Tóm tắt Luận văn Pháp luật về xét xử hành chính ở nước ta hiện nay

Theo quy định tại Điều 107 Luật Cạnh tranh năm 2004 thì thẩm

quyền giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là

Hội đồng cạnh tranh và Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công

thương).

Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh

tranh thuộc đối tượng xét xử hành chính là quyết định của Hội đồng

cạnh tranh, của Bộ trưởng Bộ Công thương khi giải quyết khiếu nại

quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định tại mục 7 Chương

V của Luật Cạnh tranh,

pdf26 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 366 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Pháp luật về xét xử hành chính ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả đưa ra những cơ sở lý luận về Tòa hành chính trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời đánh giá thực trạng và vai trò của Tòa hành chính từ khi thành lập đến nay, chỉ ra những ưu, nhược điểm trong tổ chức và hoạt động của cơ quan này. Từ đó đưa ra các giải pháp phát huy vai trò của Tòa hánh chính trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay [37]. - Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng: “Phân định Thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở Việt Nam”, năm 2013, Đại học Luật Hà Nội; Tác giả chỉ ra rằng Khiếu kiện hành chính và giải quyết hành chính ở Việt Nam đã và đang là vấn đề được Đảng, Nhà nước, xã hội và giới nghiên cứu khoa học pháp lý đặc biệt quan tâm. Trong đó, thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính, thẩm quyền xét xử hành chính luôn được xác định là vấn đề trọng tâm của cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính và bảo đảm quyền khiếu kiện hành chính của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, hai loại thẩm quyền này lại chủ yếu được tiến hành và hoàn thiện một cách biệt lập với nhau. Tuy các công trình nghiên cứu trước đây về khiếu kiện hành chính và giải quyết tranh chấp hành chính không có trọng tâm nghiên cứ là vấn đề phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở Việt Nam, song đã làm sáng tỏ nhiều luận cứ, quan điểm khoa học liên 5 quan trực tiếp đến một số nội dung của vấn đề này. Mặt dù, chưa thực đầy đủ và thống nhất, tuy nhiên các luận cứ, quan điểm này là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả phân tích, đánh giá và đưa ra những kiến nghị có tính hệ thống nhằm phân định hợp lý thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở Việt Nam [32]. Có thể nhận thấy, tất cả những công trình trên đây đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến một số vấn đề thực tiễn, lý luận của đề tài nghiên cứu. Những kết quả nghiên cứu tổng hợp sẽ là nền tảng, tiền đề và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích để tác giả kế thừa, vận dụng có chọn lọc khi triển khai nghiên cứu đề tài luận văn. Tuy nhiên, kể từ khi Luật TTHC ra đời năm 2010 đặc biệt khi Luật TTHC mới được ban hành năm 2015, vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử hành chính cả về lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu những hạn chế và nguyên nhân tác động đến xét xử hành chính qua đó đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả của xét xử hành chính trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Trên cơ sở phân tích quy định pháp luật hiện hành về xét xử án hành chính, luận văn đi sâu vào nghiên cứu, đánh giá hạn chế và nguyên nhân tác động đến hoạt động xét xử hành chính, từ đó đưa ra cái nhìn tổng quát và đề xuất các ý kiến để nâng cao hiệu quả xét xử hành chính. Để thực hiện mục đích trên, luận văn sẽ đưa ra và giải quyết các vấn đề sau: 6 - Nghiên cứu một số vấn đề lý luận liên quan đến xét xử hành chính và pháp luật về xét xử hành chính. - Nghiên cứu, phân tích và đánh giá tổng hợp các quy định pháp luật hiện hành về xét xử án hành chính, có sự so sánh giữa quy định của Luật TTHC năm 2010, Luật TTHC năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan. - Phân tích, đánh giá những hạn chế và nguyên nhân tác động đến hoạt động xét xử hành chính thông qua thực trạng xét xử hành chính (từ năm 2011 đến năm 2015) có gắn kết với yếu tố pháp luật về xét xử hành chính - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xét xử hành chính. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Trong khuôn khổ của Luận văn Thạc sỹ luật học, luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản liên quan đến pháp luật xét xử hành chính. Các quy định pháp luật cụ thể được nghiên cứu là các quy định pháp luật về xét xử hành chính tại Luật TTHC năm 2010, và các quy định mới về xét xử hành chính trong Luật TTHC năm 2015. Thực tiễn xét xử hành chính ở nước ta được nghiên cứu chủ yếu là trong giai đoạn từ năm 2011 đến hết năm 2015. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lê nin; các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam về xét xử án hành chính, tăng cường pháp chế, xây dựng nhà nước pháp quyền, đặc biệt là các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp. Việc nghiên cứu luận văn dựa trên các phương pháp nghiên cứu có tính phổ quát trong khoa học xã hội và nhân văn như: thống kê, 7 phân tích tổng hợp khái quát hóa, so sánh đối chiếu để giải quyết các yêu cầu đặt ra của đề tài luận văn. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn Luận văn tập trung phân tích những vấn đề lý luận và pháp luật về xét xử hành chính một cách cập nhật nhất; Phân tích và đánh giá hạn chế và nguyên nhân tác động đến hoạt động xét xử hành chính thông qua các số liệu (hoặc các vụ án cụ thể) trên cơ sở những quy định của Luật TTHC năm 2010; những vấn đề bất cập đã được Luật TTHC năm 2015 giải quyết và đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả xét xử hành chính trong bối cảnh hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương. 8 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH 1.1. Khái niệm và đặc điểm của xét xử hành chính 1.1.1. Tranh chấp hành chính Xét xử hành chính được xem là một dạng của hoạt động tài phán hành chính. Thuật ngữ “tài phán” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “jurisdictio”, trong tiếng Anh là từ “jurisdiction”. Theo nghĩa rộng thì tài phán được hiểu bao gồm hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính của Tòa án và hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính [21]. Nên để hiểu rõ khái niệm xét xử hành chính, trước hết cần làm rõ thế nào là tranh chấp hành chính. 1.1.2. Khái niệm xét xử hành chính Theo Từ điển Luật học, xét xử được hiểu là“Hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lí của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc (xét xử vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính” [93, tr.869,870]. 1.1.3. Đặc điểm xét xử hành chính So với xét xử trong các lĩnh vực khác như hình sự, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, xét xử hành chính có những đặc điểm nổi bật, cụ thể là: Thứ nhất, về người khởi kiện và người bị kiện trong hoạt động xét xử hành chính. Thứ hai, đối tượng của xét xử hành chính. Thứ ba, về áp dụng pháp luật trong xét xử hành chính. 9 1.2. Pháp luật về xét xử hành chính 1.2.1 Khái niệm Như đã phân tích trong phần trên của Luận văn, xét xử hành chính được thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật cả về hình thức và nội dung. Nên muốn hoạt động xét xử hành chính đạt được hiệu quả cao thì trước hết hệ thống các quy định pháp luật (bao gồm cả pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung) phải ngày càng hoàn thiện theo các tiêu chí đồng bộ, toàn diện, thống nhất, phù hợp, khả thi, đáp ứng các yêu cầu về ngôn ngữ và kỹ thuật xây dựng pháp luật. Đối với quá trình xây dựng Luật TTHC cũng như quá trình xây dựng các văn bản pháp luật khác, các cơ quan soạn thảo Luật hiện nay đã áp dụng một quy trình đánh giá tác động của dự án Luật (Quy trình RIA) nhằm định hướng hiệu quả quá trình điều chỉnh quan hệ pháp luật khi Luật được ban hành. 1.2.2. Nội dung của pháp luật về xét xử hành chính Xét xử hành chính (XXHC) ở phương diện là khả năng sử dụng quyền lực nhà nước của toà án (quyền hạn của toà án trong xét xử hành chính) được thể hiện ở các khía cạnh, như: toà án có quyền như thế nào trong việc thụ lí các tranh chấp hành chính; toà án có quyền xem xét và phán quyết về tính hợp pháp hay cả tính hợp lí của quyết định, hành vi bị khởi kiện; toà án có quyền như thế nào trong việc ngăn chặn hay khôi phục những hậu quả trái pháp luật đã xảy ra;... 