Từ những năm cuối thế kỷ XX, tỉnh Quảng Trị đã thực hiện
dự án về “Quy hoạch, đầu tư, tôn tạo hệ thống di tích lịch sử văn hóa
Quảng Trị (1996 - 2010)” và các dự án đầu tư tôn tạo di tích bằng các
nguồn vốn của Bộ Văn hóa thông tin, của tỉnh Quảng Trị và nhiều
nguồn khác, hoạt động tôn tạo di tích đã chuyển sang một bước ngoặt
mới, làm cho bộ mặt di tích thực sự khởi sắc. Ðến nay, các di tích
như: Thành cổ Quảng Trị, Ðịa đạo Vịnh Mốc, Ðôi bờ Hiền Lương,
Sân bay Tà Cơn, Nhà tù Lao Bảo. đã hoàn thành, đưa vào sử dụng,
khai thác và dần dần khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống
di tích quốc gia đặc biệt, trở thành các điểm tham quan du lịch kỳ thú
và hấp dẫn của Quảng Trị. Theo số liệu từ Trung tâm Quản lý di tích
và Bảo tàng tỉnh thì từ năm 2010 đến năm 2018, nguồn vốn đầu tư
cho các dự án tôn tạo di tích mà chủ yếu là loại hình di tích lịch sử
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ chương trình quốc gia là 492,8 tỷ
đồng. Trong đó, vốn thuộc các dự án đã thực hiện là: 143,6 tỷ; vốn
các dự án đã phê duyệt chuẩn bị đầu tư là 218,2 tỷ; vốn dự án chuẩn
bị phê duyệt: 131 tỷ. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách địa phương là
3,460 tỷ
26 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/03/2022 | Lượt xem: 508 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quản lý nhà nước về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y giá trị di
DSVH; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về DSVH;
- Tổ chức, quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về DSVH;
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực bảo vệ và phát
huy giá trị DSVH;
- Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy
giá trị DSVH;
- Tổ chức và quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy
giá trị DSVH;
- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về DSVH.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước chính về di tích lịch sử từ
thực tiễn của công tác quản lý tại địa bàn tỉnh Quảng Trị
Từ những nội dung quy định tại Luật Di sản văn hóa, đối chiếu
với những bất cập được đặt ra ở phần lý do chọn đề tài để sử dụng trong
phạm vi nghiên cứu, liên hệ thực tiễn công tác quản lý, đề tài này tập
trung vào các nội dung sau đây:
- Cơ cấu tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực quản lý nhà
nước về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
- Công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học cho các di tích lịch sử trên
địa bàn.
- Công tác đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử.
- Công tác sử dụng, khai thác và phát huy giá trị di tích lịch sử
gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác giáo dục, tuyên truyền kiến thức về di tích, khuyến
khích sự chung tay bảo vệ, gìn giữ di sản từ cộng đồng.
Đề tài này sẽ tập trung làm sáng tỏ những nội dung quản lý
nhà nước từ thực tế của tỉnh Quảng Trị về di tích lịch sử trên địa bàn;
khẳng định vai trò của việc bảo tồn di tích, vai trò của nhà nước trong
việc phát huy giá trị di tích là phát huy giá trị tinh thần, góp phần
8
phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục truyền thống yêu nước, tự hào
dân tộc cho mỗi người dân, từ đó nâng cao ý thức chung tay bảo vệ di
tích, môi trường xung quanh cho di tích từ cộng đồng.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước chính về di tích lịch sử
được áp dụng đối với địa bàn tỉnh Quảng Trị: Từ những nội dung quy
định tại Luật Di sản văn hóa, đối chiếu với những bất cập được đặt ra ở
phần lý do chọn đề tài để sử dụng trong phạm vi nghiên cứu, liên hệ thực
tiễn công tác quản lý, đề tài này tập trung vào các nội dung sau đây:
- Cơ cấu tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực quản lý nhà
nước về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
- Công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học cho các di tích lịch sử trên
địa bàn.
- Công tác đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử.
