Với điều kiện kinh tế xã hội hiện nay thì việc ban hành và thực thi chính sách
BHTN đã thể hiện sự đúng đắn trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta. Tuy nhiên, đây là một chính sách mới được áp dụng nên để đáp ứng với
nhu cầu của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, để thúc đẩy sự phát triển bền
vững của thị trường lao động chung, đòi hỏi chính sách BHTN ở Việt Nam cần đảm
bảo hơn nữa mức độ tương thích các quy định trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam
đã ký kết hoặc đã tham gia
25 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 607 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp – Từ thực tiễn cơ quan bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c công và vai trò quản lý nhà nước,
Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật về BHTN và chủ động triển khai, đảm bảo
nó đi vào cuộc sống thông qua hoạt động thực hiện pháp luật về BHTN. Ngoài ra,
nhằm đảm bảo an toàn xã hội ở mức tối thiểu, với chức năng quản lý xã hội, để tránh
những bất ổn về chính trị, xã hội, vì mục tiêu phát triển, ổn định, bền vững, đòi hỏi
Nhà nước phải có đóng góp nhất định vào quỹ BHTN.
1.2.4. Nội dung của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
1.2.4.1. Đối tượng tham gia BHTN
Đối tượng tham gia BHTN là những người làm công ăn lương theo một thời
hạn nhất định trong các đơn vị, doanh nghiệp. Về cơ bản, đối tượng này bao gồm:
NLĐ và NSDLĐ. Tuy nhiên, quy định pháp lý cụ thể với từng nhóm đối tượng này
không hoàn toàn giống nhau ở pháp luật của mỗi quốc gia và ở bản thân các điều ước
quốc tế được ban hành theo những thời điểm khác nhau.
1.2.4.2. Điều kiện giải quyết BHTN
Người thất nghiệp muốn được hỗ trợ, giải quyết quyền lợi BHTN thì phải tham
gia BHTN. Tuy nhiên, trong số đó không phải ai tham gia cũng được được hưởng
quyền lợi mà phải đáp ứng một số điều kiện: phải nộp phí BHTN trong một thời gian
nhất định; phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm việc làm tại cơ quan lao động có
thẩm quyền do nhà nước quy định.
- Người lao động bị thất nghiệp không phải do lỗi của họ Nghĩa là, NLĐ phải
chứng minh trong thời gian làm việc, nguyên nhân thất nghiệp không phải ở họ, các
hành vi dẫn đến thất nghiệp.
- Người lao động phải có sổ bảo hiểm thất nghiệp: Sổ bảo hiểm thất nghiệp là
văn bản do cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm thất nghiệp phát hành. Đây là cơ
sở pháp lý minh chứng sự tham gia BHTN của NLĐ.
8
1.2.4.3. Các nguyên tắc của BHTN trong pháp luật về BHTN Việt Nam
Theo Điều 41 Luật Việc làm quy định nguyên tắc BHTN gồm:
- Bảo hiểm thất nghiệp phải gắn liền trợ cấp thất nghiệp với giải quyết việc làm
cho người thất nghiệp. Trợ cấp BHTN phải đảm bảo khuyến khích NTN chủ động
tìm kiếm việc làm. Mức hưởng BHTN được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng và có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHTN.
1.2.4.4. Về quy trình hưởng bảo hiểm thất nghiệp
- Người thất nghiệp phải đăng ký thất nghiệp; Nộp hồ sơ đề nghị giải quyết
hưởng bảo hiểm thất nghiệp; Được nhận tiền trợ cấp thất nghiệp.
- Tạm dừng và chấm dứt hưởng TCTN khi NLĐ vi phạm các quy định về điều
kiện hưởng TCTN.
- Hỗ trợ học nghề: NTN khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm lâu dài sẽ được
trợ giúp việc làm và khuyến khích tự do lựa chọn việc làm có hiệu quả.
