Những kết quả đạt được Kết quả công tác xét xử của TAND thị xã
giai đoạn từ 01/01/2016 đến 31/12/2019 thể hiện ở các nội dung sau: Số liệu
01/01/2016 đến 31/12/2019 thụ lý 262 vụ/514 bị cáo Trong đó: + Đã giải
quyết: 258 vụ/501 bị cáo (đạt tỷ lệ 98% so với số thụ lý) Số đã xét xử: 250
vụ/489 bị cáo, trong đó xét xử lưu động 12 vụ. Tác giả tiến hành phân tích
công tác xét xử của TAND thị xã Phú Thọ năm 2019, từ đó đưa ra đánh giá
khái quát công tác xét xử của TAND thị xã trong công tác đảm bảo quyền của
bị cáo trong giai đoạn xét xử. Theo báo cáo kết quả công tác năm 2019,
phương hướng nhiệm vụ năm 2020 của TAND thị xã ngày 03 tháng 11 năm
2019, thì công tác giải quyết, xét xử các loại án (số liệu được tính từ ngày
01/01/2019 đến 31/10/2019). Kết quả giải quyết như sau: Tòa án nhân dân thị
xã thụ lý 32 vụ - 52 bị cáo (cũ chuyển qua 05 vụ), giải quyết 29 vụ - 47 bị
cáo, đạt tỷ lệ 90%. So với cùng kỳ năm 2018, thụ lý giảm 02 vụ (giảm 0,9%),
giải quyết giảm 04 vụ (giảm 0,87%). Tòa án nhân dân thị xã đã phối hợp tốt
với các cơ quan liên quan đưa ra xét xử lưu động 02 vụ - 06 bị cáo. Đây là các
vụ án có liên quan đến một số loại tội được xác định là án trọng điểm về “cố ý
gây thương tích, trộm cắp tài sản, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy” cần được mở rộng phạm vi tuyên truyền giáo dục pháp luật
trong nhân dân và phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
24 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/02/2022 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại
Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ và những kiến nghị, giải pháp.
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN CỦA BỊ
CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người Quyền
con người là khái niệm rộng và có thể tiếp cận ở những góc độ khác nhau.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, quyền con người có thể chia theo các nhóm
tương ứng với các lĩnh vực của đời sống. Ở Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm
phân tích về vấn đề quyền con người. Trong tác phẩm Giáo trình Lý luận và
pháp luật về quyền con người, các tác giả định nghĩa quyền con người là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo
vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Tuy có nhiều
cách định nghĩa khác nhau nhưng theo quan niệm chung của cộng đồng quốc
tế, quyền con người được xác định dựa trên hai bình diện chủ yếu là giá trị
đạo đức và giá trị pháp luật. Dưới bình diện đạo đức, quyền con người là giá
trị xã hội cơ bản, vốn có (những đặc quyền) của con người như nhân phẩm,
bình đẳng xã hội, tự do; dưới bình diện pháp lý, để trở thành quyền, những
đặc quyền phải được thể chế hóa bằng các chế định pháp luật quốc tế và pháp
luật quốc gia. Như vậy, dù ở góc độ nào hay cấp độ nào thì quyền con người
cũng được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ những giá trị nhân văn
của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người. Từ khái niệm chung về
quyền con người ở trên, có thể đưa ra khái niệm quyền con người trong tố
tụng hình sự như sau: Quyền con người trong tố tụng hình sự là những điều
mà bất cứ ai (không phân biệt giới tính, độ tuổi, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo,
tín ngưỡng, thành phần xã hội) khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng hình
sự đều được hưởng, được làm và được đòi hỏi. Bảo đảm quyền con người và
quyền công dân là một vấn đề lớn, phức tạp cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Bảo đảm quyền con người 7 xét cho cùng chính là việc ghi nhận và thực hiện
những cam kết trong pháp luật quốc tế về các quyền con người vào trong
pháp luật mỗi quốc gia. Không thể bảo đảm quyền con người nếu chỉ dựa vào
9
quyền tự nhiên của con người, bởi tự thân những quyền tự nhiên không thể tự
mình vận hành trong một xã hội rộng lớn ở phạm vi quốc tế và phạm vi quốc
gia. Phải thông qua Nhà nước, thì những cam kết quốc tế về quyền con người
mới hình thành nên những địa vị pháp lý của con người, đồng thời quyền con
người chỉ được bảo đảm khi được quy định bằng pháp luật và có cơ chế bảo
đảm, vận hành bởi pháp luật. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, việc giải quyết
vụ án hình sự không thể tách rời vấn đề bảo đảm quyền con người, đặc biệt là
quyền của người bị buộc tội. Bởi lẽ để buộc tội và truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với một người phải dựa trên những căn cứ luật định và phải do những
người, những cơ quan có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục mà pháp
luật quy định để nhằm mục đích không để lọt tội phạm đồng thời đảm bảo
không làm oan người vô tội.