- Công tác sử dụng, khai thác và phát huy giá trị di tích lịch sử
gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
- Công tác giáo dục, tuyên truyền kiến thức về di tích, khuyến
khích sự chung tay bảo vệ, gìn giữ di sản từ cộng đồng.
Đề tài này sẽ tập trung làm sáng tỏ những nội dung quản lý
nhà nước từ thực tế của tỉnh Quảng Trị về di tích lịch sử trên địa bàn;
khẳng định vai trò của việc bảo tồn di tích, vai trò của nhà nước trong
việc phát huy giá trị di tích là phát huy giá trị tinh thần, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục truyền thống yêu nước, tự hào
dân tộc cho mỗi người dân, từ đó nâng cao ý thức chung tay bảo vệ di
tích, môi trường xung quanh cho di tích từ cộng đồng.
1.3. VSự cần thiết quản lý nhà nƣớc về di tích lịch sử
1.3.1. Xuất phát từ vai trò quan trọng của di tích lịch sử đối
với đời sống con người và xã hội
DTLS là tài sản vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là chất
liệu gắn kết cộng đồng dân tộc. DTLS luôn mang trong mình những
thông điệp của quá khứ và khi tham gia vào đời sống văn hóa hiện
đại, có tính bền vững tương đối, có sức mạnh to lớn đối với cộng
đồng. Trong chương trình phát triển KT-XH của mỗi đất nước, việc
khai thác DTLS bằng các phương thức đa dạng, khoa học đã đem lại
những nguồn lợi đa dạng. Đặc biệt, trong phát triển du lịch, vai trò
9
của DTLS không chỉ được quảng bá trong nước mà còn đối với quốc
tế, thu hút đông đảo lượng du khách từ các vùng miền trên cả nước
cũng như khách nước ngoài đến tham quan. DTLS chính là một phần
linh hồn, một nét văn hóa đặc sắc của quê hương, là một bộ phận cấu
thành môi trường sống của con người, là nguồn tư liệu quý để chúng
ta nhận thức về xã hội và văn hóa thời quá khứ. Vì thế, việc quản lý,
bảo tồn và phát huy những giá trị của nó như thế nào đang là vấn đề
cần được quan tâm đúng mức của các cấp, các ngành, nhất là những
người làm công tác quản lý văn hóa hiện nay.
Đối với Quảng Trị, các DTLS trên địa bàn đã được chính
quyền quan tâm trong hoạt động bảo tồn, tu bổ đúng mức để khai
thác và phát huy tối đa các giá trị góp phần vào phát triển chung của
tỉnh.
1.3.2. Quản lý nhà nước về di tích lịch sử hóa góp phần gìn
giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
DSVH Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam và là một bộ phận của DSVH nhân loại, có vai trò to
lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. DTLS
còn là một nguồn lực rất lớn để phát triển kinh tế. Vì vậy, vấn đề bảo
tồn và phát huy giá trị DTLS được nhà nước ta rất quan tâm. Thế
nhưng, có một thực tế là khi có điều kiện phát huy thì có những nơi
khai thác DTLS lại chưa thực sự quan tâm đến công tác bảo tồn. Tình
trạng không hài hòa giữa bảo tồn và phát triển vừa tác động đến việc
không khai thác đúng tiềm năng hay làm biến dạng DTLS.
Hiện nay, vấn đề QLNN để phát huy giá trị DTLS nhằm gìn
giữ di tích và phát huy giá trị bản sắc văn hoá dân tộc có ý nghĩa vô
cùng quan trọng và được xem là một trong những nhiệm vụ cấp thiết
của toàn xã hội. Vì thế, nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý và
sự phối hợp giữa các ban ngành đoàn thể với các nhà chức trách
chuyên môn quản lý trực tiếp để có các biện pháp, kế hoạch cũng như
định hướng đúng đắn, thiết thực góp gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
gắn với sự phát triển xã hội.