1.2.5. Vai trò của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
1.2.5.1. Pháp luật về BHTN là chỗ dựa cho NLĐ trong thời gian bi ̣mất việc,
giúp họ có thể ổn định cuộc sống, có điều kiện học nghề và tìm việc làm mới
1.2.5.2. Pháp luật về BHTN góp phần ổn định kinh tế - xã hội, hạn chế những
mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường
1.2.5.3. Pháp luật về BHTN góp phần ràng buộc nghĩa vụ, đề cao trách nhiệm
của NSDLĐ với NLĐ, nhất là khi họ đang chịu rủi ro là thất nghiệp
1.2.5.4. Pháp luật về BHTN là một trong những chính sách ASXH của nhà
nước, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng, công bằng xã hội
1.3. Các yếu tố tác động đến pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
1.3.1. Các yếu tố tác động đến việc xây dựng, ban hành pháp luật về BHTN
- Nhu cầu xã hội: Mặt trái của nền kinh tế thi ̣trường đã và đang có những tác
động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đứng vững trên thương
trường đòi hỏi người kinh doanh phải có chiến lược, song không phải chiến lược kinh
doanh nào cũng đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Do đó, những doanh nghiệp
kinh doanh kém hiệu quả buộc phải đóng cửa kéo theo hàng loạt NLĐ thất nghiệp.
Trước những rủi ro tiềm ẩn đó, nhà nước cần phải có biện pháp kịp thời mang tính
khả thi để đẩy lùi nạn thất nghiệp; vì vậy, việc xây dựng và ban hành pháp luật về
BHTN là vấn đề mang tính cấp bách nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
người mất việc.
- Chính sách của nhà nước: Bên cạnh việc đáp ứng nhu cầu hoàn thiện
9
hê ̣thống pháp luật, đáp ứng đòi hỏi do xã hội đặt ra, BHTN cũng là chính sách của
nhà nước nhằm thực hiện công tác quản lý xă hội. Trong vai trò của người bảo trợ,
Nhà nước ban hành chính sách BHTN nhằm hỗ trợ NLĐ khi bi ̣mất việc do các
nguyên nhân khác nhau. Việc ban hành chính sách này sẽ phần nào giảm bớt khó
khăn về tài chính cho doanh nghiệp, đồng thời giúp NLĐ yên tâm, ổn định cuộc sống.
- Nhận thức của nhà lập pháp: Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong
đời sống xã hội. Trong lĩnh vực việc làm, pháp luật là phương tiện pháp lý để xác lập
mối quan hệ giữa NLĐ, NSDLĐ, nhà nước; là công cụ, phương tiện hữu hiệu để quản
lý, kiểm soát các vấn đề việc làm và bảo vê ̣chống thất nghiệp... Tuy nhiên, chất
lượng, hiệu quả của pháp luật về BHTN cũng bị chi phối bởi trình độ, năng lực nhận
thức của các nhà lập pháp. Vì thế, muốn phát huy hiệu lực, hiệu quả của hoạt động
xây dựng pháp luật về BHTN trong thực tế đòi hỏi Nhà nước phải có các cơ chế, biện
pháp nhằm góp phần nâng cao hiểu biết của nhà làm luật.
- Sự ràng buộc của các cam kết quốc tế liên quan: Là một trong những quốc
gia thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Việt Nam đã gia nhập một số
Công ước liên quan đến vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho NLĐ. Do vậy,
việc xây dựng và ban hành pháp luật về BHTN ở Việt Nam phải trên cơ sở tôn trọng,
thực hiện nghiêm chỉnh những Điều ước quốc tế đã tham gia hoặc ký kết. Các yếu tố
tác động đến việc thực hiện pháp luật về BHTN.
1.3.2. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về BHTN
- Vấn đề đóng phí và mức phí đóng BHTN: Do nguồn hình thành Quỹ BHTN
xuất phát từ NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước, nên để pháp luật về BHTN được thực thi có
hiệu quả, đòi hỏi phải có quy định cụ thể, phù hợp cho việc đóng phí và mức phí
tham gia.
- Quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi BHTN: Để việc thực hiện pháp luật về
BHTN mang lại hiệu quả thì quy trình, thủ tục giải quyết quyền lợi BHTN cũng phải
đơn giản, dễ thực hiện.
- Công tác truyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: Đây là công việc vô
cùng quan trọng, là cầu nối từ khâu xây dựng, ban hành đến việc tổ chức thực hiện,
đảm bảo cho pháp luật về BHTN triển khai có hiệu quả trên thực tế.
1.4. Khái lược lịch sử phát triển của pháp luật về BHTN ở Việt Nam
1.4.1. Giai đoạn trước năm 2013
Từ năm 1945, Nhà nước đã ban hành các văn bản quy định về BHTN , nhưng
phải đến ngày 29/6/2006, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Bảo hiểm xã hội,
10
đây là văn bản pháp lý cao nhất, toàn diện nhất từ trước đến nay được áp dụng cho
các đối tượng tham gia bảo hiểm trong đó có chế độ bảo hiểm dành cho NLĐ bị mất
việc. Sau khi Luật ra đời, Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản hướng dẫn
dưới luật quy định chi tiết việc thực hiện các chế độ về BHTN.
1.4.2. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay
Ngày 16/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Việc làm, tuy nhiên ngày
01/01/2015, Luật mới có hiệu lực. Cụ thể hóa các nội dung quy định về BHTN, ngày
12/3/2015 Chính phủ ban hành Nghị định số 28/2015/NĐ-CP về hướng dẫn thực
hiện Luật Việc làm. Trong những năm gần đây, Nhà nước và chính phủ đã ban hành
một số văn bản sau: Quyết định số 488/QĐ-TTg ngày 14/04/2017 về phê duyệt “Đề
án Đổi mới, phát triển trợ giúp xã hội, giai đoạn 2017-2025, tầm nhìn đến 2030” và
Kế hoạch Hành động triển khai Đề án trợ giúp xã hội được ban hành vào năm 2019.
Năm 2018, Nhà nước đã ban hành hai văn kiện mới có vai trò định hướng và
xác định phạm vi của hệ thống ASXH tại Việt Nam, đặc biệt là về cải cách hệ thống
ASXH: Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương
về cải cách chính sách BHXH; Nghị quyết số 125/NQ-CP ngày /2018 của Chính phủ
về Chương trình hành động của Chính phủ về triển khai Nghị quyết số 28-NQ/TW
ngày 23/5/2018.
1.5. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam
1.5.1. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của Đức
Chương trình BHTN ở Đức được triển khai từ năm 1927 và được cải cách vào
năm 1969. Năm 2006, các dịch vụ cơ bản cho người thất nghiệp tiếp tục được mở
rộng, với các chính sách giúp NTN trở lại thị trường lao động và giảm mức trợ cấp
nếu NTN tái vi phạm việc không thực hiện các nghĩa vụ của mình. Một số trường hợp
được tự nguyện tham gia BHTN. Ngoài các chế độ cơ bản, Quỹ BHTN còn chi trả trợ
cấp ngắn hạn hay còn gọi là chương trình chia sẻ việc làm, được áp dụng nếu có cắt
giảm lớn trong sản xuất, kinh doanh. Trợ cấp BHTN ngắn hạn sẽ bù lại một phần thu
nhập bị mất do giảm giờ làm và có thể lên tới 60% số tiền lương ròng, hoặc bằng
67% trong trường hợp gia đình người lao động có con nhỏ.