1.1.2. Khái niệm quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự Quyền của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
TAND là việc ghi nhận các quyền của bị cáo trong các văn bản pháp luật. Bên
cạnh đó, thông qua hoạt động thực tiễn Nhà nước và các chủ thể khác phải có
trách nhiệm tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về quyền của bị cáo;
đồng thời ngăn ngừa sự xâm phạm và bảo vệ các quyền của bị cáo trong xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND. Bảo đảm quyền con người của bị
cáo còn phải tạo ra các điều kiện cần thiết, tốt nhất để các quyền của bị cáo
trong phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND được thực hiện
một cách đầy đủ, hiệu quả nhất và không bị xâm phạm. Từ những phân tích
trên, có thể hiểu quyền của bị cáo trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là
việc Nhà nước chính thức ghi nhận bằng pháp luật các quyền của bị cáo; đồng
thời thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của TAND, các chủ
thể thực hiện nghĩa 8 vụ, trách nhiệm của mình để bị cáo tiếp cận, hưởng thụ
được các quyền của họ theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Ý nghĩa của việc quy định và thực hiện quy định về quyền của bị
cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
10
1.1.3.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội Việc quy định quyền của bị cáo và
những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quyền của bị cáo trong xét xử nói
riêng và xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung có ý nghĩa chính trị -xã hội
sâu sắc, cụ thể: - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thể hiện sự dân chủ của chế
độ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa; thể hiện sự dân chủ của chế độ tố tụng nước
ta; thể hiện quyết tâm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc cải
cách tư pháp mà trước hết là đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư
pháp theo hướng công khai, minh bạch, công bằng và bình đẳng tôn trọng và
bảo đảm quyền con người trong đó có quyền của bị cáo - người bị buộc tội
trong vụ án hình sự. - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo
trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nhằm hướng tới mục tiêu
xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân vì dân và do dân. Một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước pháp quyền là xây dựng và hoàn thiện một
nền tư pháp hiện đại, công bằng, dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các quyền con
người, quyền cá nhân. - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị
cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự thể hiện quan điểm nhất
quán của Nhà nước ta trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài là đưa nước
ta nhanh chóng hội nhập với đời sống pháp lý quốc tế tiến bộ và nhân văn,
bảo đảm sự công bằng, dân chủ trong xã hội. Đây cũng là sự phản ánh rõ ràng
quan điểm cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức tố tụng
theo định hướng lấy con người làm trung tâm, pháp luật về tư pháp nói chung
và tư pháp hình sự nói riêng trước hết vì con người.
1.1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 9 - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm xác lập điều kiện thuận lợi để bị
cáo trực tiếp hay gián tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. - Quy
định quyền và bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự nhằm hạn chế sự vi phạm trong quá trình áp dụng các
chế tài hình sự đối với bị cáo. - Quy định quyền và bảo đảm thực hiện quyền
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự giúp nâng cao
trách nhiêm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong xét xử
11
sơ thẩm vụ án hình sự, có căn cứ pháp lý để phát hiện và xử lý các vi phạm
quyền của bị cáo từ phía cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.2. Quy định của pháp luật về quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Các quyền chung của các chủ thể trong tố tụng hình sự Nhằm bảo vệ
các quyền và lợi ích hợp pháp của những chủ thể tham gia tố tụng, BLTTHS
2015 quy định những quyền chung của các chủ thể trong tố tụng hình sự phải
tôn trọng. Các quyền chung này được quy định từ điều 7 đến điều 33 của
BLTTHS. Tính điều chỉnh của quyền chung thể hiện ở hiệu lực của nó đối với
các chủ thể tố tụng mà trước hết là các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT),
người THTT. Các chủ thể đó có nghĩa vụ nghiêm chỉnh chấp hành các quy
định của pháp luật TTHS, thực hiện đúng giới hạn thẩm quyền, tuân thủ các
quyền chung đã được pháp luật quy định. Không chỉ vi phạm các quy định
pháp luật tố tụng cụ thể mà vi phạm các quyền chung của TTHS cũng phải
được xem là căn cứ để hủy các quyết định tố tụng và vô hiệu các hành vi tố
tụng. Tác giả phân loại các quyền chung theo các nhóm sau:
1.2.1.1. Nhóm các quyền có nội dung liên quan đến yêu cầu về bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự Đó là nội dung của các
nguyên tắc được quy định tại Điều 3 BLTTHS: "Bảo đảm pháp chế XHCN
trong tố tụng hình sự". Theo đó, mọi hoạt động TTHS của cơ quan THTT,
người THTT và người tham gia tố tụng (TGTT) phải được tiến hành theo quy
định của BLTTHS và 10 Điều 13 BLTTHS xác định trách nhiệm của các Cơ
quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát (VKS), TA trong việc khởi tố và xử lý
vụ án hình sự. Theo nguyên tắc này, khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì
các cơ quan nói trên, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp theo luật định để xác định tội
phạm và xử lý người phạm tội.