1.3.3. Quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử góp phần
phát triển kinh tế
Với những giá trị vốn có, DTLS chính là một bộ phận cấu
thành kho tàng di sản văn hoá nhân loại và là nguồn lực để phát triển
kinh tế nói chung, ngành ngành du lịch nói riêng. Đảng ta đã từng
10
đưa ra nhiệm vụ “Bảo tồn, tôn tạo các DTLS tiêu biểu, phục vụ giáo
dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di
sản văn hóa với phát triển du lịch”. Vì thế, các địa phương đã chú
trọng thực hiện các giải pháp QLNN về di tích đồng thời phát triển
kinh tế bằng cách tạo ra những điểm đến di tích mang ý nghĩa lịch sử,
giáo dục truyền thống hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, cần phải xác định rõ quan điểm phát triển du lịch
trên cơ sở khai thác các di tích phải luôn gắn công tác bảo tồn tính đa
dạng, gìn giữ các giá trị DTLS với việc khai thác phục vụ du lịch;
hay nói cách khác phát triển du lịch vì mục tiêu văn hoá; đồng thời,
việc bảo vệ tôn tạo di tích phải hướng tới phục vụ ngày càng tốt hơn
các đối tượng đến tham quan nghiên cứu, trong đó có khách du lịch
gắn với mục tiêu: Giáo dục truyền thống lịch sử và lòng tự hào yêu
quê hương đất nước; giới thiệu cho khách du lịch trong nước và quốc
tế về lịch sử, văn hoá, nét đẹp thiên nhiên nhằm tăng thêm lợi ích
kinh tế cho xã hội. Hạn chế thấp nhất những tác động xấu từ hoạt
động du lịch đối với tài sản văn hoá.
1.3.4. Quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử góp phần
phát triển xã hội
DSVH là nguồn năng lượng xã hội, có khả năng làm tăng sức
sống và sức mạnh của con người và xã hội. Với vai trò, văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, trong đó, DSVH biểu hiện sức sống, sự
phát triển, sự hiểu biết và trí tuệ, đạo lý, truyền thống của con người,
của dân tộc trong mối quan hệ giữa con người với con người, với xã
hội, với tự nhiên được xây dựng và bồi đắp trong suốt chiều dài lịch
sử dân tộc. Giữ gìn và phát huy được các DSVH là bảo vệ, bồi đắp
nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh của xã hội.
Hiện nay, vấn đề phát huy giá trị di tích gắn với sự phát triển
xã hội đang được các địa phương hết sức quan tâm. Việc khai thác và
phát huy giá trị DTLS có hiệu quả, đem lại nguồn lợi hữu ích, có ý
nghĩa thiết thực cho xã hội cần đảm bảo sự hài hòa trong công tác
bảo tồn đòi hỏi Nhà nước phải có đường lối, chính sách, giải pháp
phù hợp, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển để đem lại hiệu quả khi
giới thiệu, quảng bá về văn hóa, con người Việt Nam.
1.3.5. Quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử góp phần ổn
định môi trường
Các DTLS hầu hết là các công trình, địa điểm ghi dấu có giá
trị lịch sử, tồn tại từ lâu đời, luôn chịu nhiều tác động từ môi trường
11
thiên nhiên và môi trường xã hội. Trong quá trình tồn tại, các di tích
luôn phải đối mặt với nhiều nguy cơ bị xâm hại, xuống cấp, hư hỏng
theo thời gian; cùng với đó là những nguy cơ đe dọa đến sự bền vững
của môi trường tại khu vực di tích. Do đó, một trong một mục đích
của QLNN về di tích là hạn chế những tác động xấu của các di tích
trước những tác động xấu của môi trường thiên nhiên và môi trường
xã hội.
Bên cạnh đó, hầu hết các DTLS đều nằm gần các khu dân cư,
do quá trình lịch sử cũng như quá trình đô thị hóa mạnh mẽ giai đoạn
gần đây nên nhiều di tích bị xâm hại, làm ảnh hưởng đến môi trường
cảnh quan di tích cũng như môi trường sống của người dân. Bởi vậy,
QLNN về DTLS còn bao gồm cả hoạt động chống lấn chiếm, giải
phóng mặt bằng, tái định cư dân sống trong khu vực khoanh vùng
bảo vệ di tích và khu vực bảo vệ cảnh quan nên QLNN về DTLS còn
góp phần ổn định môi trường sống cho người dân và tạo cảnh quan
môi trường xung quanh cho di tích.