1.5.2. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của Nhật Bản
Cơ quan quản lý bảo hiểm việc làm ở cấp trung ương do Cục an ninh việc làm,
Bộ Y tế - Lao động và Phúc lợi quản lý. Còn ở cấp tỉnh, có 47 Sở Lao động quản lý
bảo hiểm việc làm dựa vào các văn phòng làm việc địa phương (Hello Work) và đóng
11
vai trò là tuyến đầu trong giới thiệu việc làm, quản lý BHTN. Việc thu phí BHTN vào
quỹ bảo hiểm việc làm với mức đóng góp 1,2% tiền lương được chia đều cho NLĐ
và NSDLĐ do Cục an ninh việc làm đảm nhiệm. Nhà nước dùng ngân sách quốc gia
để bổ sung cho quỹ bảo hiểm việc làm bằng 1/4 tổng chi phí của hệ thống bảo hiểm
việc làm. Hệ thống bảo hiểm việc làm ở Nhật Bản có nhiều chính sách chủ động, nhiều
chương trình và các chế độ trợ cấp thu nhập tạm thời giúp thúc đẩy quá trình tái làm việc
và tuyển dụng NTN, bên cạnh các biện pháp xúc tiến việc làm hay đào tạo nghề
1.5.3. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của Thái Lan
Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 đã đưa kinh tế Thái Lan vào
tình trạng trì trệ với tỷ lệ thất nghiệp rất cao. Xuất phát từ tình hình thực tế, Thái Lan
đã xây dựng và triển khai chương trình BHTN cho NLĐ. Chế độ BHTN của Thái Lan
có một số đặc trưng, cụ thể:
- Về đối tượng và phạm vi áp dụng: Đối tượng tham gia BHTN chính là đối
tượng tham gia BHXH, gồm tất cả các doanh nghiệp có sử dụng từ 1 NLĐ trở lên.
- Về mức đóng góp: Đóng góp BHTN được thu kể từ 01/01/2004; Người sử
dụng lao động và NLĐ hàng tháng đóng một mức như nhau cho Quỹ BHTN là 0,5%
mức tiền lương, Nhà nước đóng 0,25% quỹ tiền lương;
- Về điều kiện hưởng BHTN: Đã đóng BHTN ít nhất 6 tháng trong vòng 15
tháng trước khi bị thất nghiệp; đăng ký thất nghiệp với cơ quan dịch vụ việc làm của
Nhà nước; có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc khi được giới thiệu một việc
làm phù hợp; tham gia các khóa đào tạo nghề được giới thiệu...
- Về mức hưởng BHTN: NLĐ có đóng BHTN bị sa thải được hưởng 50% tiền
lương làm căn cứ đóng BHTN với thời gian hưởng không quá 180 ngày trong vòng 1
năm; NLĐ có đóng BHTN mà tự ý bỏ việc được hưởng 30% tiền lương làm căn cứ
đóng BHTN và hưởng không quá 90 ngày trong vòng 1 năm và tổng số ngày hưởng
BHTN vì thất nghiệp tự nguyện không quá 180 ngày.
- Quy định về thất nghiệp: Thất nghiệp không phải vì những lý do không hoàn
thành nhiệm vụ được giao, có hành động vi phạm tội chống lại NSDLĐ, cố ý gây
thiệt hại cho NSDLĐ, vi phạm nghiêm trọng quy chế và kỷ luật lao động của
NSDLĐ, bỏ làm 7 ngày liên tục mà không có lý do chính đáng, gây thiệt hại nghiêm
trọng cho NSDLĐ do bỏ làm, bị phạt tù, không hưởng lương hưu hàng tháng.
1.5.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Qua nghiên cứu về BHTN ở một số nước trên thế giới, có thể thấy nội dung
của chính sách và tổ chức thực hiện chính sách BHTN ở mỗi nước rất khác nhau, bao
12
gồm cả các công cụ của chính sách thị trường lao động chủ động và thụ động cũng
như phương thức tài chính lập quỹ hoặc tọa thu – tọa chi khác nhau. Tuy nhiên,
những bài học kinh nghiệm rút ra sau đây có thể được xem xét, nghiên cứu áp dụng
trong quá trình thực hiện pháp luật về BHTN ở Việt Nam:
Thứ nhất, chính sách BHTN là một bộ phận quan trọng của chính sách thị
trường lao động, vì vậy nó cần được đặt trong khuôn khổ của chính sách thị trường
lao động.