1.2.1.2. Nhóm các quyền bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân nói chung và quyền của bị can, bị cáo nói riêng trong quá trình tiến hành
12
tố tụng hình sự Trong nhóm này, trước hết đó là nguyên tắc tôn trọng và bảo
vệ các quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 4 BLTTHS. Theo
đó, khi THTT, những người THTT trong phạm vi trách nhiệm của mình phải
tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường
xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng,
kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm
pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa. Có thể nói rằng, nguyên tắc này có
nội dung rất gần với đòi hỏi về pháp chế vì hàm chứa trong đó đòi hỏi về việc
xem xét, đánh giá, kiểm tra tính hợp pháp của các biện pháp đã áp dụng. Tuy
nhiên, mục đích của việc đặt ra nguyên tắc này là để bảo đảm sự tôn trọng và
bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong các hoạt động TTHS mà không
chỉ dừng lại ở yêu cầu về việc nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.
1.2.1.3. Nhóm các quyền về tính chất của hoạt động tố tụng hình sự
Những nguyên tắc thuộc nhóm này là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo
được quy định trong BLTTHS nói lên tính chất và đặc điểm hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng, những bảo đảm về tính thận trọng, vô tư, khách
quan trong các hoạt động tố tụng. Đó là nguyên tác quy định trách nhiệm
chúng minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền
nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 10); nguyên tắc bảo
đảm sự vô tư của những người THTT hoặc người tham gia tố tụng (Điều 14);
nguyên tác Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ 11 tuân
theo pháp luật (Điều 16); nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và quyết định theo
đa số (Điều 17); nguyên tắc xét xử công khai (Điều 18); nguyên tắc bảo đảm
quyền bình đẳng trước Toà án. Theo đó, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người vệ quyền lợi của đương sự
đều có quyền đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu
và tranh luận dân chủ trước TA. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ
thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án (Điều 19);
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử (Điều 20); nguyên tắc giải quyết
13
các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự (Điều 28); nguyên tắc bảo đảm quyền
khiếu nại, tố cáo trong TTHS (Điều 31).
1.2.1.4. Nhóm các quyền về sự tham gia của nhân dân và sự phối hợp, hỗ
trợ của các cơ quan nhà nước khác đối với hoạt động tố tụng hình sự Những
nguyên tắc này được coi là những bảo đảm quan trọng cho hiệu hoạt động của
TTHS. Đó là: Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham
gia, theo đó, việc xét xử của Toà án nhân có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án
quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền
với Thẩm phán (Điều 15); nguyên tắc về trách nhiệm của các tổ chức và công
dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm (Điều 25). Theo quy định
điều luật này, cơ quan THTT có trách nhiệm tạo điều kiện để các tổ chức và
công dân tham gia TTHS; phải trả lời kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm cho tổ chức đã báo tin, người đã tố giác tội phạm biết; nguyên tắc về sự
phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và các cơ quan THTT (Điều 26); nguyên
tắc về sự giám sát của các cơ quan tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động
của cơ quan THTT, người THTT (Điều 32).