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nƣớc đối với di tích lịch sử
của một số địa phƣơng áp dụng cho tỉnh Quảng Trị
1.3.1. Tại thành phố Huế
Quần thể Di tích Cố đô Huế có quy mô lớn nhất trong số các
di sản văn hóa thế giới ở Việt Nam, với hơn 1.400 công trình kiến
trúc thuộc 32 cụm di tích, nằm trải rộng trên một diện tích hàng chục
triệu m2, bao trùm lên toàn bộ diện tích của thành phố Huế cùng với
bốn huyện và thị xã lân cận. Sau chiến tranh, rất nhiều công trình đã
bị hư hại, xuống cấp; trong đó, khu vực Tử Cẩm Thành gần như bị
xóa sổ, Hoàng thành Huế chỉ còn 62/136 công trình kiến trúc Toàn
bộ quần thể di tích Cố đô Huế sau chiến tranh còn khoảng 300 công
trình lớn nhỏ, và hầu hết đều bị hư hỏng ở những mức độ khác nhau.
Năm 1993, sau khi được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế
giới, công cuộc phục hưng di sản Huế thực sự được chú trọng.
Theo đề án “Phát triển dịch vụ trên cơ sở phát huy giá trị di
tích Cố đô Huế đến năm 2020” mà UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã
phê duyệt, có 11 khu vực và cụm di tích được quy hoạch để tổ chức
các hoạt động dịch vụ du lịch. Năm 2017, Quần thể Di tích Cố đô
Huế đón khoảng 2,9 triệu lượt khách; doanh thu thu từ vé tham quan
và dịch vụ tại các điểm tham quan thuộc Quần thể Di tích Cố đô Huế
đạt hơn 300 tỉ đồng. Chính nguồn thu phí này đã góp phần rất quan
trọng trong việc tái đầu tư cho hoạt động bảo tồn di sản và cải thiện
12
đời sống của những người làm công tác bảo tồn. [Quần thể Di tích Cố
đô Huế: Bảo tồn và phát huy di sản hiệu quả, tg Sơn Thùy, Báo văn
hoá điện tử].
Từ kinh nghiệm QLNN về di tích của tỉnh Thừa Thiên Huế,
có thể thấy được rằng: Tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Trị có nhiều
điểm tương đồng trong đặc điểm của các di tích và trong cách quản
lý. Từ đó tỉnh Quảng Trị có thể rút ra được kinh nghiệm trong công
tác tu bổ, bảo tồn; học hỏi giải pháp quy hoạch các điểm di tích được
tổ chức các hoạt động du lịch, góp phần phát triển kinh tế - xã hội,
phát huy tối đa giá trị của di tích.
1.3.2. Tại tỉnh Ninh Bình
Ninh Bình là một vùng đất cổ nằm ở vị trí cửa ngõ cực nam
của tam giác châu thổ sông Hồng và miền Bắc. Vùng đất này còn
nhiều dấu tích liên quan trực tiếp đến các nền minh cổ ở Việt Nam
như văn hóa Tràng An, văn hóa Hòa Bình, văn hóa Đa Bút, văn hóa
Đông Sơn. Nơi đây có cố đô Hoa Lư từng là kinh đô của ba Triều
đại nhà Đinh, Tiền Lê và Hậu Lý. Địa bàn hiểm trở ở vùng núi Ninh
Bình là căn cứ quân sự của các Triều đại nhà Trần và Tây Sơn. Trong
kháng chiến chống ngoại xâm nơi đây có phòng tuyến Tam
Điệp, chiến khu Quỳnh Lưu, hành cung Vũ Lâm và là địa bàn trọng
yếu của chiến dịch Hà Nam Ninh lịch sử. Những đặc điểm về lịch sử,
văn hóa, tự nhiên và con người đã tạo cho vùng đất Ninh Bình một hệ
thống các di tích phong phú và đa dạng góp phần phát triển ngành du
lịch Ninh Bình.