1.2.3 Vai trò của pháp luật về xét xử hành chính Thứ nhất, xét xử hành chính có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức là đối tượng của quản lý hành chính nhà nước. Thứ hai, xét xử hành chính có vai trò quan trọng trong kiểm soát quyền lực nhà nước. 10 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về xét xử hành chính và thực hiện pháp luật về XXHC Trong những năm qua, công tác thực hiện pháp luật về xét xử hành chính đã đạt những kết quả đáng ghi nhận thể hiện ở việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần nâng cao hiệu quả quản lí hành chính nhà nước, đảm bảo dân chủ và công bằng xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện pháp luật về xét xử hành chính cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cả về số lượng và chất lượng, làm nảy sinh những tâm lí tiêu cực, giảm lòng tin của người dân cũng như cộng đồng doanh nghiệp đối với hiệu quả hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hành chính, cụ thể: Thứ nhất, trên thực tế, nhu cầu khởi kiện và số lượng vụ án hành chính giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Thứ hai, công tác thụ lí và chuẩn bị xét xử vụ án hành chính còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Thứ ba, thực tiễn xác định thẩm quyền xét xử theo quy định hiện nay còn gặp một số vướng mắc, bất cập. Thứ tư, thực tiễn triển khai thủ tục xét xử vụ án hành chính cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự và hiệu quả xét xử vụ án hành chính. 1.3.1. Yếu tố chính trị Theo quy định của Luật Tổ chức TAND, về mặt tổ chức, Toà án nhân dân vẫn có mối liên hệ với Hội đồng nhân dân cùng cấp và một số cơ quan, tổ chức khác trong bộ máy quản lý Nhà nước. Việc tổ chức mô hình cơ quan xét xử theo đơn vị hành chính lãnh thổ và những mối quan hệ phụ thuộc về tổ chức, nhân sự giữa tòa án địa phương với chính quyền địa phương đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến tính độc lập trong xét xử của tòa án, đặc biệt là trong xét xử các 11 vụ kiện hành chính mà người bị kiện là các cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong bộ máy hành chính nhà nước ở cùng địa phương. Nên vấn đề đặt ra là hoạt động xét xử hành chính liệu có đảm bảo tính khách quan hay không. 1.3.2. Trình độ lập pháp Luật TTHC năm 2015 vừa mới được ban hành và đi vào thực hiện kể từ ngày 01/7/2016. Do đó, hệ thống văn bản hướng dẫn đang dần được hoàn thiện, việc nhận thức áp dụng các quy định pháp luật tố tụng và các văn bản có liên quan của thẩm phán, đặc biệt thẩm phán cấp huyện trong quá trình xét xử các vụ án hành chính còn chưa thống nhất, lúng túng và có nhiều cách hiểu, vận dụng khác nhau. 1.3.3. Trình độ phát triển kinh tế xã hội Quá trình thực hiện pháp luật chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế xã hôi. Nước ta là một nước đang phát triển, trình độ kinh tế xã hội ở mỗi vùng miền là khác nhau, do đó nó cũng ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện pháp luật về xét xử hành chính ở nước ta. Kinh tế có phát triển, đời sống vật chất được nâng cao, văn hóa xã hội, giáo dục không ngừng phát triển thì cách nghĩ và tầm nhìn của người dân Việt Nam không ngừng được cải thiện đặc biệt là tư duy pháp lý. 1.3.4. Cơ cấu tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước Trình độ của đội ngũ thẩm phán và những người tiến hành tố tụng khác làm công tác xét xử hành chính (hội thẩm nhân dân, kiểm sát viên, thư ký Tòa án) là một yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả của hoạt động xét xử hành chính. 