1.2.2. Quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.2.1. Quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự 12 Giai đoạn chuẩn bị xét xử có ý nghĩa quan trọng đối với việc xét
xử vụ án tại phiên tòa. Theo quy định tại khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015, bị
cáo có những quyền sau đây: - Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử. -
Bị cáo cũng có quyền nhận các quyết định khác có liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của mình như quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp
ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bản
án; quyết định của toà án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật.
Các quyết định này là căn cứ pháp lí để bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa
vụ có liên quan đến các quyết định đó.
1.2.2.2. Quyền của bị cáo tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Phiên
tòa xét xử là nơi bị cáo trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
đồng thời cũng là nơi bị cáo có thể bị kết tội, áp dụng trách nhiệm hình sự. Vì
14
vậy, tại phiên tòa bị cáo có các quyền sau: Thứ nhất, quyền được tham gia
phiên tòa; được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ tại phiên tòa. Thứ
hai, được đưa ra các đề nghị có liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Thứ ba, được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có
thẩm quyề ố tụng kiểm tra, đánh giá; Thứ tư, tự bào chữa, nhờ người bào
chữa. Thứ năm, trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đề nghị chủ
tọa phiên tòa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được chủ tọa
đồng ý; tranh luận tại phiên tòa;
1.2.2.3. Quyền của bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm Sau khi kết
thúc phiên tòa, bị cáo có quyền: - Xem biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những
sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa. 13 - Được nhận quyết định đình chỉ
vụ án; bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định tố tụng khác theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự. - Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án. -
Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 1.3. Bảo đảm thực hiện quyền
của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.3.1. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm Để bảo đảm quyền của bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tòa án
phải thực hiện nhiệm vụ sau: Tông đạt các quyết định tố tụng cho bị cáo đúng
thời hạn luật định; Thẩm phán phải lập kế hoạch xét hỏi sau khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử, trong kế hoạch xét hỏi cần chú ý làm rõ những tình tiết
có lợi cho bị cáo như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt; giải quyết các yêu cầu của bị cáo ở
giai đoạn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm.
1.3.2. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm Các chủ
thể có trách nhiệm bảo đảm cho việc thực hiện quyền của bị cáo bao gồm
Chánh án, Thẩm phán, Chủ tọa phiên, HTND, Thư ký tòa án, Viện trưởng
viện kiểm sát, KSV, Luật sư bào chữa cho bị cáo và các chủ thể có liên quan.
Để bảo đảm quyền của bị cáo, giai đoạn này các chủ thể nói trên phải thực
15
hiện nghĩa vụ theo pháp luật tương ứng với mỗi giai đoạn tố tụng như: - Bảo
đảm quyền được tham gia phiên tòa của bị cáo - Bảo đảm quyền của bị cáo
khi bắt đầu phiên tòa - Bảo đảm quyền của bị cáo ở giai đoạn tranh tụng tại
phiên tòa - Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo khi nghị án và tuyên án Các
quyền của bị cáo trong từng bước của trình tự phiên tòa cần phải được đảm
bảo. Mỗi một giai đoạn khi tiến hành xét xử sẽ tác động trực tiếp tới quyền
nhân thân của bị cáo. Do vậy, từng hoạt động điều hành diễn biến phiên tòa
phải được Thẩm phán – chủ tọa phiên tòa tôn trọng và thực hiện đầy đủ.
1.3.3. Bảo đảm thực hiện quyền của bị cáo sau khi kết thúc phiên tòa sơ
thẩm Sau khi kết thúc phiên tòa, để thực hiện quyền kháng cáo bản án, quyết
định của Tòa án, Tòa án phải giao bản án, quyết định cho bị cáo trong thời
hạn luật định (10 ngày); giao bản án, quyết định cho bị cáo bị xử vắng mặt;
niêm yết bản án theo quy định. Việc làm này giúp bị cáo nắm được nội dung
những phán quyết của tòa án để cân nhắc xem có cần kháng cáo bản án, quyết
định sơ thẩm của tòa án theo thủ tục phúc thẩm không.