Công tác quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử trên địa
bàn thành phố Ninh Bình những năm qua được chú trọng thực hiện;
tỉnh đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm quản lý di sản văn
hóa, thúc đẩy du lịch Ninh Bình phát triển một cách bền vững. Ủy
ban nhân dân tỉnh kịp thời ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết
và các Quy định, quy chế quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích
lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đã xếp hạng trên địa bàn
tỉnh. Tỉnh Ninh Bình là một trong những tỉnh đạt được những thành
quả nổi bật trong công tác QLNN về DTLS như: thực hiện tốt công
tác kiểm kê di tích, chú trọng công tác tu bổ, khai thác tốt giá trị của
di tích trong việc phát triển du lịch, góp phần phát triển kinh tế, huy
động được sức mạnh của cộng đồng trong việc chung tay bảo vệ, gìn
giữ di tích. Bởi những điểm đó, tỉnh Quảng Trị dựa vào những giải
pháp hay, hiệu quả để áp dụng vào thực tiễn QLNN tại địa phương.
13
Chương 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh
Quảng Trị
2.1.1.Điều kiện tự nhiên
Quảng Trị có lợi thế về địa lý - kinh tế, là đầu mối giao
thông, nằm ở trung điểm đất nước, ở vị trí quan trọng - điểm đầu trên
tuyến đường huyết mạch chính của hành lang kinh tế Đông - Tây nối
với Lào - Thái Lan - Mianmar qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đến các
cảng biển Miền Trung như: Cửa Việt, Chân Mây, Đà Nẵng, Vũng
Áng... Đây là điều kiện rất thuận lợi để Quảng Trị mở rộng hợp tác
kinh tế trong khu vực, giao thương hàng hóa, vận tải quốc tế, phát
triển thương mại, dịch vụ và du lịch. Diện tích tự nhiên 4.737,44
km2. Dân số trung bình năm 2017 là 627.558 người, mật độ dân số
132, người/km2. Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, lúc nắng nóng, lúc
ngập lụt gây không ít khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về di
tích lịch sử; nhất là việc gìn giữ, bảo sự yếu tố nguyên trạng của di
tích bởi di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh hầu hết là các chứng tích về
chiến tranh, tồn tại ở dạng phế tích nên việc mất dấu do sự sạt lỡ hay
bồi đắp phù sa sau khi ngập lụt là điều khó tránh khỏi.
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Quảng Trị là một tỉnh khó khăn của cả nước, quy mô nền
kinh tế nhỏ; nguồn vốn đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của
Trung ương; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thấp so với nhu cầu
chi; nguồn thu nhỏ, thiếu ổn định ảnh hưởng đến quá trình quản lý,
điều hành ngân sách và thực hiện các chính sách phát triển của địa
phương. Có thể khẳng định rằng, sau hơn 30 năm thực hiện sự nghiệp
đổi mới và hơn 25 năm tái lập tỉnh, Đảng bộ, quân và dân Quảng Trị
đã nhanh chóng vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách để giành
được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.3. Những tác động đến công tác QLNN về DTLS từ điều
kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, lúc nắng nóng, lúc ngập lụt gây
không ít khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về di tích lịch sử;
nhất là việc gìn giữ, bảo vệ yếu tố nguyên trạng của di tích bởi di tích
lịch sử trên địa bàn tỉnh hầu hết là các chứng tích về chiến tranh, tồn tại
ở dạng phế tích nên việc mất dấu do sự sạt lỡ hay bồi đắp phù sa sau
14
khi ngập lụt là điều khó tránh khỏi. Số lượng di tích là phế tích chưa
được đầu tư bảo vệ còn nhiều, báo động nguy cơ dần mất dấu hoặc bị
xâm hại.