Thứ hai, cần phải quản lý chặt chẽ nguồn thu của quỹ BHTN thông qua việc
xác định đúng đối tượng tham gia BHTN, thu đóng góp BHTN đầy đủ, kịp thời theo
đúng quy định, hạn chế thất thoát nguồn thu vào quỹ BHTN.
Thứ ba, tổ chức quản lý quỹ BHTN cần đặc biệt chú trọng đến việc xây
dựng cơ chế tài chính sao cho hạn chế và khắc phục được ảnh hưởng của các nhân tố
từ môi trường kinh tế, giảm thiểu được sự gia tăng thất nghiệp, lạm phát không thể
ảnh hưởng tới quỹ BHTN cũng như việc chi trả các chế độ.
Thứ tư, trên thực tế, thị trường lao động luôn có sự biến động về các yếu tố
kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, do đó pháp luật về BHTN cần phải được điều
chỉnh, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động, đặc biệt
chú trọng đến mức đóng góp và mở rộng dần các quyền lợi nhằm tác động đồng bộ
đến cả cung và cầu trên thị trường lao động.
Thứ năm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, xây dựng
quy trình thực hiện thống nhất, tập trung để kiểm soát chặt chẽ từ đối tượng tham gia
đến các đối tượng thụ hưởng chính sách BHTN.
Kết luận chương 1
Trước những đòi hỏi của cuộc sống, việc ban hành chính sách BHTN là vấn đề
tất yếu. Bởi sự hiện hữu của nó đã giải quyết được những vấn đề mà cả xã hội
đang phải đối mặt, đó là tình trạng thất nghiệp. Chính sách này ra đời phần nào đã
giúp NLĐ thất nghiệp giảm bớt những thiếu hụt tài chính. Bên cạnh đó, BHTN
còn là một trong những chính sách trụ cột của mỗi quốc gia, là biện pháp hữu hiệu
nhằm đảm bảo ASXH, góp phần giải quyết những bất ổn chính trị, thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội.
13
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI CƠ QUAN
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM
2.1. Đánh giá thực trạng pháp luật về BHTN
2.1.1. Những ưu điểm của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Pháp luật về BHTN đã có nhiều điểm mới, cụ thể: Quy định rộng về đối tượng
tham gia BHTN, đảm bảo được sự bình đẳng của các đối tượng tham gia, phù hợp
hơn với các chuẩn mực quốc tế; Về việc hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
cho NLĐ trong quá trình họ thất nghiệp giúp họ có khả năng nâng cao trình độ, tăng
cơ hội có việc làm; Điều kiện hưởng TCTN theo hướng có lợi cho người tham gia
BHTN; Mức hưởng TCTN hàng tháng theo tinh thần không tạo ra sự cách biệt lớn
giữa những người tham gia BHTN; Bỏ TCTN đối với những đối tượng đang bị tam
giam, nhằm đảm bảo đúng mục đích chính sách ASXH.