1.3.4. Vai trò của bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ
thẩm các vụ án hình sự của Tòa án nhân dân cấp huyện - Bảo đảm quyền của
bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp
huyện thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc cải cách
tư pháp vì quyền con người. - Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét
xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện nhằm hướng tới một nền
tư pháp hiện đại, tôn trọng và bảo vệ các quyền con người. - Bảo đảm quyền
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp
huyện góp phần giải quyết đúng đắn quá trình chứng minh vụ án hình sự. -
Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự
của TAND cấp huyện góp phần bảo đảm tính minh bạch, dân chủ, công khai
trong hoạt động tố tụng. - Bảo đảm quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện góp phần thực hiện đúng đắn
nội dung các quy định và thực hiện các nguyên tắc trong TTHS. - Bảo đảm
quyền của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
16
TAND cấp huyện nhằm khẳng định địa vị pháp lý của bị cáo, minh bạch hóa
các quyền và nghĩa vụ của bị cáo trong hoạt động xét xử. - Bảo đảm quyền
của bị cáo trong hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp
huyện nhằm hạn chế sự vi phạm trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn
chặn đối với bị cáo.
Tiểu kết Chương 1
Trong thế giới phát triển đa chiều như hiện nay thì vấn đề quyền con người
luôn là trung tâm chi phối các hoạt động của mọi quốc gia. Nó mang tính phổ
biến chung của nhân loại. Các quốc gia đã hiện thực hóa và phản ánh vào các
quy phạm pháp của quốc gia mình để tạo cơ chế bảo đảm để quyền con người
được thực thi trên thực tế. Ở Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người là mục tiêu nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, đã được ghi nhận
trong toàn bộ hệ thống pháp luật, đặc biệt đối với các quy định pháp trong
TTHS mà mấu chốt thực hiện các quyền này đối với bị cáo ở giai đoạn xét xử
sơ thẩm các vụ án hình sự hiện Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015 quy định
theo hướng mở rộng quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử, có ảnh hưởng
rất lớn tới hoạt động xét xử. Để bảo đảm quyền của bị cáo, hai giai đoạn là
trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng cần
thực hiện các nội dung theo từng giai đoạn xét xử: giai đoạn trước khi mở
phiên tòa (để bảo đảm quyền của bị cáo, các chủ thể có trách nhiệm phải thực
hiện các hoạt động sau: gửi các quyết định tố tụng cho bị cáo; lập kế hoạch
xét hỏi sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử; tiến hành các công việc
chuẩn bị mở phiên tòa; giải quyết các yêu cầu của bị cáo ở giai đoạn trước khi
mở phiên tòa sơ thẩm các vụ án hình sự của TAND cấp huyện. Hoạt động này
có ý nghĩa quan trọng trong việc để bị cáo thực hiện các quyền của mình. Bởi
lẽ, khi nhận được các quyết định tố tụng này bị cáo bắt đầu bước sang một
giai đoạn khác trong vòng quay tố tụng). Ở giai đoạn tại phiên tòa (Các chủ
thể có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ bao gồm Chánh án, Thẩm phán, Chủ
tọa phiên, HTND, Thư ký tòa án, Viện kiểm sát, KSV, Luật sư bào chữa cho
bị cáo và các chủ thể có liên quan. Để bảo đảm quyền của bị cáo, giai đoạn
17
này các chủ thể phải thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật tương ứng với mỗi giai
đoạn tố tụng).
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA BỊ CÁO TRONG GIAI ĐOẠN XÉT
XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ
PHÚ THỌ, TỈNH PHÚ THỌ VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự tại Toà án nhân dân thị xã Phú Thọ
2.1.1. Đặc điểm tình hình Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ
Tại tỉnh Phú Thọ hiện nay, cơ cấu tổ chức của TAND hai cấp hiện tại có 14
đơn vị gồm: TAND tỉnh và 13 TAND các huyện, thị xã, thành phố, trong đó
có TAND thị xã Phú Thọ với tổng số 12 biên chế. Trong đó có 04 Thẩm
phán, 03 Thư ký, 01 Thẩm tra viên, 01Chuyên viên, 01 kế toán và 02 cán bộ
hợp đồng 68. Đội ngũ lãnh đạo, quản lý có lập trường chính trị vững vàng,
được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao
trong công tác. Hoạt động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự tại TAND thị xã
Phú Thọ nói riêng và TAND cấp huyện nói chung có một số đặc điểm riêng
như sau: Bị cáo bị truy tố và xét xử về các tội phạm có hình phạt ở mức độ
nghiêm khắc nhất nên đặt ra yêu cầu cần phải bảo vệ quyền cho bị cáo tốt
nhất, hạn chế oan, sai. Ở một số vụ án hình sự bị cáo được hưởng một số
quyền nhất định mà theo quy định của pháp luật Tòa án phải đáp ứng như bị
cáo là người chưa thành niên phải có người đại diện tại phiên tòa. Tùy theo
tình hình tội phạm, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của địa phương
trong những thời điểm nhất định mà vụ án sơ thẩm hình sự phải được giải
quyết tại TAND cấp huyện. Tuy nhiên khi đưa vụ án hình sự ra xét xử sơ
thẩm ở TAND cấp huyện, ở một số địa phương, bị cáo, người làm chứng,
người đại diện quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo, người giám hộ sống ở vùng
sâu, vùng xa gặp khó khăn khi di chuyển, hay khó khăn trong việc nhận các
quyết định tố tụng Do vậy, TAND cấp huyện và các cơ quan hữu quan phải
chuẩn bị những điều kiện tốt nhất để bảo đảm quyền của bị cáo.