Đặc điểm kinh tế - xã hội có những tác động không nhỏ đến công
tác QLNN về DTLS trên địa bàn. Quảng Trị là một tỉnh khó khăn của cả
nước, quy mô nền kinh tế nhỏ; nguồn vốn đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào
sự hỗ trợ của Trung ương; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn thấp so
với nhu cầu chi; nguồn thu nhỏ, thiếu ổn định ảnh hưởng đến quá trình
quản lý, điều hành ngân sách và thực hiện các chính sách phát triển của
địa phương. Vì vậy, nên nguồn kinh phí việc đầu tư để tu bổ, tôn tạo di
tích hay đầu tư cơ sở hạ tầng vào các điểm di tích, khu di tích còn quá ít
ỏi, không chủ động.
2.2. Đặc điểm các di tích trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
2.2.1. Di tích Quảng Trị đa dạng, phong phú các loại hình
Đặc điểm di tích trên địa bàn tỉnh có sự chênh lệch lớn giữa
các loại hình; có 465 di tích lịch sử, 45 di tích nghệ thuật và 23 di
tích loại hình khác.Trong tổng số 533 di tích, có 45 di tích xếp hạng
cấp quốc gia đặc biệt; 35 di tích xếp hạng cấp quốc gia; 453 di tích
xếp hạng cấp tỉnh trên tổng số 533 di tích.
2.2.2. Các di tích có sự phân bố không đồng đều
Bảng tổng hợp di tích trên địa bàn tỉnh Quảng Trị thể hiện sự
phân bố, vị trí các di tích ở trên địa tỉnh không có đồng đều giữa các
huyện, thị xã, thành phố. Di tích tập trung nhiều nhất ở huyện Vĩnh
Linh - phía Bắc của tỉnh 182 di tích. Vĩnh Linh được xem là cái nôi
cách mạng, là vĩ tuyến chia cắt hai miền vì vậy loại hình di tích lịch
sử là chủ yếu (175 di tích). Ở đây có 03 di tích lịch sử được xếp hạng
cấp quốc gia đặc biệt đặc biệt: Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải, Địa
đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh, Đường Trường Sơn
- Hồ Chí Minh thuộc địa phận xã Vĩnh Hà.
2.2.3. DTLS phản ánh sinh động hiện thực hai cuộc chiến
tranh
Là vùng đất từng trải qua sự khốc liệt của chiến tranh, khắp
nơi trên địa bàn Quảng Trị dường như đều trở thành các địa điểm di
tích phản ánh sinh động hiện thực cuộc chiến đấu bi hùng của quân
và dân Quảng Trị và của cả nước. Chính những nơi ấy là các “địa chỉ
đỏ” ghi nhận sự vùng lên quật khởi của lực lượng quần chúng cách
mạng đấu tranh với kẻ thù để giành thắng lợi cuối cùng của cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc.
15
2.2.4. Một số di tích lịch sử tiêu biểu trên địa bàn tỉnh
Quảng Trị
Những di tích lịch sử cách mạng đã gắn với người dân Quảng
Trị như là máu thịt. Tiêu biểu đó là: Ðôi bờ Hiền Lương trên vĩ tuyến
17 - vùng phi quân sự nhưng không một ngày ngừng tiếng súng,
mang trên mình nổi đau chia cắt đất nước gần 20 năm; Ðịa đạo Vịnh
Mốc, pháo đài ngầm kiên cường trong lòng đất, “lâu đài cổ dấu kín
biết bao điều kỳ lạ của những con người đã làm ra nó và thời đại mà
nó sản sinh ra”; Ðường 9 - Khe Sanh, con đường chiến lược huyết
mạch, hành lang Ðông Tây nối Quảng Trị/Việt Nam với nước bạn
Lào được người Pháp khởi xướng xây dựng và được quân đội Mỹ
nâng cấp hoàn chỉnh để phục vụ cho mục đích quân sự trong ý đồ
xâm lược toàn bán đảo Ðông Dương đã trở thành con đường kinh
hoàng đối với chính những người đã làm ra nó; Thành cổ Quảng Trị
làm chấn động dư luận thế giới và lương tri loài người bởi cuộc chiến
đấu giành giật sinh tử 81 ngày đêm của các chiến sĩ quân giải phóng
chống lại cuộc phản kích tái chiếm thị xã Quảng Trị của một lực
lượng lớn quân ngụy Sài Gòn từ ngày 28/6/1972 đến ngày 16/9/1972.
