MỤC LỤC
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1 - BỐI CẢNH LỊCH SỬ. 7
1.1. Chiến tranh thế giới thứ hai và tình hình Việt Nam dưới ách cai trị
của Nhật- Pháp . 7
1.2. Khái lược về cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam từ
1919- 1945.
1.3. Khái quát tình hình văn đàn công khai tiếng Việt và chính sách
cấm đoán của Nhật- Pháp .
Chương 2 : QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI CỦA
TẦNG LỚP TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ 1939- 1945 .
2.1. Đôi nét về tầng lớp trí thức Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám1945 .
2.2. Sự biến đổi tư tưởng chính trị- xã hội của tầng lớp trí thức từ
tháng 9- 1939 đến trước ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945).
2.2.1. Nhóm trí thức xã hội với hoạt động của Hội truyền bá chữ quốc
ngữ của Nguyễn Văn Tố .
2.2.2. Nhóm cựu học khai thác vốn cổ và cổ vũ cho dân chủ một cách rụt
rè (Tri Tân, Tiếng Dân).
2.2.3. Sự biến đổi tư tưởng của các văn nghệ sĩ thể hiện trong văn học.
2.2.4. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm Thanh Nghị
2.2.5. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm Tự lực văn đoàn 4
2.2.6. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm sinh viên Học xáĐông Dương.
2.3. Sự biến đổi tư tưởng chính trị- xã hội của tầng lớp trí thức Việt
Nam từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp(9-3-1945)
2.3.1. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm Thanh Nghị
2.3.2. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm Thanh niên tiền phong.
Chương 3: MỘT VÀI NHẬN XÉT .
3.1. Những đặc điểm của quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị- xã
hội của tầng lớp trí thức Việt Nam.
3.2. Ý nghĩa lịch sử .
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 13
PHỤ LỤC.
18 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 637 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tóm tắt Luận văn Sự biến đổi tư tưởng chính trị- xã hội của tầng lớp trí thức Việt Nam trên văn đàn công khai tiếng Việt trong thời kì 1939- 1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoa học: PGS.TS Phạm Hồng Tung
Hà Nội – 2009
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 - BỐI CẢNH LỊCH SỬ ................................................................. 7
1.1. Chiến tranh thế giới thứ hai và tình hình Việt Nam dưới ách cai trị
của Nhật- Pháp ............................................................................................ 7
1.2. Khái lược về cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam từ
1919- 1945................................................... Error! Bookmark not defined.
1.3. Khái quát tình hình văn đàn công khai tiếng Việt và chính sách
cấm đoán của Nhật- Pháp ........................ Error! Bookmark not defined.
Chương 2 : QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ- XÃ HỘI CỦA
TẦNG LỚP TRÍ THỨC VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ 1939- 1945 ..... Error!
Bookmark not defined.
2.1. Đôi nét về tầng lớp trí thức Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám
1945 ............................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2. Sự biến đổi tư tưởng chính trị- xã hội của tầng lớp trí thức từ
tháng 9- 1939 đến trước ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) .... Error!
Bookmark not defined.
2.2.1. Nhóm trí thức xã hội với hoạt động của Hội truyền bá chữ quốc
ngữ của Nguyễn Văn Tố ......................... Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Nhóm cựu học khai thác vốn cổ và cổ vũ cho dân chủ một cách rụt
rè (Tri Tân, Tiếng Dân) ........................... Error! Bookmark not defined.
2.2.3. Sự biến đổi tư tưởng của các văn nghệ sĩ thể hiện trong văn học
................................................................. Error! Bookmark not defined.
2.2.4. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm Thanh Nghị Error!
Bookmark not defined.
2.2.5. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm Tự lực văn đoànError!
Bookmark not defined.
4
2.2.6. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm sinh viên Học xá
Đông Dương ............................................ Error! Bookmark not defined.
2.3. Sự biến đổi tư tưởng chính trị- xã hội của tầng lớp trí thức Việt
Nam từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp(9-3-1945) Error! Bookmark not
defined.
2.3.1. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm Thanh Nghị Error!
Bookmark not defined.
2.3.2. Hoạt động tư tưởng chính trị- xã hội của nhóm Thanh niên tiền phong
................................................................. Error! Bookmark not defined.
Chương 3: MỘT VÀI NHẬN XÉT ............ Error! Bookmark not defined.
3.1. Những đặc điểm của quá trình chuyển biến tư tưởng chính trị- xã
hội của tầng lớp trí thức Việt Nam .......... Error! Bookmark not defined.
3.2. Ý nghĩa lịch sử .................................... Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 13
PHỤ LỤC ....................................................... Error! Bookmark not defined.
5
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giai đoạn 1939- 1945 là một giai đoạn đầy biến động trong lịch sử Việt
Nam, với cuộc đấu tranh hết sức gay gắt nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách
thống trị của ngoại bang, từ đó dẫn đến những cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư
tưởng và ý thức hệ, những sự tác động qua lại hết sức phức tạp của các
khuynh hướng tư tưởng khác nhau. Vì vậy, cục diện chính trị, văn hoá của
giai đoạn này càng thêm phức tạp. Đặc biệt từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai
bùng nổ, cũng là thời điểm tư tưởng chính trị- xã hội của các tầng lớp nhân
dân, đặc biệt là tầng lớp trí thức có sự biến đổi sâu sắc, thể hiện trước hết trên
báo chí, văn học. Vậy sự biến đổi tư tưởng chính trị- xã hội của tầng lớp trí
thức trong thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra như thế nào? Đây là một
câu hỏi không dễ trả lời. Luận văn này mong muốn tìm ra câu trả lời cho vấn
đề này, hy vọng sẽ góp một ý kiến vào việc nghiên cứu sự biến đổi tư tưởng
trong lịch sử Việt Nam thời k ì 1939- 1945.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự biến đổi tư tưởng trong lịch sử Việt Nam là một đối tượng được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Viết về tư tưởng Việt Nam thời kì cận và
hiện đại, đáng chú ý nhất là bộ “Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế
kỉ XIX đến Cách mạng tháng Tám” của GS. NGND Trần Văn Giàu. Qua đó
6
người đọc đã có một cái nhìn rõ ràng hơn về sự chuyển biến của ba hệ ý thức
nối tiếp nhau, xen kẽ nhau, đấu tranh với nhau: hệ ý thức phong kiến và sự
thất bại của nó; hệ tư tưởng tư sản và sự bất lực của nó; hệ ý thức vô sản và sự
thành công của nó trong sự nghiệp cứu nước. Ngoài ra cũng có thể kể đến
công trình “Millenarianism and Peasant Politics in Viêt Nam” của Hồ Tài
Huệ Tâm viết về đời sống tinh thần của người dân Nam Bộ từ giữa thế kỉ XIX
đến giữa thế kỉ XX...
Nghiên cứu về tầng lớp trí thức thời kì cận hiện đại phải kể đến: “Một
số vấn đề về trí thức Việt Nam” và “Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức
trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước” của TS Nguyễn Văn
Khánh... Tại các hội nghị quốc tế về Việt Nam học, vấn đề tiểu tư sản trí thức
cũng được đề cập nhiều, tiêu biểu là “Một nhóm trí thức Việt Nam và những
vấn đề của đất nước họ: Tạp chí Thanh Nghị (1941-1945)” của P.Brocheux...
Nghiên cứu về văn học và lịch sử phát triển của văn học, báo chí thời kì
này có các công trình như: “Văn học Việt Nam thế kỉ XX- Những vấn đề lịch
sử và lý luận” do Phan Cự Đệ chủ biên; “Văn học Việt Nam 1930- 1945”;
“Lịch sử báo chí Việt Nam 1865- 1945” của GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Trận
tuyến công khai giữa Sài Gòn: Ký sự về báo chí cách mạng công khai và
phong trào đấu tranh của báo giới Sài Gòn” của PGS. TS Phạm Xanh...
Tuy nhiên hầu như chưa có một công trình nghiên cứu nào tập trung đi
sâu vào sự biến đổi tư tưởng chính trị- xã hội của tầng lớp trí thức Việt Nam
trong thời kì 1939- 1945 thông qua các tác phẩm của họ trên văn đàn công
khai tiếng Việt thời kì này. Luận văn này hy vọng góp phần khiêm tốn nhằm
đáp ứng được đòi hỏi đó.
3. Phạm vi, đối tượng, phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về sự biến đổi tư tưởng chính trị- xã hội của tầng
lớp trí thức Việt Nam trong thời kì diễn ra Chiến tranh thế giới thứ II thông
qua các bài viết trên diễn đàn văn học, báo chí công khai tiếng Việt xuất bản
7
trong thời gian từ năm 1939 đến năm 1945.
4. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Bối cảnh lịch sử
Chương 2: Quá trình biến đổi tư tưởng chính trị- xã hội của tầng lớp trí
thức Việt Nam trên văn đàn công khai tiếng Việt trong thời kì 1939- 1945
Chương 3: Một vài nhận xét
Chương 1 - BỐI CẢNH LỊCH SỬ
1.1. Chiến tranh thế giới thứ hai và tình hình Việt Nam dưới ách
cai trị của Nhật- Pháp
Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan, chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ. Ngày 3-9-1939 Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh nhanh
chóng lan ra toàn Châu Âu và sau đó là cả thế giới. Chiến tranh đã tác động
đến tình hình nước Pháp, chính phủ Daladier mạnh tay thi hành các biện pháp
đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở các nước
thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Tháng 7-1939 Catroux được cử làm Toàn
quyền Đông Dương, triệt để thi hành các chính sách vơ vét, bóc lột Đông
Dương để phục vụ cho cuộc chiến tranh của nước Pháp đồng thời thi hành
chính sách khủng bố, bóp nghẹt mọi quyền tự do dân chủ mà nhân dân mới
giành được trong thời kì 1936-1939. Nhưng chỉ trong khoảng một năm rưỡi,
phát xít Đức đã thôn tính và đặt ách thống trị của nó lên hầu hết các nước
châu Âu tư bản chủ nghĩa. Phát xít Đức đánh vào nước Pháp, chính phủ tư sản
Pháp nhanh chóng đầu hàng và bán đứng nước Pháp cho Đức tháng 6- 1940.
Việc chuyển từ điều kiện hoà bình sang điều kiện chiến tranh đã có sự
tác động rất lớn đến tư tưởng, hành động của tất cả các tầng lớp nhân dân nói
chung và tầng lớp trí thức nói riêng. Là những người có hiểu biết, nhạy cảm
với thời cuộc, tầng lớp trí thức đã có sự nhận định, suy đoán về sự thay đổi
8
tình hình thế giới cũng như trong nước. Chiến tranh thế giới chia làm hai phe,
và sự lựa chọn đi theo phe nào, con đường nào sẽ có tác động quyết định đến
lịch sử của mỗi dân tộc. Lựa chọn đi theo phe Trục chống phe Đồng Minh hay
đi theo phe Đồng Minh chống phát xít ? Đó thực sự là một câu hỏi lớn đòi hỏi
tầng lớp trí thức- tầng lớp ưu tú nhất của dân tộc phải có câu trả lời đúng đắn.
Tháng 6-1940, quân đội Pháp đầu hàng, chính phủ Pêtanh bỏ chạy về
Visy- miền Nam nước Pháp, và trên thực tế trở thành chính phủ bù nhìn thân
phát xít. Sự kiện xảy ra ở chiến trường Châu Âu này đã có tác động không
nhỏ đến tình hình chính trị Việt Nam. Là thuộc địa của Pháp, nên khi Pháp
gặp nạn, đây thực sự là một cơ hội lớn cho nhân dân Việt Nam vùng lên đấu
tranh giải phóng dân tộc. Đây cũng chính là lần duy nhất kể từ năm 1884 đến
lúc đó Pháp bị thất bại tại ngay chính quốc.
Nhưng việc Pháp đầu hàng phát xít Đức lại là dịp thuận lợi cho phát xít
Nhật nhảy vào Đông Dương. Ngày 14-6-1940, thủ đô Paris của Pháp lọt vào
tay Đức thì ngày 18-6-1940, Nhật gửi tối hậu thư cho toàn quyền Catroux đòi
Pháp phải đóng cửa biên giới Việt- Trung, rồi đến 2-8-1940 đòi Pháp phải cho
quân đội Nhật vào Đông Dương. Pháp buộc phải nhượng bộ với hiệp định
ngày 22-9-1940, nhưng để thị uy, Nhật vẫn cho quân vượt biên giới phía Bắc,
đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ vào Đồ Sơn.
Sự thất bại của thực dân Pháp trước quân đội Nhật là sự thất bại của
người da trắng trước người da vàng. Nó khiến cho nhân dân Việt Nam tin
tưởng hơn vào thắng lợi của cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp. Vì vậy,
ngay trong tháng 9-1940, những cuộc đấu tranh vũ trang đầu tiên đã nổ ra, đó
là khởi nghĩa Bắc Sơn (27-9-1940), nhằm chặn đánh quân Pháp trên đường
rút chạy từ Lạng Sơn về Thái Nguyên. Cuộc khởi nghĩa tuy chỉ tồn tại trong
vòng một tháng, chỉ diễn ra trên phạm vi một huyện nhưng đã mở đầu phong
trào giải phóng của các dân tộc Đông Dương nói chung và dân tộc Việt Nam
9
nói riêng trong thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai. Cùng thời gian này, Việt
Nam phục quốc đồng minh hội cũng tổ chức một cuộc nổi dậy ở Đồng Đăng
(Lạng Sơn). Ngay sau đó, khởi nghĩa vũ trang cũng nổ ra ở Nam Kì (23-11-
1940) và đến tháng 1-1941 cuộc binh biến của những binh lính người Việt
trong quân đội Pháp diễn ra ở Trung Kì.
Như vậy là chỉ trong hơn ba tháng, đã có ba cuộc nổi dậy diễn ra ở ba
miền Bắc, Trung, Nam. Tuy bị thất bại nhưng “đó là những tiếng súng báo
hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của
các dân tộc Đông Dương” [14, tr. 191].
Ở Việt Nam, dưới tác động của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và đặc
biệt là từ những chính sách cai trị của Pháp đã khiến xã hội Việt Nam biến đổi
về mọi mặt.
Về kinh tế, để phục vụ cho cuộc chiến tranh lâu dài, đế quốc Pháp đã
tăng cường động viên kinh tế trong nước cũng như thuộc địa. Ngay sau khi
Chiến tranh thế giới vừa bùng nổ, tháng 9-1939, Catroux đã ra lệnh tổng động
viên nhằm “cung cấp cho mẫu quốc tiềm lực tối đa của Đông Dương về quân
đội, nhân lực, các sản phẩm và nhiên liệu” [57, tr. 304]. Pháp đã thi hành
chính sách “kinh tế chỉ huy”, thành lập “Đại hội đồng kinh tế tối cao Đông
Dương”, “Bộ tham mưu kinh tế Việt Nam”, tăng cường vơ vét vàng bạc, tăng
thuế cũ, đặt thêm thuế mới, phát hành bạc giấy, tổ chức quốc trái lạc quyên,
sa thải bớt công chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm... Từ khi vào Việt Nam,
để đảm bảo cho nền công nghiệp ở chính quốc, thực dân Pháp chủ trương không
lập các cơ sở công nghiệp nặng ở thuộc địa. Nhưng khi chiến tranh thế giới vừa
bùng nổ, thực dân Pháp đã cho mở những nhà máy lắp súng, chế thuốc súng, làm
bon đạn để phục vụ cho chiến tranh. “Toàn quyền Catroux bắt buộc các nhà
nông trồng những cây kỹ nghệ để phục vụ cho chiến tranh” [40, tr. 539]. Vì vậy,
“tám tháng đầu chiến tranh, trong khi những tài liệu dùng cho kỹ nghệ chiến
10
tranh xuất cảng sang Pháp tăng gấp quá bội, thì hai thứ nông sản phổ biến nhất là
gạo và ngô xuất cảng bị sụt hẳn đi” [40, tr. 540].
Sau khi quân Pháp đầu hàng phát xít Đức, thực dân Pháp ở Việt Nam
hoang mang, lo lắng cực độ. Tháng 7-1940, Decoux được cử làm Toàn quyền
Đông Dương thay thế Catroux. Thời kì đầu, Decoux vẫn duy trì chính sách
đàn áp, cướp bóc trắng trợn như thời kì Catroux để tập trung đối phó với quân
Nhật. Nhưng khi quân Nhật vào chiếm đóng Đông Dương, chính sách và
phương thức thống trị của tập đoàn này có sự thay đổi về căn bản. Do phải
duy trì mối quan hệ cộng tác- cộng trị, tập đoàn Decoux phải nhượng bộ về
nhiều mặt, trong đó phải thoả mãn những đòi hỏi ngày càng tăng của quân
Nhật về tài chính, lương thực và các vật dụng quân sự khác. Vì vậy, chính
quyền thực dân Pháp ngày càng tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân bản xứ
để cung cấp cho Nhật.
Một trong những biện pháp điển hình được chính quyền thực dân Pháp
thực hiện trong thời kì này, đó là việc tăng thuế và các món quyên góp. “Tổng
số thu hoạch của ngân sách Đông Dương và các ngân sách Bắc, Trung, Nam
Kỳ 1939-1945 đã chỉ rõ trong 6 năm, số thu của các ngân sách đều tăng gấp
hơn hai lần. Ngân sách Đông Dương năm 1939 là 115.255.000$, năm 1945
lên tới 299.702.000$” [40, tr. 545-546]. Nhiều loại thuế mới được đặt ra, bên
cạnh thuế quốc phòng còn có thuế cư trú, thuế 6 phần trăm theo lợi tức, thuế
phụ thuộc tăng từ 15 đến 25 phần trăm Rồi thuế chợ, thuế quảng cáo, thuế
đổ rác, thuế chó v.v Có thể nói, thực dân Pháp đã không từ một thủ đoạn
nào để tăng cường bóc lột nhân dân Việt Nam. Thuế cưỡng bức đánh bạc là
xổ số Đông Dương, năm 1939 thực dân Pháp thu được 913.367$ thì đến năm
1944, đã lên tới 2.828.435$ [40,tr. 547], tức là gấp hơn 3 lần. Khi chiến tranh
vừa bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp đã tổ chức hội “Pháp Việt bác ái”,
dùng danh nghĩa hội này để tổ chức những cuộc lạc quyên lấy tiền gửi sang
11
Pháp. Từ tháng 9- 1939 đến tháng 4-1940, chính quyền thực dân còn bắt buộc
các công chức phải trích một phần lương góp vào quỹ này. Số tiền nộp về quỹ
của nước Pháp ngày càng tăng lên. “Nguyên một năm 1939 đã phải nộp gần 5
triệu, năm 1942 gần 7 triệu, phần lớn chi tiêu về chiến tranh hay sắm vật liệu
cho công sở. Ngoài tiền nộp chính thức, nhân dân ta còn phải quyên tiền gửi
sang Pháp. “Tính đến tháng 3-1943, tổng số tiền quyên đã tới 73.000.000
phờrăng” [40, tr. 550].
Số tiền Pháp phải nộp cho Nhật hàng năm cũng tăng lên không ngừng.
“Năm 1940 nộp 6 triệu đồng, năm 1941- 58 triệu đồng, năm 1942- 86 triệu
đồng, năm 1943- 117 triệu đồng; năm 1944- 363 triệu, 1945- 90 triệu” [34, tr.
349]. Số tiền đó thực dân Pháp lấy ở đâu ra? Chính là từ xương máu của nhân
dân Việt Nam nói riêng và nhân dân Đông Dương nói chung.
Hậu quả tất yếu mà nhân dân Việt Nam phải gánh chịu là một nền kinh
tế vốn đã lạc hậu, què quặt nay càng suy sụp, đổ nát, giá cả sinh hoạt đắt đỏ,
đời sống nhân dân ngày càng khó khăn nguy ngập. Nhưng với thực dân Pháp
thì: “Thất nghiệp, thất học, đói rét, yếu đau, chết chóc mặc kệ, miễn sao đục
khoét được nhiều tiền để kéo dài đế quốc chiến tranh” [14, tr. 37].
Về chính trị, “Đế quốc Pháp nhân dịp chiến tranh ra lệnh giải tán Đảng
cộng sản, khủng bố thẳng tay, xét nhà, bắt người, giam cầm các chiến sĩ cộng
sản cùng các phần tử cấp tiến trong dân chúng, khoá miệng và điều khiển tất
cả các cơ quan thông tin, giải tán những hội ái hữu tương tế, lập thêm những
sở mật thám chính trị” [14, tr. 35]. Ngày 4- 1-1940, Toàn quyền Đông Dương
Catroux tuyên bố tại Hội đồng chính phủ Đông Dương: “Chúng ta đánh toàn
diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải
tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với nước
Pháp. Chúng ta không có quyền không thắng. Tình thế chiến tranh bắt buộc
chúng ta hành động không chút thương tiếc” [57, tr. 304].
12
Chính vì những hành động “không chút thương tiếc” này đã tạo ra một
bầu không khí chính trị u ám ở Việt Nam. Đến khi Catroux bị thay thế bởi
một Toàn quyền Đông Dương, Phó Đô đốc Jean Decoux (7-1940) thì Việt
Nam đã thực sự phải chịu ách thống trị của một tập đoàn phát xít. “Tính chất
phát xít của tập đoàn này, một mặt, là sự kế thừa những đặc điểm vị chủng,
tàn bạo và phản dân chủ trong chính sách cai trị, áp bức của thực dân Pháp ở
Đông Dương trước Chiến tranh Thế giới II. Mặt khác, đó là kết quả của quá
trình tự nguyện phát xít hoá, liên minh với phe Trục của tập đoàn Decoux”
[59, tr. 84]. Tập đoàn phát xít này đã tiến hành cải cách bộ máy cai trị, tăng
cường lực lượng cảnh sát, mật thám... để đàn áp phong trào cách mạng Đông
Dương. Decoux thành lập “Liên bang Đông Dương” nhằm lừa bịp dư luận
nhưng cũng chính Decoux đã nói rõ thực chất của Liên bang này là “Trong
lòng của liên bang, mỗi nước có quyền có một chủ nghĩa yêu nước địa
phương, nhưng với điều kiện là không bao giờ được quên rằng ở bên cạnh và
ngay cả ở bên trên tổ quốc nhỏ, là tư tưởng của mọi người phải luôn luôn
hướng về tổ quốc lớn là nước Pháp, người bảo vệ và đỡ đầu của Liên bang,
người Đông Dương còn phải có trách nhiệm hơn trung thành với nước Pháp”
[57, tr. 306].
Theo tổng kết của Đảng Cộng sản Đông Dương thì: “Từ khi xảy ra
cuộc đại chiến Âu châu đến khi Pháp bại trận, chính sách của đế quốc Pháp ở
Đông Dương rõ ràng có ba đặc điểm: một là phát xít hoá bộ máy thống trị,
thẳng tay đàn áp dân chúng; hai là giả nhân giả nghĩa phỉnh dân; ba là vơ vét
sưu thuế, tăng gia sức bóc lột” [14, tr. 121].
Về văn hoá giáo dục, ngay khi vào Việt Nam thực dân Pháp đã xây
dựng một hệ thống giáo dục theo kiểu phương Tây nhằm loại bỏ ảnh hưởng
của Hán học, “khai hoá văn minh” và đào tạo ra một đội ngũ công chức phục
vụ cho bộ máy thống trị của chúng. Ở Việt Nam hệ thống giáo dục được thực
13
dân Pháp chia làm ba cấp: tiểu học, trung học, cao đẳng và đại học. Trong đó,
Pháp đã thành lập một số trường cao đẳng, dạy nghề như trường Pháp- Chính,
trường Cao đẳng Nông nghiệp, trường Y học Đông Dương
Vào những năm 1940, để tranh thủ tầng lớp trí thức, lôi kéo tầng lớp
này khỏi ảnh hưởng của phát xít Nhật, thực dân Pháp đã cho mở thêm một số
trường cao đẳng như Cao đẳng Khoa học, Thể dục, trường Sĩ quan, trường
Cao đẳng kiến trúc đồng thời lập Đông Dương học xá cho sinh viên các
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Anh (1944), Dị kiến đồng tâm, báo Thanh Nghị, số 59, tr. 3- 4
2. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương (1977), Các tổ chức tiền
thân của Đảng, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội
3. Báo Tiên Phong (1943), Nhiệm vụ chống phát xít của nhà văn lúc
này, báo Tiên phong số 1
4. Báo Thanh Nghị, số 1- tháng 5- 1941, tr. 1
5. Phạm Ngọc Bích (CB, 2008), Cách mạng tháng Tám 1945 ở Sài
Gòn- Chợ Lớn và Gia Định, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
6. Đặng Thị Vân Chi (2008), Vấn đề phụ nữ trên báo chí tiếng Việt
trước năm 1945, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
7. Trường Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam, NXB
Sự thật, Hà Nội
8. Đỗ Đức Dục (1943), Chia rẽ, báo Thanh Nghị, số 50, tr. 2- 3
9. Đỗ Đức Dục (1944), Trước thời cục, báo Thanh Nghị, số 56, tr. 3
10. Đỗ Đức Dục (1944), Tin tưởng, báo Thanh Nghị, số 74, tr. 3- 4
11. Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Một thế kỷ phát triển và trưởng
thành, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đảng 1930- 1945, tập I,
14
Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đảng 1930- 1945, tập
II, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1977), Văn kiện Đảng, tập III, Ban
Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1981), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
(Sơ thảo) 1920- 1954, NXB Sự thật, tập 1, Hà Nội
16. Phan Cự Đệ (CB, 2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX- Những vấn
đề lịch sử và lý luận, NXB Giáo dục, HN- 2004
17. Hà Minh Đức (2007), Tự lực văn đoàn- Trào lưu- Tác giả; NXB
Giáo dục, Hà Nội
18. Trần Văn Giàu (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh: Sự phát triển của tư tưởng ở VN từ thế kỉ XIX đến Cách mạng tháng
Tám, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
19. Hoàng Xuân Hãn (2004), Tưởng nhớ Phan Anh, in trong Hồi kí Vũ
Đình Hoè, NXB Văn học, Hà Nội
20. Vũ Văn Hiền (1944), Việc phải làm, báo Thanh Nghị, số 58, tr. 3- 4
21. Vũ Đình Hoè (1944), Những nghề tự do, báo Thanh Nghị, số 91, tr. 1- 2
22. Vũ Đình Hoè (1942), Tết Nhâm Ngọ với thanh niên, báo Thanh
Nghị, số 9, tr. 2- 3
23. Vũ Đình Hoè (1944), Những hoạt động xã hội của sinh viên, báo
Thanh Nghị, số 58, tr. 25- 27
24. Vũ Đình Hoè (1944), Chí, gan và thời cơ, báo Thanh Nghị, số 70, tr. 3
25. Vũ Đình Hoè (1945), Nội các đầu tiên của nước Việt Nam độc lập,
báo Thanh Nghị, số 107, tr. 28- 30
26. Vũ Đình Hoè (2004), Hồi kí Vũ Đình Hoè, NXB Hội nhà văn, Hà Nội
27. Nguyên Hồng (2008), Toàn tập, tập II, NXB Văn học, Hà Nội
15
28. Sóng Hồng (1983), Thơ, NXB Văn học, Hà Nội
29. Đỗ Quang Hưng (2001), Lịch sử báo chí Việt Nam 1865- 1945,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
30. Nguyễn Văn Khánh (CB, 2004), Trí thức với Đảng, Đảng với trí thức
trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước, NXB Thông Tấn, Hà Nội
31. Vũ Khiêu (CB, 2002), Phạm Tuấn Tài: Cuộc đời và tác phẩm,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
32. Vũ Khiêu (2006), Trí thức Việt Nam thời xưa, NXB Thuận Hóa
33. Nguyễn Hoành Khung (CB, 2008), Truyện ngắn Việt Nam 1930-
1945, NXB Giáo dục, Hà Nội
34. Đinh Xuân Lâm (CB, 2003), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II,
NXB Giáo dục, Hà Nội
35. Phạm Lợi (1945), Thanh niên thôn quê muốn gì (Vài nhận xét về
thanh niên qua các làng), báo Thanh Nghị, số 118, tr. 3- 6
36. Trần Huy Liệu (1957), Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận
đại Việt Nam, tập IX, NXB Văn sử địa, Hà Nội
37. Trần Huy Liệu (1957), Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận
đại Việt Nam, tập VIII, Hà Nội
38. Trần Huy Liệu, Nguyễn Khắc Đạm (1957), Tài liệu tham khảo Lịch
sử cận đại Việt Nam, tập IX: Xã hội Việt Nam trong thời kì Pháp- Nhật (1939-
1945), NXB Văn Sử Địa, Hà Nội
39. Trần Huy Liệu, Văn Tạo (1958), Tài liệu tham khảo cách mạng cận
đại Việt Nam, tập V, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội
40. Trần Huy Liệu (2003), Tác phẩm được tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
41. Nhất Linh (1999), Đoạn tuyệt, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
42. Nguyễn Phúc Lộc (1945), báo Trung Bắc chủ nhật, số 251
(1/7/1945)
16
43. Nguyễn Đăng Mạnh (CB, 1994), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập
V- quyển 2: Thơ Việt Nam 1930- 1945, NXB Văn Học, Hà Nội
44. Thanh Nghị (1945), Những điều kiện để xây dựng nền độc lập, báo
Thanh Nghị, số 107, tr. 3- 6
45. Hoàng Nguyên (1995), Vài nét về phong trào sinh viên trước và
ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám, in trong Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam: 19-8. Cách mạng là sáng tạo, Hà Nội
46. P.Brocheux (2004), Một nhóm trí thức Việt Nam và những vấn đề
của đất nước họ: Tạp chí Thanh Nghị, in trong Hồi kí Vũ Đình Hoè, NXB Hội
Nhà Văn, Hà Nội
47. Như Phong (1994), Tuyển tập Như Phong, tập I, NXB Văn học, Hà Nội
48. Vũ Đức Phúc (1971), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch
sử văn học Việt Nam hiện đại (1930- 1945), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
49. Tô Huy Rứa (CB, 1998), Thư tịch báo chí Việt Nam, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội
50. Nguyễn Thành (1984), Báo chí cách mạng Việt Nam 1925- 1945,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
51. Nguyễn Thành (CB, 1985), Việt Nam thanh niên cách mạng đồng
chí hội, NXB Thông tin lý luận, Hà Nội
52. Cao Huy Thuần- Nguyễn Tùng- Vĩnh Sính (CB, 2005), Từ Đông
sang Tây, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng
53. Cao Huy Thuần (2006), Thế giới quanh ta, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng
54. Trần Dân Tiên (1956), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ
Chủ Tịch, NXB Văn nghệ, Hà Nội
55. Huỳnh Văn Tiểng- Bùi Đức Tịnh (1995), Thanh niên tiền phong và
các phong trào học sinh, sinh viên, trí thức Sài Gòn 1939- 1945, NXB Trẻ,
17
Thành phố Hồ Chí Minh
56. Huỳnh Văn Tiểng (2001), Xếp bút nghiên lên đàng, NXB Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh
57. Nguyễn Khánh Toàn (CB, 1985), Lịch sử Việt Nam, tập II, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội
58. Nguỵ Như Kon Tum (1941), Thanh niên ta nên có một nền thể thao
tập quần”, báo Thanh Nghị, số 4, tr. 11- 12
59. Phạm Hồng Tung (2001), Về bản chất phát xít của tập đoàn thống
trị Decoux ở Đông Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ II, Tạp chí Nghiên
cứu lịch sử, số 1- 2001, tr. 77- 85
60. Phạm Hồng Tung (2004), Về mối quan hệ cộng tác- cộng trị Nhật-
Pháp ở Việt Nam trong thế chiến II và nguyên nhân của cuộc đảo chính ngày
9- 3- 1945, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2- 2004, tr. 8- 16
61. Phạm Hồng Tung (CB, 2005), Lược khảo về kinh nghiệm phát hiện,
đào tạo và sử dụng nhân tài trong lịch sử Việt Nam, NXB Đại học Quốc gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l2_01738_0904_2008137.pdf