Phát triển lâm nghiệp nhằm tăng giá trị kinh tế ngành và tăng năng lực,
hiệu lực bảo vệ môi trường rừng, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.
- Quản lý, bảo vệ và sử dụng hiệu quả, bền vững rừng và đất rừng
hiện có, nâng cao chất lượng và giá trị của rừng nhằm đảm bảo vai trò
phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải
quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo an ninh quốc phòng và xây
dựng nông thôn mới của tỉnh.
- Phát triển nghề trồng rừng sản xuất thành một ngành kinh tế có vị
thế quan trọng, đem lại việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân làm
nghề rừng. Nâng cao hiệu quả kinh tế của rừng trồng theo hướng chuyển
đổi cơ cấu sản phẩm nhằm tạo vùng nguyên liệu tập trung, cung cấp
nguyên liệu gỗ cho công nghiệp chế biến đồ gỗ xuất khẩu, giảm dần nhập
khẩu gỗ nguyên liệu và phát triển dịch vụ môi trường rừng;
- Quản lý, sử dụng bền vững diện tích rừng tự nhiên, thay thế các
diện tích kém hiệu quả bằng rừng trồng có năng suất cao, đáp ứng tiêu chí
bền vững, đưa lâm nghiệp thực sự trở thành ngành kinh tế có hiệu quả kinh
tế, xã hội và môi trường.
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 07/03/2022 | Lượt xem: 387 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về bảo vệ rừng tại tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là công cụ để bảo tồn và giáo dục môi
trường, nên phần lớn các khu du lịch trọng điểm của tỉnh Lâm Đồng đều
gắn liền với rừng, chủ yếu là rừng đặc dụng; Tỉnh Lâm Đồng đã làm tốt
công tác tuyên truyền, quảng bá, giáo dục cộng đồng và người dân tham
gia tích cực vào công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Người dân
trước đây là lực lượng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia phá rừng, khai thác
rừng, săn bắn, bẫy bắt ĐVHD trái phép,thì bây giờ họ được tham gia và
hưởng lợi trực tiếp nhờ vào các hoạt động du lịch.
1.5.2. Kinh nghiệm của tỉnh Kom Tum
Tổng diện tích rừng hiện có trên địa bàn Kon Tum là 617.680
ha, độ che phủ của rừng năm 2016 đạt 62,2% là một trong những địa
phương có mật độ che phủ rừng cao nhất cả nước. Công tác quản lý, bảo
vệ và phát triển rừng đạt được kết quả khả quan trên là do: công tác chỉ đạo
thống nhất trong toàn bộ từ tỉnh chính quyền địa phương; có sự tham gia,
phối hợp của các cơ quan, đoàn thể từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp về lực
lượng, phương tiện và vị thế pháp lý trong quá trình kiểm tra, truy quét,
trấn áp các đối tượng vi phạm, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm
Luật Bảo vệ và Phát triển rừng. Tỉnh Kom Tum chú trọng tuyên truyền trực
tiếp đến người dân những khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng người dân tộc
thiểu số sống gần rừng; tăng cường phối hợp có hiệu quả giữa cộng đồng
dân cư thôn, làng với chủ rừng, chính quyền xã và Kiểm lâm trong công
tác QLBVR. Đồng thời đã tiến hành giao đất giao rừng cho các hộ gia
đình, cộng đồng dân cư thôn với tổng diện tích rừng và đất rừng được giao
là 27.264,5 ha, trong đó: giao đất giao rừng cho hộ gia đình 24.413,4
ha/2.458 hộ; giao cho cộng đồng 2.985,7 ha/18 thôn, làng. Việc kết hợp với
triển khai chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng trên diện tích giao đất
giao rừng cho các hộ gia đình và cộng đồng đã nhận được sự đồng thuận,
ủng hộ cao của cộng đồng dân cư sống gần rừng; Trên địa bàn tỉnh Kon
Tum có hơn 20 đơn vị chủ rừng là tổ chức, quản lý hơn 500.000 ha diện
tích rừng và đất lâm nghiệp, phân bố chủ yếu trên địa bàn 09 huyện. Trong
thời gian qua, lực lượng Kiểm lâm thực hiện phối hợp với các đơn vị chủ
rừng trong thực hiện các nhiệm vụ có liên quan đến công tác quản lý bảo
vệ, phát triển rừng và phòng cháy chữa cháy rừng. Cử công chức tham gia
các trạm, chốt liên ngành trên lâm phần của chủ rừng. Bên cạnh một số địa
phương, đơn vị để mất rừng một cách đáng tiếc, cũng có những đơn vị, chủ
rừng, chính quyền địa phương đã làm tốt công tác trồng rừng thay thế, góp
phần đáng kể trong việc phủ xanh đồi núi trọc, tăng độ che phủ của rừng
9
trên địa bàn; trong 5 năm tỉnh Kon Tum đã trồng mới được trên 6.600 ha
rừng các loại, đồng thời thử nghiệm trồng thành công 180 ha sâm Ngọc
Linh - loại sâm quý nổi tiếng.