18
2.1.2. Những kết quả đạt được Kết quả công tác xét xử của TAND thị xã
giai đoạn từ 01/01/2016 đến 31/12/2019 thể hiện ở các nội dung sau: Số liệu
01/01/2016 đến 31/12/2019 thụ lý 262 vụ/514 bị cáo Trong đó: + Đã giải
quyết: 258 vụ/501 bị cáo (đạt tỷ lệ 98% so với số thụ lý) Số đã xét xử: 250
vụ/489 bị cáo, trong đó xét xử lưu động 12 vụ. Tác giả tiến hành phân tích
công tác xét xử của TAND thị xã Phú Thọ năm 2019, từ đó đưa ra đánh giá
khái quát công tác xét xử của TAND thị xã trong công tác đảm bảo quyền của
bị cáo trong giai đoạn xét xử. Theo báo cáo kết quả công tác năm 2019,
phương hướng nhiệm vụ năm 2020 của TAND thị xã ngày 03 tháng 11 năm
2019, thì công tác giải quyết, xét xử các loại án (số liệu được tính từ ngày
01/01/2019 đến 31/10/2019). Kết quả giải quyết như sau: Tòa án nhân dân thị
xã thụ lý 32 vụ - 52 bị cáo (cũ chuyển qua 05 vụ), giải quyết 29 vụ - 47 bị
cáo, đạt tỷ lệ 90%. So với cùng kỳ năm 2018, thụ lý giảm 02 vụ (giảm 0,9%),
giải quyết giảm 04 vụ (giảm 0,87%). Tòa án nhân dân thị xã đã phối hợp tốt
với các cơ quan liên quan đưa ra xét xử lưu động 02 vụ - 06 bị cáo. Đây là các
vụ án có liên quan đến một số loại tội được xác định là án trọng điểm về “cố ý
gây thương tích, trộm cắp tài sản, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
chất ma túy” cần được mở rộng phạm vi tuyên truyền giáo dục pháp luật
trong nhân dân và phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
2.1.3. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân của những hạn chế,
vướng mắc trong thực hiện quyền của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm *
Những hạn chế, vướng mắc khi thực hiện một số quyền của bị cáo trong xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung - Hạn chế, vướng mắc khi thực hiện các
quyền của bị cáo như: quyền bình đẳng trước tòa án, được xét xử bởi tòa án
độc lập, không thiên vị và công khai. 18 - Hạn chế, vướng mắc khi thực hiện
quyền được suy đoán vô tội của bị cáo. - Hạn chế, vướng mắc trong việc thực
hiện quyền bào chữa của bị cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Những
hạn chế, vướng mắc đó xuất phát từ những nguyên nhân sau: Thứ nhất, pháp
luật chưa quy định chế tài đối với những người tiến hành tố tụng khi cố ý gây
khó khăn, trở ngại cho người bào chữa. Thứ hai, pháp luật chưa quy định chế
tài đối với người bào chữa do không thực hiện hết trách nhiệm của người bào
19
chữa. * Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện quyền của bị cáo khi
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại TAND thị xã Phú Thọ - Những hạn chế,
vướng mắc trong việc thực hiện quyền của bị cáo tại phần thủ tục bắt đầu
phiên tòa. - Những hạn chế, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền của bị cáo
trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm tại Tòa án nhân dân thị xã Phú
Thọ. * Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập khi thực hiện quyền của bị
cáo trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ: -
Quy định về thời
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_quyen_cua_bi_cao_trong_giai_doan_xet_xu_so.pdf