12 1.3.5. Ý thức pháp luật của tổ chức, cá nhân với tư cách là những người tham gia tố tụng hành chính Ý thức pháp luật của người dân là một yếu tố đóng vai trò khá quan trọng trong việc đánh giá nhiều vấn đề của nước ta, trong đó có vấn đề hiệu quả xét xử hành chính. Ý thức của người dân đối với hoạt động xét xử hành chính phản ánh sự hiểu biết, sự nhìn nhận vai trò và lựa chọn sử dụng trong các tình huống phát sinh liên quan tới mình. Sự ý thức còn phản ánh thái độ của người dân đối với quá trình xây dựng pháp luật liên quan; quá trình các cơ quan nhà nước áp dụng pháp luật vào thực tiễn và sự ủng hộ các phán quyết xét xử hành chính và tự nguyện thi hành. 13 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng pháp luật về xét xử hành chính ở nước ta 2.1.1. Hình thức pháp lý của pháp luật về xét xử hành chính Ngày 25 tháng 1 năm 2015 Quốc hội đã thông qua Luật tố tụng hành chính 2015 (sửa đổi) với nhiều nội dung quan trọng nhằm phù hợp với Luật tổ chức tòa án 2014 và khắc phục những bất cập trong thực tiễn hiện nay. a) Quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) thuộc phạm vi bí mật nhà nước trong các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, ngoại giao theo quy định của pháp luật; b) Quyết định, hành vi của Tòa án trong việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính, xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng; c) Quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức [65]. 2.1.2. Nội dung của pháp luật xét xử hành chính 2.1.2.1. Đối tượng xét xử hành chính 2.1.2.2. Quyết định hành chính, hành vi hành chính * Quyết định hành chính Trên cơ sở đó, nội hàm khái niệm QĐHC được cụ thể hóa như sau: Thứ nhất, về hình thức của QĐHC Thứ hai, về nội dung QĐHC, cần làm rõ hai vấn đề sau: Thứ ba, xét về chủ thể ban hành QĐHC * Hành vi hành chính. Thứ nhất, về chủ thể thực hiện HVHC. Thứ hai, về hình thức biểu hiện của HVHC. 14 Thứ ba, về nội dung của HVHC. 2.1.2.3. Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là văn bản thể hiện dưới hình thức quyết định của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình. 2.1.2.4. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh Theo quy định tại Điều 107 Luật Cạnh tranh năm 2004 thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là Hội đồng cạnh tranh và Bộ trưởng Bộ Thương mại (nay là Bộ Công thương). Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc đối tượng xét xử hành chính là quyết định của Hội đồng cạnh tranh, của Bộ trưởng Bộ Công thương khi giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định tại mục 7 Chương V của Luật Cạnh tranh, .. 2.1.2.5. Danh sách cử tri Theo Luật TTHC năm 2010 thì đối tượng xét xử hành chính là “danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân”. Theo đó, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là danh sách do UBND cấp xã hoặc Chỉ huy đơn vị quân đội nơi có khu vực bầu cử lập (Điều 24 Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội năm 1997 và Điều 24 Luật Bầu cử Đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003). 15 2.1.3. Thẩm quyền xét xử hành chính 2.1.3.1. Thẩm quyền của Tòa án theo địa giới hành chính Việc quản lý, thực hiện chức năng, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước nói chung và của hệ thống Tòa án nói riêng tại Việt Nam hiện nay vẫn dựa trên cơ sở sự phân định về địa giới hành chính. 2.1.3.2. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử sơ thẩm 2.1.4. Các quy định pháp luật về trình tự thủ tục tố tụng hành chính 2.1.4.1. Thời hiệu khởi kiện Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Luật TTHC năm 2010 thì “Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện”[54]. 2.1.4.2. Xét xử hành chính theo thủ tục rút gọn Trên thế giới, bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường, nhiều nước đã xây dựng thủ tục tố tụng rút gọn để áp dụng xử lý những vi phạm pháp luật nhỏ, giải quyết những tranh chấp, khiếu kiện có giá trị thấp, những vụ việc đơn giản, chứng cứ rõ ràng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, khắc phục nhanh chóng những vấn đề nảy sinh trong xã hội, tiết kiệm thời gian, vật chất cho Tòa án và các đương sự, không làm trầm trọng thêm những vụ việc có thể giải quyết nhanh, theo trình tự đơn giản, góp phần ổn định xã hội. Thứ nhất, việc áp dụng thủ tục rút gọn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án, tạo cơ sở pháp lý để Tòa án xử lý hoặc giải quyết nhanh chóng các vi phạm hoặc các tranh chấp phát sinh trong xã hội mà vẫn bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; 16 Thứ hai, việc áp