2.3. Thực trạng quản lý nhà nƣớc về di tích lịch sử trên
địa bàn tỉnh Quảng Trị
Thực trạng từ công tác QLNN về di tích lịch sử trên địa bàn
tỉnh Quảng Trị được thể hiện qua những nội dung sau đây:
2.3.1. Công tác ban hành văn bản chỉ đạo; tuyên truyền,
phổ biến kiến thức về di tích, khuyến khích sự chung tay bảo vệ,
gìn giữ di sản từ cộng đồng
2.3.1.1. Công tác ban hành văn bản chỉ đạo
Xác định việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch
sử trên địa bàn chính là bảo tồn và phát huy thế mạnh đặc thù của
một tỉnh nghèo, bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tàn phá của chiến tranh.
Những năm qua, tỉnh Quảng Trị đã chỉ đạo các ngành liên quan căn
cứ chức năng, nhiệm vụ, bám sát hệ thống văn bản của Trung ương
về quản lý DSVH, đặc biệt là Luật DSVH để triển khai thực hiện có
hiệu quả các văn bản của Trung ương và của tỉnh.
Trên cơ sở đó, kịp thời ban hành các văn bản nhằm tăng
cường công tác quản lý các DTLS từ tỉnh đến các huyện, thị xã,
thành phố
2.3.1.2. Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về di tích,
khuyến khích sự chung tay bảo vệ, gìn giữ di sản từ cộng đồng
16
Thực trạng tại địa bàn tỉnh Quảng Trị, sự tham gia của cộng
đồng trong việc chung tay cùng tu bổ, sửa chữa, chống xuống cấp các
di tích lịch sử tiêu biểu đang ở trong tình trạng xuống cấp. Về nguồn
lực, chưa lôi kéo nhân dân chủ động tham gia trực tiếp vào việc quản
lý, sử dụng và phát huy di tích. Tại các làng xã, nhiều đình chùa, đền
miếu được tu tạo bằng vốn đóng góp của nhân dân, các tổ chức xã
hội, tuy nhiên, việc tu bổ di tích hiện nay mới chỉ tập trung vào di
tích nổi tiếng, hoặc là di tích gắn với dòng họ; chất lượng tu bổ di
tích, nhất là những hạng mục được thi công bằng nguồn vốn do nhân
dân đóng góp còn chưa đạt yêu cầu về chuyên môn. Tuy nhiên, trách
nhiệm của cơ quan QLNN trong việc tuyên truyền là chưa chuyển tải
đến từng người dân ý nghĩa, tầm quan trọng của hệ thống di tích;
chưa khuyến khích, vận động được một bộ phận cộng đồng tham gia
vào việc bảo vệ, gìn giữ và phát huy những giá trị di tích để lại.
2.3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực quản lý
nhà nước về di tích lịch sử trên địa bàn tỉnh Quảng Trị
2.3.2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
Việc quản lý di tích được tổ chức theo cấp hành chính, theo
chiều dọc từ tỉnh xuống đến các cấp huyện, xã, phường. Thực tế từ
việc thực hiện theo chức năng nhiệm vụ còn bộc lộ nhiều hạn chế
giữa các cấp. Tình trạng cấp này chờ cấp kia, một số kế chỉ triển
khai ở mức văn bản hành chính chưa thực sự đi vào thực chất của
vấn đề (chưa có quy chế cụ thể), nhất là chưa triển khai đến tận các
xã, phường. Phân cấp phải đi kèm với cơ chế quy định rõ những vấn
đề liên quan và trách nhiệm của từng cấp trong các vấn đề: bảo vệ,
sử dụng đất đai và tiềm năng di tích; cơ chế đầu tư tôn tạo; quản lý,
khai thác và phát huy tác dụng di tích... Từ đó, trách nhiệm bảo vệ,
sử dụng và khai thác cụ thể của các cấp chưa được phân định rạch
ròi, sự xâm hại di tích ngày càng có nguy cơ cao hơn; nhất là vấn đề
vi phạm đất đai.
