Tuân Tử lại cho rằng , trị nước phải cần đến Lễ . Công dụng của Lễ là
điều hòa các mối quan hệ xã hôị , nó làm cho con người chấp nhận sự tồn tại
đẳng cấp trong xã hôị , kéo theo đó là chấp nhận sự bất bình đẳng trong phân
công lao động xã hôị và phân phối sản phẩm lao động . Mặt khác, Tuân Tử
còn cho rằng, Lễ cần phải được kết hợp với pháp luật để duy trì trật tự xã hôị
(lễ pháp kiêm trị), song hình phạt phải mang tính giáo dục, nhà cầm quyền
không được lạm dụng hình pháp để phạt nặng.
Đổng Trọng Thư đề cao vai trò của thiên tử trong việc trị nước (thừa
hành mệnh trời dưỡng dục và giáo hoá dân). Mọi hành vi của thiên tử đều
được trời giám sát và thực hiện sự thưởng phạt tùy theo mức độ trị loạn trong
thiên hạ. Do đó , con người phải biết kính trời , sợ trời mà chấp hành mệnh
lệnh của thiên tử một cách vô điều kiện . Tư tưở ng đức pháp kiêm trị đó rõ
ràng là mang tính thần quyền.
29 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 833 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Sự độc tôn nho giáo dưới triều Nguyễn: nguyên nhân và ảnh hưởng đương thời của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế độ phong kiến, song
vai trò hàng đầu của Nho giáo trong hệ tư tưởng của nhà nước Lê Trung hưng
vẫn được tiếp tục duy trì. Các thế lực phong kiến dù tranh giành nhau về
quyền lực, song vẫn dựa vào Nho giáo để khẳng định tính chính nghĩa của
mình.
9
Cuốn Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội, 1997, do PGS. Lê Sỹ Thắng chủ biên. Nội dung cơ bản là nghiên cứu
tiến trình tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX. Tác giả đã chỉ ra được sự cố gắng
xây dựng hệ tư tưởng riêng mà nòng cốt là Nho giáo, những thành tựu và hạn
chế của nó, song vẫn chưa đi sâu tìm hiểu những ảnh hưởng của Nho giáo đến
xã hội Việt Nam thế kỷ XIX.
Ngoài ra còn có các tác tác phẩm chuyên tập trung nghiên cứu về Nho
giáo và Nho giáo ở Viêṭ Nam thời Nguyễn . Chẳng hạn Nho giáo xưa và nay
của GS. Quang Đạm; Nho giáo tại Việt Nam do PGS. Lê Sỹ Thắng chủ biên
đã bàn đến những yêu cầu đạo đức của Nho giáo đối với các vấn đề cơ bản
của đời sống xã hội, đó là: Ngũ luân, Tam cương, Ngũ thường, vai trò của
Nho giáo trong việc quản lý xã hội, quản lý con người. Quan điểm của các tác
giả tuy có khác nhau, nhưng điểm chung là nhìn nhận, đánh giá những yếu tố
tiêu cực của Nho giáo. Đó là sự tàn nhẫn, khắc nghiệt, nó trói buộc con người
trong vòng trật tự của xã hội cũ. Những yếu tố đó đã tác động, ảnh hưởng
không nhỏ tới đời sống xã hội đương thời, cũng như tác động xấu đến xã hội
ngày nay.
Có những ý kiến trong các ấn phẩm, tạp chí chuyên ngành, đã đánh
giá Nho giáo một cách gay gắt, đặc biệt là Nho giáo triều Nguyễn thế kỷ XIX,
có khi phủ định sạch trơn những đóng góp của nó đối với xã hội đương thời
như nhận định của GS. Nguyễn Tài Thư trong Nho học và Nho học ở Việt
Nam như sau: “Nho giáo triều Nguyễn là một tập đại thành những tư tưởng
duy tâm phản động trong lịch sử của Nho giáo”[71; tr.515].
Tuy nhiên, gần đây các nhà nghiên cứu về Nho giáo nói chung và
Nho giáo triều Nguyễn nói riêng, đã có sự nhìn nhận khách quan, công tâm,
khoa học hơn, vì vậy họ đã đưa ra những nhận định khá xác đáng về Nho giáo
theo các khía cạnh, mức độ ảnh hưởng khác nhau, từ kinh tế, chính trị, đạo
đức cho đến giáo dục, và các giá trị truyền thống của dân tộc như: Nguyễn
Đăng Duy: Nho giáo với văn hoá Việt Nam; Phan Đại Doãn: Một số vấn đề về
10
Nho giáo tại Việt Nam; Vũ Khiêu: Bàn về văn hiến Việt Nam, Nho giáo xưa
và nay. Những nhận định đó đã góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn
hoá Việt Nam với tinh thần tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực của
Nho giáo.
Một số luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ Triết học đã bảo vệ thành
công tại Việt Triết học. Trần Thị Hồng Thuý: Ảnh hưởng của Nho giáo đối
với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống; Lê thị Lan: Tìm hiểu các tư
tưởng cải cách ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX; Nguyễn Nam Thắng: Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX, v.vđều đề cập đến nội dung ở mức
độ khác nhau về vị trí, vai trò ảnh hưởng của Nho giáo, sự chi phối của nó tới
toàn bộ đời sống xã hội Việt Nam thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, việc trình
bày phương diện độc tôn Nho giáo thời kỳ này vẫn chỉ mới được đề cập một
cách sơ bộ, thiếu hệ thống và chưa được phân tích một cách thấu đáo về
những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự độc tôn và hệ quả của nó trên những
lĩnh vực nào của đời sống xã hội.
Sau đổi mới, nhận thức được sự thiếu hụt, phiến diện và sai lệch trong
đánh giá về giai đoạn lịch sử của một vương triều gần nhất với thời đại chúng
ta là triều Nguyễn, các ngành khoa học xã hội đã coi nghiên cứu về triều đại
này cũng như sự độc tôn Nho giáo của nó là vấn đề trọng tâm, cần có nhận
định, đánh giá xác đáng hơn trên tinh thần khách quan, khoa học. Do vậy, đã
có một chương trình nghiên cứu cấp nhà nước chuyên biệt, lâu dài về triều
Nguyễn được chuẩn bị trong suốt 15 năm qua và vào ngày 18/10/2008 tại
Thanh Hoá, đã diễn ra Hội thảo Khoa học Quốc gia về: Chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
Theo nhận định của GS. Phan Huy Lê: Thời kