Mục lục
Mở đầu
0.1. Lý do chọn đề tài.1
0.2. Đối tượng, nhiệm vụ và ý nghĩa nghiên cứu của luận văn.2
0.3. Tư liệu khảo sát và phương pháp nghiêncứu.3
0.4. Bố cục luận văn.4
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung
1.1. Nhóm ngôn ngữ Tày-Thái ở Việt Nam . 5
1.2. Một số vấn đề chung liên quan đến thành ngữ.8
1.2.1. Quan niệm về thành ngữ . 9
1.2.2. Phân biệt thành ngữ với các đơn vịkhác.10
A. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ. 11
B. Phân biệt thành ngữ với quán ngữ . 13
C. Phân biệt thành ngữ với từ ghép. 14
D. Phân biệt thành ngữ với ca dao và dân ca. . 14
1.3. Hướng nghiên cứu thành ngữ trong luận văn.15
1.3.1. Hướng phân loại và tiêu chí phân loại thành ngữ có yếu tố chỉ độngvật . 15
1.3.2. Ngữ nghĩa thành ngữ có yếu tố chỉ động vật. 18
A. Ngữ nghĩa thành ngữ. . 18
B. Ngữ nghĩa thành ngữ có yếu tố chỉ động vật. 20
1.3.3. Biểu trưng ngữ nghĩa trong thành ngữ có yếu tố chỉ động vật. 22
A. Mối quan hệ giữa văn hóa ư ngôn ngữ và tư duy. 22
B. Đặc trưng văn hóa trong ngữ nghĩa thành ngữ có yếu tố chỉ độngvật . 23
1.4. Tiểu kết.25
Chương 2. So sánh cấu trúc thành ngữ có yếu tố chỉđộng vật trong tiếng Việt với một số ngôn ngữ nhóm
Tày-Thái ở Việt Nam
2.1. Thành tố tham gia cấu tạo thành ngữ có yếu tố chỉ động vật
trong tiếng Việt và ngôn ngữ nhóm Tày-Thái (trên cứ liệu thành ngữ TàyNùng). 27
2.2. So sánh cấu trúc thành ngữ có yếu tố chỉ động vật trong tiếng
Việt và ngôn ngữ nhóm Tày-Thái (trên cứ liệu thành ngữ TàyưNùng).32
2.2.1. Thành ngữ so sánh có yếu tố chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếngTàyưNùng.32
A. Đặc điểm thành ngữ so sánh. 32
B. Cấu trúc thành ngữ so sánh có yếu tố chỉ động vật trong tiếng
Việt và tiếng Tàyư Nùng. 34
a. Cấu trúc A như B. 34
b. Cấu trúc Như B. 42
c. Cấu trúc AB. 43
2.2.2. Thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng có yếu tố chỉ động vật trong tiếng
Việt và tiếng TàyưNùng.45
A. Đặc điểm thành ngữ ẩn dụ hóa đốixứng.45
B. Cấu trúc thành ngữ ẩn dụ hóa đối xứng có yếu tố chỉ động vật
trong tiếng Việt và tiếng TàyNùng.47
a. Các thành tố cấu tạo nên thành ngữ có quan hệ chủưvị. 47
b. Các thành tố cấu tạo nên thành ngữ có quan hệ chính phụ . 50
c. Các thành tố cấu tạo nên thành ngữ có quan hệ đẳng lập. 52
2.2.3. Thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng có yếu tố chỉ động vật trong
tiếng Việt và tiếng TàyưNùng ..53
A. Đặc điểm thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng. 53
B. Cấu trúc thành ngữ ẩn dụ hóa phi đối xứng có yếu tố chỉ động
vật trong tiếng Việt và tiếng TàyưNùng . 54
a. Thành tố cấu tạo nên thành ngữ có quan hệ chủưvị . 54
b. Thành ngữ có kết cấu cụm danh từ. 55
c. Thành ngữ có kết cấu cụm động từ . 56
c. Thành ngữ có kết cấu cụm tính từ. 572.3. Tiểu kết.58
Chương 3. So sánh ngữ nghĩa các đơn vị thành ngữ có
yếu tố chỉ động vật trong tiếng Việt với một số ngôn
ngữ Nhóm Tày-Thái ở Việt Nam
3.1. Ngữ nghĩa thành ngữ có yếu tố chỉ động vật trong tiếng Việt và
ngôn ngữ nhóm Tày-Thái (trên cứ liệu thành ngữ TàyNùng). 61
3.1.1. Thành ngữ có yếu tố chỉ động vật phản ánh những đặc điểm, thuộc
tính của con người. 61
A. Về hình dáng conngười.61
B. Về tính cách, tính nết con người. 64
C. Về cử chỉ, điệu bộ con người. 66
D. Về hoạt động con người. 67
a. Về di chuyển. 67
b. Về ăn uống. 68
c. Về nóinăng.69
E. Về nhận thức, trí tuệ của con người. 70
G. Về thân phận con người. 71
H. Về quan hệ giữa người vớingười.72
I. Về tình trạng, tình thế của con người. 73
3.1.2. Thành ngữ có yếu tố chỉ động vật phản ánh cuộc sống của conngười . 75
A. Về món ăn ngon. . 75
B. Về sự giàu có sang trọng. . 75
C. Về cảnh nghèo hèn, túng bấn. 76
3.1.3. Thành ngữ có yếu tố chỉ động vật phản ánh kinh nghiệm sống. 76
3.2. Biểu trưng ngữ nghĩa qua thành ngữ có yếu tố chỉ động vật
trong tiếng Việt và ngôn ngữ nhóm Tày-Thái (trên cứ liệu thành ngữ TàyNùng) .78
3.2.1. Tần số và phân nhóm các con vật trong thành ngữ. 78
A. Tần số các con vật trong thành ngữ. 78
B. Phân nhóm các con vật trong thành ngữ. 84
3.2.2. Một con vật liên tưởng đến nhiều sự vật,hiện tượng trong cuộcsống.
873.2.3. Một sự vật, hiện tượng được liên tưởng bằng nhiều con vật. 91
3.2.4. Những giá trị biểu trưng qua một số con vật tiêu biểu trong thànhngữ . 94
A. Giá trị biểu trưng của chó. 94
B. Giá trị biểu trưng của trâu. 97
C. Giá trị biểu trưng của hổ. 99
3.3. Tiểu kết . 100
Kếtluận.103
Tài liệu thamkhảo.107
Phụ lục
24 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 634 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn So sánh cấu trúc - ngữ nghĩa các đơn vị thành ngữ có yếu tố chỉ động vật trong tiếng Việt với một số ngôn ngữ nhóm Tày-Thái ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t phản ánh kinh nghiệm sống..... 76
3.2. Biểu tr-ng ngữ nghĩa qua thành ngữ có yếu tố chỉ động vật
trong tiếng Việt và ngôn ngữ nhóm Tày-Thái (trên cứ liệu thành ngữ Tày-
Nùng) ......................................................................................................
78
3.2.1. Tần số và phân nhóm các con vật trong thành ngữ........................ 78
A. Tần số các con vật trong thành ngữ............................................ 78
B. Phân nhóm các con vật trong thành ngữ...................................... 84
3.2.2. Một con vật liên t-ởng đến nhiều sự vật,hiện t-ợng trong cuộc
sống.
87
3.2.3. Một sự vật, hiện t-ợng đ-ợc liên t-ởng bằng nhiều con vật............. 91
3.2.4. Những giá trị biểu tr-ng qua một số con vật tiêu biểu trong thành
ngữ..
94
A. Giá trị biểu tr-ng của chó............................................................ 94
B. Giá trị biểu tr-ng của trâu........................................................... 97
C. Giá trị biểu tr-ng của hổ............................................................. 99
3.3. Tiểu kết ........................................................................................... 100
Kết
luận.................................................................................................
103
Tài liệu tham
khảo...............................................................................
107
Phụ lục
Mở đầu
0.1. Lý do chọn đề tài
Thành ngữ là một trong những kho tàng có giá trị về ngôn ngữ - văn
hóa của mỗi dân tộc. Hầu hết các đơn vị thành ngữ đều do nhân dân sáng
tác, đ-ợc truyền từ đời này sang đời khác nên mang đậm chất dân gian và
tính bình dị đời th-ờng. Thành ngữ chứa đựng đầy đủ những đặc tính sáng
tạo của lối nói dân gian. Đó là lối nói ví von so sánh, mang tính hình t-ợng,
cụ thể và gợi cảm, lối khoa tr-ơng trào lộng dí dỏm và tế nhị, lối nói linh hoạt
và giàu nhạc điệu đồng thời cũng rất giàu hình ảnh, sinh động, cô đọng, hàm
súc, theo lối cấu trúc đơn giản nên rất dễ nhớ và dễ thuộc. Do đó, thành ngữ
đ-ợc vận dụng rất nhiều trong cuộc sống một cách nhuần nhuyễn và tự
nhiên. Nó phản ánh rõ nét nền văn hóa nông nghiệp lúa n-ớc mà trồng trọt
và chăn nuôi là điển hình cho loại hình văn hóa gốc nông nghiệp ở Việt Nam.
Chẳng hạn nh- lối sinh hoạt tùy tiện, co giãn giờ giấc (giờ cao su), làm ăn lề
mề, chậm chạp trong mọi công việc, từ sinh hoạt hàng ngày đến những việc
quan trọng cần kíp: Ăn cơm gà gáy cất binh nửa ngày; Khửn quân chắng
slân đăng mạ (Xuất quân mới xỏ sẹo ngựa - Tày-Nùng) ~ N-ớc đến chân
mới nhảy... Sự vận dụng này tự nhiên đến nỗi, nhiều khi chúng ta vô thức coi
đó là thành ngữ, mà chỉ đơn giản là “câu cửa miệng” trong giao tiếp hàng
ngày của một cộng đồng dân tộc. Thành ngữ là một trong những ph-ơng tiện
ngôn ngữ “đưa đẩy” để đạt đ-ợc hiệu quả cao trong giao tiếp, và đằng sau
nó, tiềm tàng, ẩn chứa những nét độc đáo của một nền văn hoá, văn minh,
phép đối nhân xử thế, đạo lý, thẩm mỹ, của cả một dân tộc.
Trong những năm gần đây, cùng với việc nghiên cứu thành ngữ tiếng
Việt thì thành ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam bắt đầu đ-ợc quan tâm.
Nh-ng nhìn chung, mảng thành ngữ này mới chỉ dừng lại ở những công trình
có tính chất s-u tầm còn nghiên cứu sâu về thành ngữ các dân tộc thiểu số ở
Việt Nam thì hầu nh- vẫn vắng bóng.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em chung
sống với nhau suốt từ Bắc chí Nam tạo ra một bức tranh văn hoá vô cùng đa
dạng, phong phú và phức tạp. Một trong những nguồn t- liệu phong phú và
thể hiện rõ nhất về văn hóa các dân tộc này chính là các đơn vị thành ngữ.
Nó vừa gây hứng thú cho ng-ời nghiên cứu nh-ng cũng lại vô cùng phức tạp
và khó khăn trong quá trình bóc tách, tìm tòi và phát hiện ra những nét đặc
tr-ng riêng của từng dân tộc nằm trong bản sắc chung của các dân tộc thiểu
số Việt Nam.
Tr-ớc tình hình nh- vậy, chúng tôi chọn đề tài: So sánh cấu trúc
ngữ nghĩa các đơn vị thành ngữ có yếu tố chỉ động vật trong tiếng
Việt với một số ngôn ngữ nhóm Tày-Thái ở Việt Nam làm luận văn
thạc sĩ của mình. Hi vọng luận văn sẽ mở ra cho chúng ta thấy đ-ợc những
đặc tr-ng về cấu trúc, ngữ nghĩa và xa hơn nữa là cả một nền văn hóa của
mỗi dân tộc đ-ợc thể hiện qua các đơn vị thành ngữ.
0.2. Đối t-ợng, nhiệm vụ và ý nghĩa nghiên cứu của luận
văn
2.1. Đối t-ợng nghiên cứu
Đối t-ợng nghiên cứu của luận văn là các đơn vị thành ngữ có yếu tố
chỉ động vật trong tiếng Việt (Kinh) và tiếng Tày-Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ
Tày-Thái ở Việt Nam.
Trên thực tế, việc s-u tầm toàn bộ các đơn vị thành ngữ của tất cả các
dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái ở Việt Nam là vô cùng lớn và khó
khăn. Chính vì vậy, chúng tôi giới hạn đối t-ợng nghiên cứu của luận văn là
các đơn vị thành ngữ có yếu tố chỉ động vật trong tiếng Việt (Kinh) và tiếng
Tày-Nùng làm đại diện cho các ngôn ngữ thuộc nhóm Tày-Thái ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ đặt ra trong nghiên cứu luận văn này là:
- Thống kê đ-ợc số l-ợng t-ơng đối đầy đủ các đơn vị thành ngữ có
yếu tố chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Tày-Nùng.
- Miêu tả, so sánh về mặt cấu trúc, ngữ nghĩa giữa các đơn vị thành ngữ
có yếu tố chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Tày-Nùng một cách tỉ mỉ và
có hệ thống.
- Đ-a ra đ-ợc một hệ liên t-ởng văn hoá đặc tr-ng của mỗi dân tộc.
2.3. ý nghĩa nghiên cứu
Nghiên cứu riêng về thành ngữ tiếng Việt cũng nh- những nghiên cứu
về thành ngữ tiếng Tày-Nùng tr-ớc đây đã có nhiều ng-ời nghiên cứu và đã
có những kết quả nhất định. Nh-ng đây sẽ là công trình đầu tiên về so sánh
cấu trúc, ngữ nghĩa các đơn vị thành ngữ có yếu tố chỉ động vật của các ngôn
ngữ này.
Về thực tiễn, luận văn sẽ có một số đóng góp cụ thể sau:
- Giới thiệu một cách hệ thống về các đơn vị thành ngữ có yếu tố chỉ
động vật trong tiếng Việt và tiếng Tày-Nùng.
- Góp phần tìm hiểu và giữ gìn đ-ợc giá trị văn hoá của ng-ời Việt
(Kinh) và các dân tộc Tày-Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái ở Việt Nam.
- Thấy đ-ợc giá trị ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số sẽ góp phần gìn
giữ tiếng nói của các dân tộc thiểu số ở n-ớc ta.
- Cung cấp thêm thông tin về thành ngữ chỉ động vật tiếng Tày-Nùng
cho những nhà nghiên cứu quan tâm đến các đơn vị ngôn ngữ độc đáo này.
0.3. T- liệu khảo sát và ph-ơng pháp nghiên cứu
3.1. T- liệu khảo sát
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã khảo sát và thu thập t- liệu dựa
trên các quyển từ điển, sách báo và các bài viết của các nhà nghiên cứu liên
quan đến thành ngữ Việt và thành ngữ Tày-Nùng. Cụ thể là:
Các tài liệu liên quan đến ngôn ngữ Tày-Nùng. Chủ yếu là 2 cuốn từ
điển: Từ điển thành ngữ - Tục ngữ dân tộc Tày (Triều Ân, Hoàng Quyết) và
Từ điển Tày - Nùng - Việt (Lục Văn Ma, Lục Văn Pảo, Hoàng Chí).
Về thành ngữ tiếng Việt, chúng tôi lấy t- liệu dựa trên quyển từ điển:
Từ điển thành ngữ Việt Nam (Nguyễn Nh- ý chủ biên), tham khảo thêm
quyển: Từ điển thành ngữ, tục ngữ Việt Nam (Vũ Dung, Vũ Thuý Anh, Vũ
Quang Hào).
3.2. Ph-ơng pháp nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số ph-ơng pháp chính sau:
ph-ơng pháp thống kê, ph-ơng pháp miêu tả, ph-ơng pháp so sánh và
ph-ơng pháp đối chiếu. Các ph-ơng pháp này đ-ợc áp dụng đan xen nhau
trong từng ch-ơng và trong từng phần để tạo ra tính hài hoà, hợp lý và tính
khoa học của luận văn.
Ph-ơng pháp thống kê đ-ợc chúng tôi sử dụng để xem xét số l-ợng
các đơn vị thành ngữ có yếu tố chỉ động vật trong tiếng Việt và tiếng Tày-
Nùng; tỉ lệ, tần số, xuất hiện các con vật,...
Ph-ơng pháp miêu tả đ-ợc sử dụng để tập trung miêu tả những đặc
điểm, đặc tr-ng về mặt cấu trúc và ngữ nghĩa của thành ngữ có yếu tố chỉ
động vật giữa tiếng Việt và tiếng Tày-Nùng.
Ph-ơng pháp so sánh và ph-ơng pháp đối chiếu cũng là các ph-ơng
pháp đ-ợc sử dụng trong nghiên cứu ngôn ngữ học. Hai ph-ơng pháp này lấy
đối t-ợng chính là các đơn vị thành ngữ có yếu tố chỉ động vật trong tiếng
Việt và tiếng Tày-Nùng nhằm làm sáng tỏ những nét giống nhau và khác
nhau về cấu trúc và ngữ nghĩa của chúng.
0.4. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, bố cục
của luận văn gồm ba ch-ơng chính:
Ch-ơng 1: Một số vấn đề lý luận chung
Ch-ơng 2: So sánh cấu trúc thành ngữ có yếu tố chỉ động vật trong
tiếng Việt với một số ngôn ngữ nhóm Tày-Thái ở Việt Nam
Ch-ơng 3: So sánh ngữ nghĩa thành ngữ có yếu tố chì động vật
trong tiếng Việt với một số ngôn ngữ nhóm Tày-Thái ở Việt Nam
Ch-ơng 1
Một số vấn đề lý luận chung
1.1. Nhóm ngôn ngữ Tày-Thái ở Việt Nam
Các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái ở Việt Nam có số dân
3.681.090 ng-ời (theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê 01/04/1999)
tập trung chủ yếu ở vùng núi phía Bắc Việt Nam. Đây là vùng núi cao, s-ờn
dốc, sông suối nhiều, khí hậu khắc nghiệt lại bị bao bọc bởi những dãy núi
cao tạo ra những tiểu vùng văn hóa địa lý riêng biệt. Trong đó, vùng văn hóa
Tây Bắc có địa hình núi cao hiểm trở với dãy Hoàng Liên Sơn sừng sững mà
người Thái gọi là “Khau phạ” (Sừng trời) nằm bên phải con sông Hồng, tổ
tiên ng-ời Thái gọi là Nặm Tao liên quan tới lịch sử thiên di của ng-ời Thái
đen vào Tây Bắc Việt Nam. Đây cũng là vùng tập trung dân c- chủ yếu của
ng-ời Thái, ngoài ra còn có ng-ời Bố Y, ng-ời Lự và ng-ời Lào (cùng thuộc
nhóm Tày-Thái). Cũng thuộc vùng núi phía bắc còn có vùng Đông Bắc với
cấu trúc theo kiểu hình cánh cung tụ lại ở Tam Đảo và mở ra ở phía Bắc và
Đông Bắc. Đồi núi ở đây thuộc độ cao trung bình với hệ thống sông ngòi đặc
tr-ng có độ dốc cao, lòng sông lớn, dòng chảy mạnh. C- dân chủ yếu ở đây
là ng-ời Tày và ng-ời Nùng sống đan xen và ảnh h-ởng nhiều yếu tố văn hóa
lẫn nhau. Từ những đa dạng của môi tr-ờng sinh thái, điều kiện tự nhiên trên
là yếu tố góp phần tạo nên sự đa dạng văn hóa trong khu vực.
Theo Trần Trí Dõi [14;145], nhóm ngôn ngữ Tày-Thái đ-ợc chia thành
hai tiểu nhóm nhỏ là Nhóm Tày (nhóm Thái trung tâm) và nhóm Thái (nhóm
Thái Tây Nam). Nhóm Tày gồm có 3 dân tộc: Tày (1.477.514 ng-ời), Nùng
(856.412 ng-ời) và Bố Y (1864 ng-ời); Nhóm Thái cũng có 3 dân tộc là Thái
(1.328.725 ng-ời), Lào (11.611 ng-ời) và Lự (4964 ng-ời). Về lịch sử, thì từ
khoảng bốn năm nghìn năm nay các nhóm dân tộc Tày-Thái đã từng giữ một
vai trò quan trọng trong lịch sử miền Nam Trung Quốc, họ đã sáng tạo nên
nền văn hóa của mình và đã truyền bá ảnh h-ởng văn hóa đó đến các dân tộc
xung quanh [64;372]. Khi thiên di xuống Việt Nam thì các dân tộc này diễn
ra không đồng đều mà ở các giai đoạn và lịch sử khác nhau.
Về ngôn ngữ. Cả 6 dân tộc này đều nói ngôn ngữ nhóm Tày-Thái (ngữ
hệ Thái-Ka Đai) thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập. Trong đó có dân tộc Tày,
Nùng, Thái và Lào đều có chữ viết cổ, chỉ có dân tộc Lự và Bố Y là không có
chữ viết. Chữ viết của dân tộc Lào ở Việt Nam về cơ bản có cùng chữ viết với
đồng tộc là chủ thể ở n-ớc Lào [14;211]. Còn ng-ời Thái là một dân tộc khá
thống nhất trong các dân tộc thiểu số Việt Nam, họ có nền văn hóa, kinh
tế,... phát triển từ rất lâu nên ng-ời Thái có văn tự cổ cho riêng họ với bốn
loại chữ viết khác nhau là loại chữ Thái của ng-ời Thái Đen, Thái Trắng ở
vùng Tây Bắc; Chữ Thái của ng-ời Thái Thanh hay Man Thanh ở vùng
Thanh Hóa, Nghệ An; Chữ Thái của ng-ời Thái ở Quỳ Châu và chữ Lai Pao.
Với dân tộc Tày và Nùng thì chữ viết của họ sử dụng Hán tự để ghi tiếng nói
của mình, hay gọi là chữ Nôm Tày, chữ Nôm Nùng. Riêng về tiếng Nùng còn
một số ý kiến ch-a thống nhất. Một số ng-ời cho rằng ngôn ngữ này ch-a có
văn tự cổ mặc dù ng-ời Nùng có một hệ thống văn học dân gian phát triển;
nh-ng một số ý kiến khác cũng lại cho rằng ng-ời Nùng cũng có chữ Nôm
Nùng, giống nh- chữ Nôm Tày. Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng tiếng Tày
và tiếng Nùng là một ngôn ngữ thống nhất. Với mục tiêu bảo tồn, phát huy
tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số nên năm 1961, Nhà n-ớc đã ban
hành hệ thống văn tự Tày-Nùng theo mẫu tự La tinh và đ-a vào cho ng-ời
Tày-Nùng sử dụng từ đó cho đến ngày nay [14;50].
Nh- vậy, để đáp ứng các yêu cầu giúp cho ng-ời dân tộc mau chóng
xóa nạn mù chữ, tiếp thu những thuận lợi về kiến thức văn hóa, khoa học và
kỹ thuật, đồng thời nhằm giúp đỡ ng-ời dân tộc có thể học đ-ợc nhanh tiếng
phổ thông, thúc đẩy sự nghiệp phát triển văn hóa, văn nghệ của dân tộc
mình, Hội đồng chính phủ đã phê chuẩn (theo số 153-CP ngày 20 tháng 8
năm 1969) chữ Tày-Nùng và chữ Thái cải tiến từ thứ chữ cổ sang mẫu tự La
tinh. Nó đã góp phần gìn giữ và làm giàu thêm nền văn hóa của các dân tộc
này, từ đó thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt trong đời sống xã hội của ng-ời
dân tộc.
Cuộc cải cách này đã đem lại đ-ợc những kết quả khả quan cho việc
học tiếng của ng-ời dân tộc đồng thời đem lại những thuận lợi cho ng-ời
muốn tìm hiểu, nghiên cứu ngôn ngữ của các dân tộc này qua hệ thống chữ
La tinh. Từ đó mở ra đ-ợc những những h-ớng nghiên cứu liên ngành, đa
ngành trong so sánh, đối chiếu về ngôn ngữ giữa các dân tộc với nhau mà
tr-ớc đây ch-a có điều kiện tìm hiểu sâu. Qua đó nhiều nét văn hóa đ-ợc vén
mở qua ngôn ngữ của các dân tộc này.
Để thấy đ-ợc vị trí nhóm ngôn ngữ Tày-Thái trong họ Thái-Kađai và
các ngôn ngữ có mặt ở Việt Nam, chúng tôi dựa theo sơ đồ của M. Ferlus
[14;44] đ-ợc khái quát nh- sau:
1.2. Một số vấn đề chung liên quan đến thành ngữ
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về thành ngữ. Bởi thành ngữ là kho
tàng đồ sộ của cả dân tộc đúc kết nên mà không phải ngày một ngày hai là
có đ-ợc. Nó là kết quả của quá trình chắt lọc tinh hoa văn hóa của mỗi tộc
Họ Thai -
Kadai
Tiểu họ Ka - đai Nhóm
Ka -đai
Tiếng Sán
Chay
Tiếng
La Ha
Tiếng
Pu Péo
Tiếng
Cơ Lao
Tiếng
La Chí
Tiểu họ
Kam-Thai
Bê-
Thai
Thai-
Day
Cao-
Lan
Nhóm
Cao Lan
Thái-
Tay
Nhóm
Tày
Tiếng
Tày
Tiếng
Nùng
Tiếng
Bố Y
Tiếng
Thái
Tiếng
Lào
Tiếng
Lự
Nhóm
Thái
Day-
Sec
Nhóm
Day
Tiếng Giáy
ng-ời, của mỗi thế hệ xây đắp nên. Và thành ngữ còn phản ánh cả một hệ t-
duy liên t-ởng về thế giới quan của mỗi dân tộc. Nh- nói đến sự may mắn
của một ng-ời nào đó đ-ợc vào nơi sung s-ớng, đầy đủ một cách tình cờ,
ngẫu nhiên thì ng-ời Tày-Nùng có thành ngữ Cáy tôc bôm khẩu slan (gà rơi
mâm gạo) còn ng-ời Kinh thì có Chuột sa chĩnh gạo.
Cho đến nay, ch-a có một công trình nghiên cứu kỹ l-ỡng về thành
ngữ tiếng Tày-Nùng. Vì vậy chúng tôi không có cơ sở để so sánh hay bình
luận về những quan điểm, ý kiến của các nhà nghiên cứu đ-a ra về thành ngữ
Tày-Nùng trên khía cạnh lý thuyết để so sánh đối chiếu những khái niệm của
các nhà Việt ngữ học. Phần lớn các công trình khác nghiên cứu về tiếng Tày-
Nùng đều dựa trên những thành tựu nghiên cứu tiếng Việt để nghiên cứu.
Mặc dù nằm trong hai họ ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau nh-ng tiếng
Việt và tiếng Tày-Nùng lại thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập không biến hình,
trong cuốn Tay-Nung language in the north of Vietnam của Đoàn Thiện
Thuật, tác giả cũng khẳng định tiếng Tày-Nùng giống nh- tiếng Việt hiện đại
“... they are similar to modern Vietnamese” [58,15]. Những đặc điểm về loại
hình giữa hai ngôn ngữ đ-ợc mô tả khá rõ bằng các ví dụ sau [15,23]:
Vấn đề đầu tiên đề cập đến đó là từ không bao giờ biến hình. Điều này
đ-ợc chứng minh rõ khi chúng ta so sánh giữa tiếng Việt, Tày-Nùng và tiếng
Anh (tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết):
Tiếng Việt gà con gà mấy con gà
Tiếng Tày-Nùng cáy tua cáy bai tua cáy
Tiếng Anh chicken chicken chickens
Quan hệ ngữ pháp và ngữ nghĩa ngữ pháp đ-ợc biểu thị chủ yếu bằng
h- từ và trật tự từ nh-:
Dùng h- từ:
Tiếng Việt: nói - đừng nói, ch-a nói
Tiếng Tày-Nùng: cạ (nói) - dá cạ, páy cạ (đừng nói, ch-a nói),...
Dùng trật tự từ:
Tiếng Việt : nhà cửa - cửa nhà ; nhà cháy - cháy nhà
Tiếng Tày-Nùng: vài kin (trâu + ăn = trâu ăn) - kin vài (ăn trâu);
Chào lao (anh + sợ = anh sợ), lao chào (sợ anh),...
Về tính phân tiết. ở cả tiếng Việt và tiếng Tày-Nùng thì ranh giới các
âm tiết th-ờng trùng với ranh giới các hình vị.
Và cuối cùng là từ có ý nghĩa đối t-ợng, tính chất, hành động... không
phân biệt nhau về mặt cấu trúc. Tất cả đều đ-ợc diễn đạt bằng từ không biến
đổi nh-: tiếng Việt: đ-ờng (đ-ờng đi) và đ-ờng (đ-ờng ăn).
Từ những đặc điểm mô tả trên, chúng tôi thấy giữa tiếng Việt và Tày-
Nùng có nhiều đặc điểm về loại hình giống nhau để có thế chấp nhận đ-a ra
những lý luận chung về thành ngữ cho cả hai ngôn ngữ.
1.2.1. Quan niệm về thành ngữ
Cho đến nay, quan niệm về thành ngữ vẫn ch-a đ-ợc thống nhất, còn
nhiều ý kiến băn khoăn và trăn trở về nó. Đã có nhiều cuộc tranh luận diễn
ra giữa các nhà Việt ngữ học xoay quanh vấn đề thành ngữ. Nguyễn Văn
Mệnh (1972) đã đ-a ra ranh giới giữa thành ngữ với tục ngữ từ đó đ-a ra
những tiêu chí nhận diện về thành ngữ nh-: Về nội dung, thành ngữ giới
thiệu một hình ảnh, một hiện t-ợng, một trạng thái, một tính cách, một thái
độ mang tính chất hiện t-ợng; về hình thức ngữ pháp, nói chung thành ngữ
chỉ là một cụm từ, ch-a phải là một câu hoàn chỉnh. Nguyễn Thiện Giáp
(1975) đ-a ra khái niệm thành ngữ tiếng Việt: Thành ngữ cũng là đơn vị định
danh, cũng là tên gọi của một sự vật, hiện t-ợng, là sự thể hiện của một khái
niệm (có tính thống nhất về nghĩa), đồng thời cái nghĩa cộng lại của các thành
tố theo quy luật cú pháp cũng cần đ-ợc hiểu (tính tách rời về nghĩa)... nghĩa
chung của thành ngữ bao giờ cũng là nghĩa hình t-ợng [19,50]. Hồ Lê (1976)
đ-a ra quan niệm về thành ngữ: Thành ngữ là những tổ hợp từ (gồm nhiều từ
hợp lại) có tính vững chắc về cấu tạo và tính bóng bẩy về ý nghĩa, dùng để
miêu tả một hình ảnh, một hiện t-ợng, một tính cách hay một trạng thái nào
đó [33;97].
Tiếp tục công việc này, trong những năm gần đây cũng có một số tác
giả quan tâm đến chúng nh- [34,9]: Vũ Đức Nghiệu, Vũ Quang Hào, Nguyễn
Đức Tồn, Triều Nguyên, Nguyễn Nh- ý, Nguyễn Xuân Hoà,... với nhiều
h-ớng khác nhau thể hiện những băn khoăn của mình tr-ớc một kho tàng đồ
sộ thành ngữ của cả dân tộc.
Từ những tổng hợp trên, kết hợp với những nhìn nhận và suy nghĩ
riêng để phù hợp với luận văn, chúng tôi xin đ-a ra cách hiểu về thành ngữ
nh- sau:
Về hình thức: Thành ngữ là một cụm từ cố định, ch-a phải là một
câu hoàn chỉnh, có kết cấu bền vững và t-ơng đối chặt chẽ.
Về nội dung: Thành ngữ giới thiệu một hình ảnh, một hiện t-ợng,
một trạng thái, một thái độ mang tính hiện t-ợng của tự nhiên, xã hội và con
ng-ời. Bởi vậy bên cạnh nghĩa đen, thành ngữ bao giờ cũng có nghĩa bóng.
Ng-ời ta dùng và hiểu thành ngữ theo nghĩa bóng.
Ví dụ: ăn nh- hùm đổ đó. “đó” là dụng cụ đơm cá, đặt ở dòng n-ớc
chảy. Hùm (hổ) th-ờng tìm chỗ đơm đó để ăn cá, nó không ăn từng con mà
xé rách đó rồi cho hết cá vào miệng. Từ nghĩa đen đó, suy ra nghĩa bóng là
ăn rất khỏe và rất nhiều.
1.2.2. Phân biệt thành ngữ với các đơn vị khác
Thành ngữ cũng giống nh- tục ngữ, ca dao,... đều là những chắt lọc
tinh túy của dân tộc, đ-ợc đúc kết, rút kinh nghiệm mà thành. Nếu chỉ nhìn
qua, chúng ta cũng sẽ rất khó phân biệt đ-ợc đâu là thành ngữ, đâu là tục
ngữ,... vì tất cả các đơn vị này về cơ bản chúng xuất phát từ dân gian, do
nhân dân tạo thành. Tuy nhiên, trong nghiên cứu, nhất là nghiên cứu ngôn
ngữ thì vấn đề thành ngữ không cho phép dừng lại ở những kiến giải mang
tính văn học, nghệ thuật mà cần có những cách thức nghiên cứu ngôn ngữ
chuyên biệt để đ-ợc công nhận và chấp nhận. Vì vậy, chúng tôi đ-a ra một
số phân biệt giữa thành ngữ với một vài đơn vị mà th-ờng xuyên gây khó hiểu
khi nhận định về chúng.
A. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ
Cuộc tranh luận giữa thành ngữ và tục ngữ đã xảy ra từ lâu và là đề tài
rất thu hút nhiều nhà nghiên cứu về chúng. Vì thực tế giữa thành ngữ và tục
ngữ có sự xâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau nên ranh giới của chúng không
phải là một vạch kẻ rõ ràng và song song nhau. Có một số thành ngữ mà gốc
lại là tục ngữ nh-: Đa ngôn đa hoá, Tam sao thất bản,...; có một số tục ngữ
trong quá trình hoạt động đã không đ-ợc ng-ời sử dụng hiểu đúng nội dung
của nó nên dẫn đến việc ngộ nhận, từ đó vô tình gán cho chúng những nội
dung, hình hảnh, hiện t-ợng mới nên chúng nghiễm nhiên chuyển thành
thành ngữ . Ngoài ra sự chuyển từ tục ngữ sang thành ngữ còn do trong quá
trình hoạt động, tính chất quy luật, tính chất chân lý của chúng không đứng
vững đ-ợc. Và ng-ời ta dùng chúng không phải để nêu những quy luật, những
chân lý mà để giới thiệu những tình trạng, những tính cách, những thái độ
nh-: Gà què ăn quẩn cối xay, Trâu trắng đi đâu mất mùa đến đó,... Bả
pện niễng (Giãy nh- con niễng), Cáy on khang (Gà khoe đuôi),...
Từ những lý lẽ trên, chúng ta có thể thấy việc so sánh để tìm ra những
điểm khác nhau giữa chúng dựa vào kết quả giữa thành ngữ và tục ngữ về nội
dung và cấu trúc.
Về nội dung: Thành ngữ giới thiệu một hình ảnh, một hiện t-ợng,
một trạng thái, một tính cách, một thái độ nh- ả pac cặm càng (há miệng
mắc quai), slip tua mạ thả ăn an (m-ời con ngựa chờ một cái yên), nhanh
nh- sóc, chó cắn áo rách,... Còn tục ngữ thì khác hẳn, nó không dừng lại ở
mức độ giới thiệu một hình ảnh, một hiện t-ợng... mà đi đến một nhận định
cụ thể, một kết luận chắc chắn, một kinh nghiệm sâu sắc, một lời khuyên răn,
một bài học về t- t-ởng, đạo đức nh-: ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; ăn
trông nồi, ngồi trông h-ớng; Nặm khẩu nặm, giầu khẩu giầu (n-ớc vào với
n-ớc, dầu vào với dầu), Nâ- hoài vài ngà (một buổi trâu, một vốc vừng),...
Về cấu trúc: Thành ngữ chỉ là một cụm từ, ch-a phải là một câu hoàn
chỉnh bởi chúng chỉ cần nêu ra một hình ảnh, một hiện t-ợng... mà thôi, cho
nên có thành ngữ chỉ có 2 âm tiết trắng bóc, trẻ măng (thành ngữ so sánh)...
Cũng chính vì thế mà thành ngữ không có khả năng đứng độc lập trong chuỗi
lời nói mà chúng th-ờng đ-ợc chêm thêm vào trong quá trình giao tiếp. Còn
tục ngữ là một câu vì khi muốn đ-a ra một kết luận chắc chắn, một kinh
nghiệm, một lời khuyên thì mỗi tục ngữ tối thiểu phải là một câu Con dại cái
mang, Học thày không tày học bạn, Na thây b-ơn lảp, khấn tháp mì tin
(Ruộng cày tháng chạp, thóc gánh không lên); Sính mồm bố sổng hâng,
giau vuồn nàn sổng ké (tính nóng không sống mãi, lo buồn khó sống lâu),...
Khi phân biệt thành ngữ và tục ngữ d-ới góc độ ngôn ngữ học thì giữa
chúng có sự khác nhau về chức năng.
Thành ngữ là những đơn vị có sẵn mang chức năng định danh, dùng để
gọi tên sự vật, tính chất, hành động. Về mặt này thì thành ngữ t-ơng đ-ơng
với từ, cho nên khi đọc thành ngữ, ta cảm thấy đây ch-a thành một câu, ch-a
thấy diễn đạt trọn vẹn một ý- ch-a phải là một thông báo nh- Ba hoa chích
chòe, Khoẻ nh- trâu lăn,... Cáy tắm nặm thuổm (gà thấp n-ớc ngập),
Bông hang chỏn, lỏn hang nu (sồm đuôi sóc, trụi đuôi chuột),...
Ngoài ra thành ngữ còn là một trong nhiều cách cấu tạo từ ngữ mới
của ngôn ngữ, chủ yếu là quy tắc cấu tạo cụm từ, dùng một số hình ảnh, hiện
t-ợng cụ thể đã có để gọi tên một sự vật mới, một tính chất mới, một hành
động mới nên với thành ngữ, ngoài nghĩa đen thì chúng luôn luôn có nghĩa
bóng. Mà bản thân ng-ời sử dụng trong giao tiếp khi đ-a ra một đơn vị thành
ngữ nào đó h-ớng tới mục đích nói năng của mình là đều hiểu theo nghĩa
bóng đó. Ví dụ: Thành ngữ Bán hùm buôn sói có nghĩa bóng là chuyên làm
những việc ác, chuyên gây ra tội lỗi, Chết đuối vũng trâu đầm có nghĩa là
thất bại hay thiệt mạng trong hoàn cảnh quá tầm th-ờng, chẳng có gì là khó
khăn nguy hiểm; hay trong thành ngữ Tày-Nùng cũng vậy: Chạng cải khỉ cải
(nghĩa đen: voi to phân cũng to) có nghĩa bóng chỉ sự phù hợp, thích hợp;
Cái đuây hẩ- nu khửn dảo (nghĩa đen: bắc thang cho chuột lên kho) có
nghĩa bóng là hành động dung túng, bày m-u kế cho kẻ khác làm việc không
hay, không có lợi đối với mình,...
Thành ngữ có chức năng định danh nên cấu tạo ngữ pháp của nó phần
lớn chỉ là các kết cấu một trung tâm. Ví dụ: Mắt cú vọ, Ngựa tái ông,.. Nả
lình căng (mặt đ-ời -ơi)... Kết cấu một trung tâm này thiên về định danh hơn
thông báo. Còn lại một bộ phận nhỏ của thành ngữ lại có cấu tạo ngữ pháp
là kết cấu hai trung tâm dùng để gọi tên hành động, tính chất nh-: Hàng thịt
nguýt hàng cá, ăn chung máng ở chung chuồng,... Khầu têm cài cai vài
têm lảng (thóc đầy hiên trâu đầy chuồng),...
Tài liệu tham khảo
1. Triều Ân - Hoàng Quyết, Từ điển thành ngữ - tục ngữ dân tộc
Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996.
2. Diệp Quang Ban, Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, Nxb Giáo dục, 1992.
3. L-ơng Bèn, Góp ý kiến về việc cải tiến chữ Tày-Nùng, t/c Ngôn
ngữ, s.2/1971.
4. Nguyễn Tài Cẩn, Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 1999.
5. Đỗ Hữu Châu, Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, 1999.
6. Đỗ Hữu Châu, Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục,
1999.
7. Mai Ngọc Chừ - Vũ Đức Nghiệu - Hoàng Trọng Phiến, Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, 2001.
8. Nguyễn Đức Dân, Ngữ nghĩa thành ngữ và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l2_01370_2231_2008023.pdf