2.3.2.2. Nguồn nhân lực quản lý nhà nước về di tích lịch sử
Mục tiêu hướng tới của việc xây dựng và phát triển nguồn
nhân lực cho bảo tồn và phát huy giá trị di tích lịch sử là xây dựng
đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn có tính chuyên nghiệp cao.
Các vị trí việc làm đầy đủ nguồn nhân lực. Tuy nhiên, thực trạng hiện
nay đó là: nguồn nhân lực tham gia hoạt động quản lý, bảo tồn di còn
chưa giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ; các lĩnh vực cần được đào tạo
cơ bản như: kiến trúc, xây dựng, sử học, văn hóa học, mỹ thuật, nhân
17
học, khảo cổ học... còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ làm việc còn thiếu so
với vị trí việc làm
2.3.3. Công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học cho các di tích
trên địa bàn
Công tác nghiên cứu lập hồ sơ khoa học (Lý lịch di tích, biên
banrkhoanh vùng bảo di tích) để công nhận và bảo vệ di tích đã được
Trung tâm QL Di tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị thực hiện nhưng
chất lượng và hiệu quả chưa cao. Theo số liệu từ Trung tâm QL Di
tích và Bảo tàng tỉnh Quảng Trị, tháng 9/2018, trên toàn địa bàn tỉnh
Quảng Trị có 533 di tích được công nhận (hay còn gọi là xếp hạng);
trong đó, có 453 di tích được công nhận cấp tỉnh, 35 di tích được
công nhận cấp Quốc gia, 45 di tích được công nhận di tích Quốc gia
đặc biệt.
2.3.4. Quản lý đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích lịch sử
Từ những năm cuối thế kỷ XX, tỉnh Quảng Trị đã thực hiện
dự án về “Quy hoạch, đầu tư, tôn tạo hệ thống di tích lịch sử văn hóa
Quảng Trị (1996 - 2010)” và các dự án đầu tư tôn tạo di tích bằng các
nguồn vốn của Bộ Văn hóa thông tin, của tỉnh Quảng Trị và nhiều
nguồn khác, hoạt động tôn tạo di tích đã chuyển sang một bước ngoặt
mới, làm cho bộ mặt di tích thực sự khởi sắc. Ðến nay, các di tích
như: Thành cổ Quảng Trị, Ðịa đạo Vịnh Mốc, Ðôi bờ Hiền Lương,
Sân bay Tà Cơn, Nhà tù Lao Bảo... đã hoàn thành, đưa vào sử dụng,
khai thác và dần dần khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống
di tích quốc gia đặc biệt, trở thành các điểm tham quan du lịch kỳ thú
và hấp dẫn của Quảng Trị. Theo số liệu từ Trung tâm Quản lý di tích
và Bảo tàng tỉnh thì từ năm 2010 đến năm 2018, nguồn vốn đầu tư
cho các dự án tôn tạo di tích mà chủ yếu là loại hình di tích lịch sử
trên địa bàn tỉnh Quảng Trị từ chương trình quốc gia là 492,8 tỷ
đồng. Trong đó, vốn thuộc các dự án đã thực hiện là: 143,6 tỷ; vốn
các dự án đã phê duyệt chuẩn bị đầu tư là 218,2 tỷ; vốn dự án chuẩn
bị phê duyệt: 131 tỷ. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách địa phương là
3,460 tỷ.
Tuy nhiên, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị di tích còn
bộc lộ những bất cập đó là: dù nhận thức đúng đắn vai trò, trách
nhiệm của cơ quan QLNN đối với di tích nhưng chưa có kế hoạch và
chương trình cụ thể và hiệu quả trong quá trình thực hiện; đang đặt
nặng về
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_di_tich_lich_su_tren_di.pdf