1.5.3. Kinh nghiệm của tỉnh Đăk Nông
Tỉnh Đắk Nông nằm ở phía Nam Tây Nguyên, giáp với nước bạn
Campuchia và là nơi đầu nguồn sông Đồng Nai và sông Sêrêpốk. Với vị trí
địa lý trọng yếu, vì vậy rừng ở Đắk Nông có vai trò đặc biệt quan trọng
trong phòng hộ cho khu vực kinh tế trọng điểm Đông Nam bộ, bảo đảm an
ninh môi trường và an ninh quốc phòng quốc gia.
Mặc dù ngành Lâm nghiệp của tỉnh Đắk Nông có vai trò vô cùng
quan trọng, nhưng thực tế các giá trị của nó đang bị suy giảm nghiêm
trọng. Độ che phủ rừng giảm từ 56,7% năm 2004 xuống còn 38,8% vào
năm 2016. Từ đó kéo theo sự suy giảm nghiêm trọng về tính đa dạng sinh
học, chức năng phòng hộ và cung cấp lâm sản của rừng. Ngoài việc diện
tích rừng tự nhiên suy giảm thì công tác phát triển rừng đạt kết quả rất
thấp. Đến hết năm 2016 toàn tỉnh chỉ trồng được 42.825 ha rừng. Diện tích
rừng suy giảm đã kéo theo những biến động lớn của các đơn vị quản lý.
Năm 2004 toàn tỉnh có 18 lâm trường quốc doanh và 3 ban quản lý rừng
đặc dụng, phòng hộ thì đến năm 2017 chỉ còn 5 Công ty TNHH MTV LN;
8 ban quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ; 43 doanh nghiệp thuê đất, thuê
rừng và một số chủ rừng khác. Quy hoạch 3 loại rừng chất lượng thấp,
thường xuyên bị phá vỡ, điều chỉnh; công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi
phạm pháp luật chưa nghiêm là những thực trạng đáng báo động của ngành
lâm nghiệp.
Để dẫn đến thực trạng như trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân.
Trước hết là sự bất cập, thiếu đồng bộ, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn
giữa các văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt là những quy định liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của một số chủ thể quản lý rừng. Các quy định của
pháp luật chưa làm rõ cơ chế thực hiện các quyền định đoạt của Nhà nước
khi được Nhà nước giao, cho thuê rừng tự nhiên. Cơ chế chính sách hưởng
lợi từ rừng còn nhiều bất cập, nên chưa khuyến khích được xã hội chung
tay phát triển vốn rừng. C tác tổ chức quản lý ngành của lực lượng Kiểm
lâm, cơ quan quản lý Nhà nước về lâm nghiệp còn nhiều bất cập nên chưa
phát huy hết vai trò, trách nhiệm được giao. Việc chuyển các lâm trường
sang công ty Lâm nghiệp chỉ là “bình mới, rượu cũ”, chưa có sự thay đổi
căn bản về cơ chế quản lý, quản trị doanh nghiệp. Qua thời gian hoạt động,
nhiều công ty Lâm nghiệp bị giải thể hoặc phải chuyển đổi mô hình hoạt
động.
Trong khi rừng đứng trước áp lực của dân di cư tự do, giá cả nông
sản tăng cao nên người dân phá rừng lấy đất sản xuất nông nghiệp thì
10
ngược lại công tác quản lý nhà nước về Lâm nghiệp, đất đai và dân cư bộc
lộ nhiều yếu kém, bất cập. Nhiều chính sách như khoán theo Nghị định
135/2005/NĐ-CP; giao đất, giao rừng; chuyển đổi rừng tự nhiên sang trồng
cây công nghiệp, liên doanh liên kết; cho thuê đất, thuê rừng... bị thực hiện
một cách “méo mó“, không hiệu quả. Đáng chú ý, nhiều người (trong đó có
những người có trách nhiệm bảo vệ rừng) lợi dụng sự buông lỏng quản lý
và thiếu nghiêm minh của pháp luật để trục lợi, bảo kê, thậm chí là tham
gia phá rừng. Cùng với đó, sự yếu kém trong quản lý nhà nước, nhất là cấp
chính quyền cơ sở, sự hoạt động thiếu hiệu quả của lực lượng Kiểm lâm và
sự buông lỏng, tiếp tay của một số chủ rừng đã dẫn đến thực trạng rừng bị
mất trên quy mô diện tích lớn, trong thời gian dài.
1.6. Bài học kinh nghiệm đúc kết
Một là, phải có sự nhận thức đúng của các cấp lãnh đạo, chính quyền
địa phương về vị trí, vai trò của rừng, nghề rừng đối với sự phát triển kinh
tế xã hội. Từ đó có sự chỉ đạo thống nhất trong việc thực hiện các chủ
trương, định hướng phát triển lâm nghiệp tại địa phương.
Hai là, tổ chức triển khai đồng bộ các chính sách, quy hoạch, kế
hoạch trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Ba là, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cộng đồng và người
dân tích cực tham gia vào công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Bốn là, phải chăm lo đời sống của người dân sống trên địa bàn lâm
nghiệp.
Kết luận Chƣơng 1
Nghiên cứu những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo vệ rừng, tôi
rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, rừng là một hệ sinh thái có vai trò vô cùng to lớn đối với
sự phát triển của con người, có thể xem rừng như là cái nôi nuôi dưỡng sự
sống. vai trò của rừng không chỉ quan trọng đối với cộng đồng, từng địa
phương hay từng quốc gia mà nó phải được quan tâm bảo vệ trên phạm vi
toàn cầu. Do đó bảo vệ rừng là trách nhiệm của tất cả chúng ta. Chính vì
vậy, chúng ta phải có cách thức phù hợp để bảo vệ rừng mà trong đó
QLNN đóng vai trò quan trọng, là công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ rừng.
Thứ hai, QLNN về bảo vệ rừng phải được điều chỉnh dựa vào sự phù
hợp và xác định rõ nội dung điều chỉnh làm cơ sở để phân tích cơ cấu tổ
chức QLNN hiện nay ở Trung ương, địa phương để đưa ra các đánh giá
phù hợp trong chương 2 và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện trong
chương 3
11
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO VỆ RỪNG TẠI
TỈNH ĐẮK LẮK
2.1. Tổng quan về phát triển, quản lý và bảo vệ rừng tại tỉnh
Đắk Lắk
2.1.1. Hiện trạng tài nguyên rừng
2.1.1.1. Hiện trạng rừng và đất lâm nghiệp
Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp: 721.786,1 ha (gồm cả diện
tích rừng trồng dưới 3 năm tuổi); trong đó: Diện tích có rừng: 526.534,4
ha, bao gồm: Rừng tự nhiên: 472.179,7 ha (Rừng gỗ: 457.503,6 ha; Rừng
tre nứa:4.918,9 ha) và rừng trồng: 54.354,7 ha (Rừng trồng từ 3 năm tuổi
trở lên: 42.764,7 ha; Rừng trồng dưới 3 năm tuổi:11.590,0 ha (diện tích này
không tính vào độ che phủ rừng)); Đất chưa có rừng: 206.841,7 ha
2.1.1.2. Tài nguyên rừng
Đắk Lắk là tỉnh cao nguyên trung bộ có độ che phủ rừng cao và chứa
đựng nhiều khu rừng có gía trị bảo tồn đa dạng sinh học. Với đặc điểm địa
hình, khí hậu đặc thù của vùng cao Tây Nguyên, cùng với sự đa dạng của
thổ nhưỡng đã hình thành nên nhiều hệ sinh thái rừng, kiểu thảm thực vật,
sinh cảnh và cảnh quan, xã hợp thực vật phong phú và tồn tại nhiều loài
động thực vật đặc hữu không chỉ ở Tây Nguyên mà còn cấp quốc gia và
toàn cầu. Đắk Lắk có 9/14 kiểu thảm rừng với có 618 loài thuộc 104 họ, 32
bộ, thuộc các lớp Thú, Chim, Bò sát, Ếch nhái. Thực vật có 1825 loài thuộc
187 họ, 61 bộ, ở 11 lớp thuộc 7 ngành là Dây gấm, Dương xỉ, Ngọc lan,
Thông, Thông đất, Cỏ Tháp bút và Tuế; trong đó có nhiều loài hiếm, có
nguy cơ bị đe dọa và đặc hữu của vùng Tây Nguyên.