2.1.2. Những hạn chế của pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Pháp luật về BHTN vẫn chưa quy định đến tất cả các đối tượng cần thiết phải
nằm trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật về BHTN như nông dân, người nước
ngoài. Quy định về trách nhiệm xác nhận chấm dứt hợp đồng lao động còn bị xem
nhẹ, chưa có chế tài cụ thể để xử lý khi có vi phạm xảy ra, gây ảnh hưởng lớn cho
quá trình giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Vẫn còn thiếu quy định về trách nhiệm thông
báo tình trạng việc làm của NTN. Việc quy định căn cứ tính phí đóng góp vào quỹ
BHTN dựa trên mức tiền lương, tiền công hàng tháng theo hợp đồng lao động, hợp
đồng làm việc dẫn tới nhiều bất cập. Cần điều chỉnh khung thời gian cho phép hưởng
ba tháng trợ cấp nhằm đảm bảo sự công bằng trong thụ hưởng quyền lợi giữa các đối
tượng tham gia. Và cần đặt ra những quy định về quyền thụ hưởng nhằm đảm bảo
quyền lợi cho mọi đối tượng tham gia.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam
2.2.1. Cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam
Ngày 05/01/2016, Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2016/NĐ-CP quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Theo đó, BHXH Việt Nam là cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ, có chức năng tổ
chức thực hiện các chế độ, chính sách BHXH, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BHTN;
quản lý và sử dụng các quỹ: BHXH, BHTN, BHYT. Và chịu sự quản lý nhà nước của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về BHXH, BHTN; của Bộ Y tế về BHYT; của
Bộ Tài chính về chế độ tài chính đối với các quỹ BHXH, BHTN, BHYT.
2.2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại cơ quan BHXH Việt Nam
2.2.2.1. Về đối tượng tham gia và tổ chức thu BHTN
14
Năm 2009, số người tham gia BHTN mới chỉ có 5.993.300 người, năm 2014
đạt 9.219.753 người. Năm 2018 tổng số người tham gia BHTN đạt 12.680.000 người
(đạt 101,1% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao) tăng 111,5% so với năm đầu thực
hiện chính sách (2009), tăng 37,5 so với cùng kỳ năm 2014, chiếm khoảng 26,2%
lực lượng lao động trong độ tuổi lao động.
Từ 01/01/2015 thay đổi trong quy định về hỗ trợ của Nhà nước vào quỹ
BHTN, song nhờ tích cực, chủ động trong phát triển đối tượng tham gia, đốc thu và
thu hồi nợ đóng BHTN mà số thu BHTN năm 2018 đạt 15.531 tỷ đồng, tăng gấp 4,42
lần so với năm 2009, tăng 29,4% so với cùng kỳ năm 2014.
2.2.2.2. Về hưởng và chi trả trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp
- Thực trạng về hưởng trợ cấp thất nghiệp: Tổng số người đề nghị hưởng trợ
cấp thất nghiệp tính từ 01/01/2010 đến 31/12/2018 là 4.432.375 người, trong đó, tổng
số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 4.330.581 người, chiếm 97,7%
tổng số người nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp.
- Thực trạng về chi trả các chế độ bảo hiểm thất nghiệp: Số người hưởng chính
sách BHTN tăng dẫn đến tổng chi cho các chế độ bảo BHTN cũng tăng: Năm 2010,
tổng chi các chế độ BHTN là 457,1 tỷ đồng thì đến năm 2014 là 3.911,1 tỷ đồng, đến
năm 2018 là 9.722 tỷ đồng, tăng 99,1% so với năm 2015 (trong đó chi cho trợ cấp
thất nghiệp chiếm 95%, chi hỗ trợ học nghề chiếm 1,5%, chi BHYT chiếm 3,5% so
với tổng chi cho các chế độ BHTN từ năm 2015 – 2018).
- Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc
làm cho người lao động: Không có người sử dụng lao động hưởng chế độ hỗ trợ đào
tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao
động chủ yếu do đây là một chế độ mới, quy định về điều kiện hưởng chế độ này
tương đối cao và chặt chẽ nên người sử dụng lao động khó tiếp cận chế độ này.
2.2.2.3. Về quy trình giải quyết hưởng BHTN
- Thủ tục đóng BHTN được thực hiện đơn giản, thuận tiện cho người lao động
và đơn vị trong việc tham gia BHTN nói riêng, BHXH nói chung; Số người tham gia
cũng như số tiền thu BHTN tăng đều qua các năm; Cơ quan BHXH tổ chức chi trả
TCTN thông qua hình thức nhận qua tài khoản ATM hoặc nhận tiền mặt tại đại lý chi
trả của cơ quan BHXH.