dụng thủ tục rút gọn sẽ giảm nhẹ đáng kể thời gian, vật chất cho hoạt động tố tụng của Tòa án; giảm nhẹ đáng kể chi phí tố tụng, thời gian, công sức của các đương sự cho việc tham gia tố tụng tại Tòa án; Thứ ba, việc quy định về thủ tục rút gọn bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường sẽ tạo cơ hội cho người dân lựa chọn phương thức khởi kiện, tham gia và tiếp cận các hoạt động của Tòa án; Thứ tư, việc xử lý hoặc giải quyết nhanh chóng các vi phạm hoặc các tranh chấp, bất đồng nảy sinh trong xã hội sẽ góp phần ngăn chặn, hạn chế những tác động tiêu cực của vụ việc đó trong xã hội; góp phần ổn định xã hội. 2.1.4.3. Đối thoại trong Tố tụng hành chính Đối thoại là một thủ tục được Tòa án thực hiện trong quá trình giải quyết khiếu kiện hành chính từ lúc Tòa án thụ lý vụ án hành chính đến khi ra bản án hay quyết định để giải quyết yêu cầu của người khởi kiện. Bản chất của đối thoại là trao đổi, so sánh, làm rõ, làm sáng tỏ về trình tự, thủ tục, thẩm quyền nội dung của QĐHC, HVHC, yêu cầu của các bên và hướng giải quyết. Thông qua phiên đối thoại giúp cho người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập tự nhận ra thiếu sót, sai lầm của mình, tự điều chỉnh để chấm dứt khiếu kiện, rút đơn kiện hoặc rút QĐHC bị khiếu kiện mà không cần phán quyết của Tòa án. 2.1.5. Vấn đề thi hành án hành chính Theo quy định tại Luật TTHC năm 2010 thì việc thi hành án hành chính được thực hiện theo cơ chế “tự thi hành”. Mặc dù Luật TTHC năm 2010 có quy định giao cho Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm đôn đốc việc thi hành nhưng quy định này cũng không hiệu quả, còn gặp phải vướng mắc, bất cập trong thực tiễn. Luật TTHC 17 năm 2015 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung cơ chế đảm bảo thi hành án, thể hiện: Thứ nhất, về thẩm quyền ban hành quyết định thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Thứ hai, về thời hạn yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc thi hành án Thứ ba, Luật TTHC 2015 bỏ cơ chế cơ quan Thi hành án dân sự (THADS) ban hành văn bản đôn đốc thi hành án hành chính. 2.2. Thực trạng xét xử hành chính Từ khi Tòa án nhân dân các cấp được giao thẩm quyền giải quyết án hành chính (năm 1997), thực tế cho thấy, hoạt động xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính đã bước đầu đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp và cải cách hành chính theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng đề ra. Trong thời gian gần 20 năm hoạt động, Tòa án nhân dân đã giải quyết hàng nghìn vụ án hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và cơ quan Nhà nước 2.3. Những vướng mắc nổi bật trong áp dụng pháp luật khi xét xử hành chính 2.3.1 Những vướng mắc trong các quy định xác định đối tượng khởi kiện hành chính Việc xác định đối tượng khởi kiện là vấn đề gặp khá nhiều vướng mắc trong thực tiễn khi áp dụng Luật TTHC năm 2010 đặc biệt là việc xác định đối tượng khởi kiện với những quyết định hành chính. Luật TTHC năm 2010 và các văn bản hướng dẫn đã quy định căn cứ để xác định quyết định hành chính bị khởi kiện thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án tuy nhiên trong thực tế áp dụng, Tòa án vẫn còn gặp nhiều sai sót khi xác định đối tượng khởi kiện. Sai sót nhiều nhất là xác định đối tượng khởi kiện đối với 18 quyết định giải quyết khiếu nại, mà không chú ý là quyết định giải quyết khiếu nại đó có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được ban hành trước đấy, là đối tượng khởi kiện. 2.3.2. Vướng mắc trong các quy định xác định thẩm quyền Quá trình giải quyết của Tòa án hai cấp Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2013/HCST ngày 10/6/2013 của TAND thành phố Vinh áp dụng Điều 123 Luật Đất đai; khoản 3 Điều 3 Nghị định số 88/2011/NĐ- CP ngày 11/9/2009 của Chính Phủ; Điều 2 Thông tư số 124/2011/TT-BTC ngày 31/8/2011 của Bộ Tài chính, quyết định: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về hành vi không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Đặng Thị Hương đối với UBND thành phố Vinh. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/6/2013 bà Đặng Thị Hương kháng cáo không đồng ý với toàn bộ bản án sơ thẩm. 2.3.3. Vướng mắc trong các quy định về xác định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính Quá trình giải quyết vụ án Tại bản án sơ thẩm số 01/2013/HC-ST ngày 30/9/2013, TAND huyện Lý Nhân đã tuyên xử: Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Hiếu, bà Nguyễn Thị Tính về việc yêu cầu hủy một phần Quyết định số 185/QĐ-UB NGÀY 19/12/1995 của UBND huyện Lý Nhân. Ngày 10/10/2013, ông Hiếu, bà Tính có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. 2.4. Một số vướng mắc, bất cập khác áp dụng pháp luật xét xử hành chính 19 2.4.1. Vướng mắc, bất cập trong áp dụng các quy định về án phí, lệ phí Vướng mắc, bất cập trong áp dụng pháp luật cũng thường xảy ra trong các trường hợp quy định của pháp luật chưa thống nhất, có sự xung đột giữa quy định của Luật TTHC với các quy định tại luật khác 2.4.2. Vướng mắc trong áp dụng quy định về sự tham gia của Hội thẩm nhân dân Sự tham gia của Hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử các vụ án nói chung và án hành chính nói riêng được quy định nhằm đảm bảo tính khách quan trong xét xử. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc tham gia của Hội thẩm nhân dân trong xét xử hành chính cũng nảy sinh không ít những bất cập. Theo tài liệu Tập hợp những vướng mắc, bất cập và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật TTHC (từ ngày 01/7/2011 đến 30/6/2014) do Viện kiểm sát nhân dân tối cao tổng hợp, phát hành cùng với Tài liệu Hội nghị tập huấn kiểm sát giải quyết án dân sự, hành chính, kinh tế tổ chức ngày 25,26/9/2014 tại Hải Phòng, sự tham gia của Hội thẩm nhân dân còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập [96]. 2.4.3. Vướng mắc trong áp dụng quy định về vấn đề thi hành án hành chính Luật TTHC được ban hành và có hiệu lực trên thực tế bước đầu đã cung cấp một công cụ pháp lý hữu hiệu cho người dân trong việc thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, bảo đảm, phát huy quyền dân chủ của người dân, đồng thời hạn chế những sai sót của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc ban hành các quyết định hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành chính trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước. 20 Chương 3 QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM 3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về xét xử hành chính Thứ nhất, Trên cơ sở quy định của Hiến pháp về quyền khiếu kiện hành chính, Luật Tố tụng hành chính cần thay quy định về quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tại Điều 5 bằng quy định mới: Cá nhân, tổ chức và các chủ thể khác của pháp luật (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo thủ tục do Luật này quy định để yêu cầu toà án có thẩm quyền bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình khi có căn cứ cho rằng các quyền, lợi ích này bị quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm trái pháp luật. Thứ hai, Cần quy định về hình thức khiếu nại hành chính tương tự như quy định của pháp luật hiện hành về hình thức khởi kiện vụ án hành chính và bảo đảm hình thức khiếu nại trực tiếp (không bằng đơn khiếu nại). Thứ ba, Cần quy định thống nhất về đối tượng của khiếu nại hành chính và đối tượng của khởi kiện vụ án hành chính gồm quyết định hành chính và hành vi hành chính theo nghĩa. Thứ tư, Mở rộng phạm vi thực hiện quyền khiếu kiện hành chính đối với các quyết định, hành vi này là công việc hệ trọng; liên quan đến cả việc thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về xét xử hành chính 3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về tố tụng hành chính Luật TTHC năm 2015 được ban hành có nhiều điểm mới so với Luật TTHC năm 2010 nhằm khắc phục những hạn chế của Luật TTHC năm 2010, góp phần nâng cao hiệu quả xét xử hành chính của 21 TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, hoàn thiện pháp luật tố tụng hành chính là một quá trình lâu dài và vẫn còn những nội dung quy định trong Luật TTHC năm 2015 cần tiếp tục được bàn luận trong đó phải đề cập đến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_van_phap_luat_ve_xet_xu_hanh_chinh_o_nuoc_ta_hi.pdf
Tài liệu liên quan