2.1.1.3. Quy hoạch 3 loại rừng
Năm 2007, tỉnh Đắk Lắk thực hiện rà soát 03 loại rừng theo chỉ thị
38/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể: Tổng diện tích đất tự nhiên:
1.312.532 ha; trong đó: Diện tích đất có rừng: 580.402,9 ha, bao gồm:
Rừng tự nhiên: 562.148,0 ha và rừng trồng: 18.254,9 ha.
Kết quả kiểm kê rừng năm 2014 đã được UBND tỉnh phê duyệt tại
Quyết định số 255/QĐ-UBND ngày 27/01/2015: Tổng diện tích đất tự
nhiên: 1.312.537 ha; trong đó: Diện tích đất có rừng: 528.147 ha, bao gồm:
Rừng tự nhiên: 475.909 ha và rừng trồng: 52.238 ha
2.1.1.4. Diễn biến tài nguyên rừng
Mục tiêu của công tác theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp là
xác định rõ những nguyên nhân thay đổi để làm cơ sở hoạch định các chính
sách quản lý lâm nghiệp, đề ra các giải pháp bảo vệ và phát triển rừng
nhằm phục vụ định hướng quy hoạch lâm nghiệp, lập kế hoạch chỉ đạo
điều hành trong lĩnh vực lâm nghiệp từ trung ương đến địa phương để phục
12
vụ công tác bảo vệ rừng và phát triển rừng; So sánh với số liệu năm 2010
do Bộ Nông nghiệp và PTNT công bố thì tổng diện tích đất có rừng năm
2015 giảm so với năm 2010 [9] là 95.544,7 ha; trong đó: rừng tự nhiên
giảm 95.674,7 ha; rừng trồng tăng 130 ha; tương ứng giảm 6,27% độ che
phủ rừng. Như vậy, bình quân mỗi năm diện tích rừng tỉnh Đắk Lắk bị suy
giảm gần 16.000 ha.
2.1.2. Tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ rừng tại tỉnh
Đắk Lắk
2.1.2.1. Các cơ quan quản lý nhà nước bảo vệ rừng địa phương
- Ở tỉnh: Chi cục Kiểm lâm Đắk Lắk là tổ chức hành chính, chịu sự
chỉ đạo, quản lý của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
- Ở cấp huyện có 12 Hạt Kiểm lâm huyện và 01 Hạt Kiểm lâm thành
phố Buôn Ma Thuột trực thuộc Chi cục Kiểm lâm.
- Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng, phòng hộ được tổ chức, hoạt động
như một đơn vị hành chính hoàn chỉnh.Đến nay, toàn tỉnh đã thành lập 04
Hạt Kiểm lâm rừng đặc dụng (VQG Yok Đôn, VQG Chư Yang Sin, khu
BTTN Ea Sô, khu BTTN Nam Ka) và 01 Hạt Kiểm lâm rừng phòng hộ núi
Vọng phu;
2.1.2.2. Các cơ quan Trung ương đóng tại địa phương
Chi cục Kiểm lâm Vùng IV là tổ chức trực thuộc Cục Kiểm lâm,
Tổng cục Lâm nghiệp, được phân công quản lý, phụ trách 11 tỉnh, gồm:
Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận,
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
2.1.2.3. Nguồn nhân lực thực hiện quản lý nhà nước v bảo vệ rừng
Tổng số công chức, viên chức, người lao động thuộc địa phương
quản lý có 899 người; trong đó: lực lượng Kiểm lâm thuộc biên chế Chi
cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk là 367 người; nhân lực của 05 Hạt kiểm lâm
thuộc các Ban quản lý rừng đặc dụng, phòng hộ là 532 người. Biên chế của
cơ quan Trung ương đóng tại địa phương có 44 người. Như vậy, biên chế
lực lượng kiểm lâm và người tham gia QLBVR trực tiếp hoặc gián tiếp trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk là 943 người.
Trình độ chuyên môn như sau: trên đại học 39 người, đại học/ cao
đẳng 404 người, trung cấp 354 người, sơ cấp 77 người và chuyên môn
khác 69 người.
Qua đánh giá nguồn nhân lực thực hiện chức năng QLNN về bảo vệ
rừng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, nhận thấy:
- Nguồn nhân lực của cơ quan Trung ương đóng tại địa phương có
chất lượng rất tốt, tỷ lệ cán bộ được đào tạo từ cao đẳng trở lên chiếm đến
81,8% cao hơn hẳn mức bình quân chung của khu vực; trong đó: đào tạo
trên đại học đạt 22,7%; đáp ứng được nhiệm vụ tham mưu, chỉ đạo, phối
13
hợp công tác quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trên địa bàn 11
tỉnh miền Trung và Tây nguyên được phân công quản lý.
- Nguồn nhân lực địa phương: Hiện nay, cán bộ hoạt động trong
ngành kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk tương đối đảm bảo về số lượng và chất
lượng; tỷ lệ cán bộ được đào tạo từ cao đẳng trở lên đạt 45,2%; đào tạo trên
đại học đạt 3,2%; trong đó: lực lượng kiểm lâm trực thuộc Chi cục Kiểm
lâm tỉnh đạt tương ứng là 52,8% và 5,1%; kiểm lâm thuộc các Ban quản lý
rừng đặc dụng, phòng hộ đạt tương ứng 40% và 1,8%. Tuy nhiên trình độ
chuyên môn giữa các đơn vị không đồng đều, số lượng người có trình độ
đại học và trên đại học tập trung chủ yếu ở Văn phòng Chi cục Kiểm lâm
tỉnh; cán bộ kiểm lâm địa bàn xã tập trung nhiều cán bộ trung cấp, sơ cấp
do đó so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra thì đội ngũ cán bộ này vẫn còn nhiều
hạn chế.
Hiện trạng cán bộ các khu rừng đặc dụng, phòng hộ cho thấy tỷ lệ
cán bộ đại học và trên đại học đạt thấp so với trung cấp, sơ cấp và chưa qua
đào tạo, trong lúc đó phải thực hiện đồng thời 3 nhiệm vụ: Quản lý bảo vệ
rừng (kiểm tra, thanh tra, xử lý); xây dựng phát triển vốn rừng; nghiên cứu
khoa học thì không đủ sức đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, đồng thời phải
chịu sự quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ của nhiều cơ quan khác nhau mới
thực hiện được 3 nhiệm vụ nêu trên. Đặc biệt cán bộ, nhân viên kiểm lâm
trong các khu BTTN trình độ nghiệp vụ về kiểm lâm còn rất yếu kém, hầu
hết chưa qua các trường lớp đào tạo nghiệp vụ kiểm lâm.
Từ kết quả phân tích trên cho thấy, hệ thống tổ chức lực lượng Kiểm
lâm trong vùng chưa thống nhất, có sự khác biệt về tổ chức quản lý và cơ
chế chính sách, thiếu sự phối hợp giữa Chi cục Kiểm lâm với Kiểm lâm
rừng đặc dụng, phòng hộ dẫn đến giảm hiệu quả trong quản lý, điều hành
hoạt động của lực lượng Kiểm lâm trong toàn vùng. Trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ chưa đồng đều, còn nhiều hạn chế, đặc biệt là lực lượng Kiểm
lâm địa bàn và Kiểm lâm của các khu rừng đặc dụng, phòng hộ, do vậy
chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
2.1.2.4. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Hoạt động của lực lượng Kiểm lâm còn bộc lộ nhiều hạn chế về
nghiệp vụ, chuyên môn, về nhiệm vụ tham mưu cho các cấp chính quyền
địa phương trong công tác quản lý bảo vệ rừng. Trình độ nguyệp vụ,
chuyên môn của lực lượng kiểm lâm còn yếu so với yêu cầu nhiệm vụ.
Hiện có hai loại hình Kiểm lâm khác nhau mặc dù có nhiệm vụ như nhau là
bảo vệ rừng: công chức kiểm lâm và viên chức kiểm lâm ở các khu rừng
đặc dụng, phòng hộ và kiểm lâm vùng IV. Quy định đối với khu rừng đặc
dụng có Hạt Kiểm lâm thì Giám đốc Ban quản lý đồng thời là Hạt trưởng
Hạt Kiểm lâm dẫn đến chồng chéo trong công tác quản lý: giám đốc vừa là
14
chủ rừng vừa là công chức Kiểm lâm, chồng chéo hoạt động với Hạt Kiểm
lâm cấp huyện trong công tác bảo vệ rừng. Giám đốc khu rừng đặc dụng
kiêm Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm chỉ có quyền hạn xử lý như Hạt trưởng Hạt
Kiểm lâm cấp huyện. Quyền hạn của viên chức Kiểm lâm rất hạn chế.
Thêm vào đó, các khu rừng đặc dụng còn do nhiều cơ quan khác nhau chỉ
đạo điều hành như UBND cấp tỉnh, Tổng cục Lâm nghiệp, Sở NN &PTNT
hay Chi cục Kiểm lâm.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về bảo vệ rừng tại tỉnh Đắk Lắk
2.2.1. Về thực thi và ban hành văn bản quản lý nhà nước về bảo vệ rừng
Đối với tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Trung
ương đã ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định cụ thể để thực
hiện Luật BV&PTR tập trung vào các nhóm vấn đề sau: công tác lập, xét
duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng
giai đoạn 2010- 2015; quy hoạch sử dụng rừng và đất lâm nghiệp; ban
hành giá lâm sản, giá rừng để xác định tài sản là rừng tự nhiên khi giao
rừng, cho thuê rừng, làm cơ sở để xử lý bồi thường khi có thiệt hại về rừng;
về trình tự, thủ tục hành chính trong lĩnh vực lâm nghiệp; ban hành các văn
bản tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về rừng cho kiểm tra thanh tra,
xử lý các vi phạm; triển khai và áp dụng thực hiện một số cơ chế chính
sách về lâm nghiệp xã hội.,Việc phân cấp cho địa phương quy định cụ
thể một số nội dung đã làm cho chính sách về lâm nghiệp được ban hành
phù hợp hơn với thực tiễn, góp phần đưa công tác quản lý bảo vệ rừng từng
bước vào nề nếp.
Nhìn chung, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ và Phát
triển rừng được tỉnh Đắk Lắk ban hành kịp thời tạo hành lang pháp lý khá
hoàn chỉnh, cơ bản phù hợp với thực tế, đáp ứng được yêu cầu công tác
quản lý nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ
chức, cộng đồng, người dân và doanh nghiệp tham gia vào công tác quản
lý, bảo vệ và phát triển rừng.
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý, bảo vệ và phát triển
rừng đã được các cấp, các ngành quan tâm, tổ chức với nhiều hình thức
phù hợp cho từng đối tượng, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp
hành pháp luật về lâm nghiệp của các tổ chức và người dân ở địa phương.
2.2.2. Về Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển lâm
nghiệp; quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng
Để thực hiện chiến lược phát triển lâm nghiệp tỉnh Đắk Lắk giai
đoạn 2006 - 2020, tỉnh Đắk Lắk tổ chức rà soát quy hoạch sắp xếp lại 3
loại rừng phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đảm bảo yêu cầu bảo tồn, phòng
hộ và phát triển kinh tế rừng bền vững và được UBND tỉnh phê duyệt tại
Quyết định số 1030/QĐ-UBND ngày 16/5/2007. Việc tổ chức quy hoạch 3
15
loại rừng tỉnh Đắk Lắk là cơ sở để các cấp, các ngành và chính quyền các
địa phương xây dựng, có chính sách phát triển sản xuất kinh doanh nghề
rừng và tổ chức quản lý bảo vệ rừng.
Tổ chức quản lý tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp nhằm làm rõ
tiềm năng, trữ lượng, giá trị nguồn tài nguyên rừng của tỉnh, từ đó nhằm
bảo đảm khai thác, sử dụng tài nguyên rừng hợp lý, hiệu quả và bền vững
đi đôi với bảo vệ, phục hồi và tái tạo các nguồn tài nguyên để thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Phần lớn diện tích rừng và đất lâm nghiệp đã thực hiện giao, cho
thuê tập trung đúng quy hoạch; hạn mức và thời hạn giao, cho thuê phù
hợp với nguyện vọng và nhu cầu của tổ chức, người dân để quản lý bảo vệ,
hưởng lợi và sản xuất kinh doanh rừng. Thực hiện giao đất, giao rừng, cho
thuê rừng được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm
nghiệp để xác lập quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân,
hộ gia đình, cộng đồng đối với việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Đến
nay diện tích rừng đã thực hiện giao rừng, cho thuê rừng và giao đất lâm
nghiệp được: 621.808,5 ha/721.786,1 ha, trong đó: giao rừng và cho thuê
rừng: 320.082,63 ha, đạt 44,3% diện tích đất lâm nghiệp (giao rừng:
279.694,50 ha; cho thuê rừng: 40.388,13 ha).
Các chính sách về định canh định cư, hỗ trợ đất ở, đất sản xuất cho
các hộ đồng bào dân tộc tại chỗ theo các chương trình 304 của Chính phủ
đã được địa phương triển khai tích cực, góp phần ổn định cuộc sống cho
đồng bào nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Kết quả diện tích rừng và đất
lâm nghiệp đã giao trên địa bàn 05 huyện là 11.159,5 ha cho 1.297 hộ,
trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.101 hộ và 196 hộ là các đối tượng
khác.
Nhìn chung, quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của các
địa phương trong địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã giữ vai trò quan trọng trong việc
tăng cường hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước về rừng và đất lâm
nghiệp, góp phần tích cực vào việc phát huy tiềm năng tài nguyên rừng
phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.
2.2.3. Về kiểm tra, thanh tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng
Trong những năm qua tỉnh Đắk Lắk đã kiểm tra, rà soát, thống kê
diện tích rừng bị phá, lấn chiếm trái phép trên địa bàn để có cơ sở xây dựng
phương án thu hồi, giải tỏa rừng bị phá, đất rừng bị lấn chiếm trái phép để
trồng lại rừng. Kết quả đã xác định có 50.975,02 ha rừng và đất rừng cần
phải giải tỏa, thu hồi (trước năm 2008: 24.503,75 ha, từ năm 2008 đến
tháng 6 tháng năm 2014: 26.471,27 ha).
16
Bảng 2.9. Tình hình vi phạm Luật BV&PTR từ năm 2010 - 2015
STT Nội dung ĐVT 2010-2015
1 Tổng số vụ vi phạm Số vụ 10.576
1.1 Phá rừng trái phép
-Số vụ Số vụ 171
-Diện tích ha 732
1.2 Khai thác rừng trái phép Số vụ 503
1.3 Vi phạm quy định về PCCCR Số vụ 7
1.4
Mua bán, săn bắn, vận chuyển động vật rừng trái
phép Số vụ 210
1.5 Mua bán, vận chuyển trái phép gỗ và lâm sản Số vụ 6.717
1.6 Vi phạm khác Số vụ 2.968
2 Chống người thi hành công vụ Số vụ 9
3 Tổng số vụ đã xử lý Số vụ 10.314
3.1 Hành chính Số vụ 10.049
3.2 Hình sự
-Số vụ Số vụ 118
-Số bị can Người 61
4 Phương tiện, lâm sản, động vật rừng xử lý tịch thu
4.1 Phương tiện tích thu p.tiện 5.865
4.2 Gỗ, lâm sản tịch thu m3 18.256
4.3 Động vật rừng tịch thu
-Tính theo cá thể con 401
-Tính theo trọng lư ng kg 2.423
5 Thu nộp ngân sách 1.000đ 126.209.758
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Những ưu điểm
Những năm qua công tác quản lý bảo vệ rừng đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, nhận thức về rừng của toàn xã hội được nâng cao,
quan điểm đổi mới xã hội hoá về lâm nghiệp đã được triển khai thực hiện
có hiệu quả; hệ thống pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ngày càng
hoàn thiện; chế độ chính sách lâm nghiệp, nhất là chính sách về đa dạng
hoá các thành phần kinh tế trong lâm nghiệp; giao đất, giao rừng, khoán
bảo vệ rừng và quyền hưởng lợi từ rừng được ban hành và bước đầu đi vào
cuộc sống. Vai trò, trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng của các ngành
và cấp uỷ, chính quyền các cấp, các tổ chức xã hội ngày càng được làm rõ
và nâng cao, Nhà nước đã tăng cường đầu tư thông qua nhiều chương trình,
dự án đã làm cho công tác quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản ngày
càng chuyển biến tích cực.