2.2.2.4. Về quản lý và đầu tư tăng trưởng quỹ BHTN
Kết quả thực hiện BHTN qua từng thời kỳ được thể hiện qua số dư quỹ BHTN,
cụ thể: Số phát sinh tăng quỹ trong các năm đều tăng lên từ năm 2011 đến 2014 theo
Luật BHXH, năm 2015 theo Luật Việc làm số phát sinh tăng quỹ trong năm giảm vì
NSNN không hỗ trợ bởi số dư quỹ năm 2015 vượt 2 lần tổng các khoản chi các chế
độ BHTN và chi phí quản lý BHTN của năm 2014. Trong khi đó, mặc dù số phát sinh
15
giảm quỹ trong năm để thực hiện chi trả các chi phí theo quy định hằng năm tăng lên
nhưng chỉ bằng 0,4 lần số phát sinh tăng quỹ trong năm 2015, thậm chí con số này
chỉ bằng 0,16 lần trong năm 2011 làm cho quỹ BHTN hằng năm đều tăng trưởng.
2.2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN tại BHXH Việt Nam
2.2.3.1. Những kết quả đạt được và nguyên nhân
- Công tác triển khai các quy định về BHTN được thực hiện đồng bộ, kịp thời
và có sự phối hợp tốt giữa các ngành và các tổ chức đại diện cho người lao động,
người sử dụng lao động.
- BHXH Việt Nam thường xuyên tổ chức các đoàn thanh tra, tiến hành kiểm
tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về BHTN tại các doanh nghiệp, nhằm
hướng dẫn, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc kịp thời hỗ trợ các địa phương;
- Thủ tục đóng BHTN được thực hiện đơn giản, thuận tiện cho người lao động
và đơn vị trong việc tham gia BHTN nói riêng, BHXH nói chung.
- Số người tham gia cũng như số tiền thu BHTN tăng đều qua các năm. Hàng
năm, thu BHTN luôn vượt chỉ tiêu do Chính phủ giao. Số nợ BHTN giai đoạn 2009-
2014 còn cao, từ 2015 trở lại đây số nợ BHTN giảm đáng kể, đặc biệt là từ khi ngành
BHXH được giao thêm chức năng thanh tra đóng BHTN.
- Cơ quan BHXH tổ chức chi trả TCTN thông qua hình thức nhận qua tài
khoản ATM hoặc nhận tiền mặt tại đại lý chi trả của cơ quan BHXH.
- Quỹ BHTN ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ thực hiện chi trả trợ cấp BHTN,
chưa có những chính sách thị trường lao động chủ động trong sử dụng Quỹ BHTN
nên Quỹ BHTN đang thặng dư qua các năm.
2.2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Phát triển đối tượng tham gia Bảo hiểm thất nghiệp chậm, còn dưới mức tiềm
năng. Tình trạng trốn đóng, nợ đọng tiền đóng BHTN diễn ra phổ biến, chậm được
khắc phục.
Hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHTN và cơ chế hoạt động
chưa phù hợp dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa cao. Người lao động và chủ sử dụng
lao động chưa được phục vụ kịp thời, thuận lợi
Chia sẻ dữ liệu giữa cơ quan BHXH và Trung tâm dịch vụ việc làm vẫn vẫn
chưa được kết nối liên thông làm cho quá trình tiếp nhận hồ sơ, chi trả, kiểm tra,
kiểm soát, thông báo tìm kiếm việc làm, chuyển hưởng, dừng hưởng, tiếp tục hưởng
chưa kịp thời, còn có sai sót.
Tình trạng trục lợi BHTN diễn ra ở hầu hết các địa phương trong những năm
qua, nhưng đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn.
16
Kết luận chương 2
Hệ thống các văn bản pháp luật đều được ban hành kịp thời, đồng bộ và tương
đối đầy đủ về lượng, nhưng để đáp ứng với yêu cầu thực tế của xã hội ngày càng phát
triển như hiện nay đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa về chất. Mặc dù nhà nước đã chủ
động gia nhập và ký kết một số Công ước quốc tế liên quan đến vấn đề việc làm và
bảo vệ chống thất nghiệp. Song, để phù hợp với xu thế phát triển chung của quá trình
hội nhập quốc tế, nhà nước cũng nên cân nhắc việc gia nhập một số Công ước quốc tế
quan trọng liên quan trực tiếp tới BHTN, nhằm đảm bảo sự tương thích giữa pháp
luật quốc gia với pháp luật quốc tế.
Những thành tựu và hạn chế của pháp luật về BHTN nêu trên đều có những
nguyên nhân chủ quan và khách quan đưa lại. Vì vậy, để chính sách này đi vào cuộc
sống, nhà nước cần có những biện pháp và cơ chế hữu hiệu để tiếp tục hoàn thiện hệ
thống pháp luật về BHTN của nhà nước ta hiện nay.
17
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
- Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những chính sách xã hội quan trọng trong
hệ thống an sinh xã hội góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và phát triển
bền vững kinh tế - xã hội của đất nước.
- Bảo hiểm thất nghiệp là công cụ quan trọng của chính sách thị trường lao
động nhằm góp phần điều tiết quan hệ cung - cầu trên thị trường lao động. Khi đó
BHTN không chỉ đảm bảo thu nhập thay thế cho NLĐ mất việc làm mà còn tích cực
hỗ trợ đào tạo lại nghề, giới thiệu việc làm giúp NLĐ sớm trở lại thị trường lao
động. Đồng thời, NSDLĐ cũng nhận được các quyền lợi khuyến khích nhằm tiếp
nhận và giữ NLĐ làm việc lâu dài, nhất là đối với NLĐ cao tuổi, người khuyết tật.
- Đảm bảo quyền bình đẳng về cơ hội tham gia và hưởng thụ các chế độ BHTN
đối với mọi NLĐ thuộc đối tượng tham gia BHTN. Đảm bảo nguyên tắc có đóng – có
hưởng, công bằng, chia sẻ và bền vững.
- Hoàn thiện pháp luật về BHTN phải đặt trong chương trình tổng thể cải cách
chính sách bảo hiểm xã hội, lao động, tiền lương thu nhập mà nền tảng là các chính
sách kinh tế của nhà nước.
- Tiếp tục củng cố và phát triển hệ thống tổ chức thực hiện chính sách BHTN
theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả hiệu lực, hiện đại, nâng cao niềm tin,
hấp dẫn và phục vụ đối tượng tham gia, thụ hưởng BHTN ngày càng tốt hơn.
- Thực hiện tốt pháp luật về BHTN là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là
trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội, các hội
đoàn thể, các đơn vị sử dụng lao động và NLĐ.
Do đó, để pháp luật BHTN ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đòi hỏi:
Thứ nhất, Cần khắc phục những bất hợp lý của các quy định hiện hành,
đảm bảo sự hợp lý, tính thống nhất trong điều chỉnh và thực thi pháp luật.
Điều này đòi hỏi hệ thống pháp luật về BHTN phải đầy đủ và mang tính khả
thi hơn. Sau hơn 10 năm đi vào thực hiện, pháp luật về BHTN còn bộc lộ nhiều hạn
chế, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện bổ sung.
+ Về mặt kỹ thuật lập pháp:
Pháp luật về BHTN chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn. Trong thời gian
ngắn, nhiều văn bản được ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế rất nhanh nhưng công
tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BHTN lại rất chậm, không rộng rãi
18
và không có quy mô lớn, gây khó khăn trong công tác triển khai thực hiện, giải quyết
các chế độ đối với NTN. Phạm vi đối tượng hưởng TCTN còn hạn chế.
+ Về mặt tổ chức thực hiện
Số lượng người hưởng TCTN mặc dù đã tăng dần theo thời gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_phap_luat_ve_bao_hiem_that_nghiep_tu_thuc_t.pdf