn tỉnh Bình Định
Trong quá trình thực hiện chính sách Lao động - Tiền lương - Bảo
hiểm xã hội - Bảo hiểm y tế vẫn còn vướng mắc như sau:
- Về chính sách lao động: vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa thực
hiện việc xây dựng, đăng ký Thỏa ước lao động tập thể, Nội quy lao
động và thang lương, bảng lương theo quy định, dẫn đến việc thực hiện
kỷ luật lao động chưa nghiêm, chưa đúng quy định pháp luật, cơ chế đối
thoại, thương lượng, ký kết thỏa ước lao động tập thể còn nhiều hạn chế,
việc giải quyết các tranh chấp lao động thông qua con đường hòa giải,
đàm phán chưa được doanh nghiệp quan tâm. Một bộ phận người lao
động do có hạn chế về nhận thức nên đã bị người sử dụng lao động lợi
dụng không ký kết hợp đồng lao động, hoặc có ký kết nhưng không đảm
bảo quy định, phổ biến nhất là tình trạng kéo dài thời gian thử việc.
Những vấn đề trên đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người lao
động.
- Về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế: tình trạng nợ bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế kéo dài vẫn diễn ra thường xuyên ở một số doanh nghiệp
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
- Công tác bảo hộ lao động và chăm sóc sức khỏe người lao động
tuy có tiến bộ nhưng tai nạn lao động vẫn chưa giảm, bệnh nghề nghiệp
vẫn còn nhiều nguy cơ tiềm ẩn.
Nguyên nhân của những vướng mắc trên, là do:
17
Một là, việc đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo
hiểm y tế cho người lao động làm tăng chi phí hoạt động của doanh
nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận đạt được. Vì vậy, một số
doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cố tình ký hợp đồng lao động có
thời hạn dưới 3 tháng không cần biết tính chất của công việc theo hợp
đồng (vi phạm khoản 3 Điều 22 Bộ luật lao động năm 2012) để không
phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho
người lao động và dễ xử lý khi không muốn tiếp tục sử dụng người lao
động.
Hai là, công tác thanh tra, kiểm tra về chính sách lao động, tiền
lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của các cơ quan chức năng đối
với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong các khu công nghiệp
dường như vẫn mang tính hình thức, hiện tượng “phạt để tồn tại” còn
phổ biến.
2.2.3. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về bảo đảm
quyền của người lao động thông qua các thiết chế quản lý nhà nước
Hoạt động thanh tra, kiểm tra trong thời gian qua đã chỉ ra những
sai sót, vi phạm của người sử dụng lao động, người lao động trong việc
thực hiện những qui định của pháp luật lao động. Thông qua công tác
thanh, kiểm tra, các cơ quan quản lý Nhà nước về lao động còn phát hiện
những vấn đề vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật
lao động, những vấn đề bất hợp lý, chồng chéo, mâu thuẫn trong những
qui định của pháp luật để từ đó đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với nhu cầu thực tế của địa phương. Tuy đã có nhiều
cố gắng, song phải thừa nhận rằng công tác thanh tra, kiểm tra và kể cả
giám sát thực hiện pháp luật lao động còn nhiều hạn chế và tồn tại, cụ
thể: đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra lao động vẫn còn mỏng (05
cán bộ thanh tra lao động) so với khối lượng nhiệm vụ được giao (157
doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ngoài khu
công nghiệp và hộ kinh doanh). Do vậy, hàng năm mới có từ 10 đến
15% số doanh nghiệp trong các khu công nghiệp được thanh tra, kiểm
tra về lao động. Việc thực hiện thanh tra lao động không thường xuyên
18
nên không kịp thời phát hiện ra những sai phạm và giải quyết triệt để các
vi phạm của doanh nghiệp.
2.2.4. Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện về bảo đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_phap_luat_ve_bao_dam_quyen_cua_nguoi_lao_do.pdf