2.3.2. Những hạn chế
17
Chất lượng quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng chưa đáp ứng yêu cầu
quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là chưa
có tầm nhìn xa trong dự báo, nhất là tại cấp huyện. Việc lập, tổ chức triển
khai và giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng
chưa được quan tâm đúng mức; việc phân cấp trong quản lý quy hoạch còn
bất cập; quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng được lập theo đơn vị hành chính
không đảm bảo tính kết nối liên vùng, không phát huy được thế mạnh của
từng vùng và bảo đảm sự phối hợp thực hiện các giải pháp nhằm tổ chức và
thực hiện việc quản lý, bảo vệ và phát triển rừng giữa các vùng.
Trong thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng vẫn còn nhiều
vấn đề tồn tại, yếu kém, bức xúc như: sử dụng rừng và đất lâm nghiệp còn
sai mục đích, việc tổ chức quản lý, bảo vệ và phát triển rừng vẫn bộc lộ
nhiều vấn đề hạn chế, tình hình vi phạm các quy định về quản lý, bảo vệ
rừng, kinh doanh lâm sản chưa ngăn chặn hiệu quả; rừng vẫn tiếp tục bị
phá, lấn chiếm, bị khai thác trái pháp luật ở một số nơi; tình hình mua, bán,
vận chuyển lâm sản trái phép diễn biến phức tạp; việc sắp xếp tổ chức sản
xuất và quản lý bảo vệ rừng còn chưa hợp lý, hoạt động của các Công ty
TNHH MTV Lâm nghiệp còn nhiều yếu kém, chưa bảo vệ tốt được tài
nguyên rừng, đất rừng.
Năng lực của hầu hết các doanh nghiệp tham gia quản lý, phát triển
rừng rất bạn chế, do vậy dẫn đến việc triển khác các dự án phát triển rừng
chưa mang lại hiệu quả, rừng vẫn bị xâm hại.
Việc phân công trách nhiệm về bảo vệ rừng thực hiện theo Chỉ thị
1685/CT-TTg của Chính phủ, Kế hoạch thực hiện 5591/KH-UBND, Chỉ thị
03/CT-UBND tỉnh trong đó một số nội dung, công việc quan trọng đòi hỏi
phải có sự tham gia của các ngành chức năng mới thực hiện có hiệu quả.
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan
Rừng phân bố trên một phạm vi rộng, tiếp giáp với nhiều khu vực
dân cư, có điều kiện kinh tế khó khăn; tính cạnh tranh của cây rừng rất thấp
so với nhiều cây trồng nông nghiệp khác, vì vậy đã gây sức ép vào rừng tự
nhiên;
Các chính sách và nguồn lực đầu tư để tạo động lực thúc đẩy cho các
lực lượng tham gia vào công tác quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên
rừng còn hạn chế, cơ chế chính sách đối với công tác quản lý bảo vệ rừng
còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chậm đổi mới, chưa có chính sách đãi
ngộ thỏa đáng cho cán bộ làm công tác quản lý bảo vệ rừng ở vùng sâu,
vùng xa.
C
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_bao_ve_rung_tai_tinh_da.pdf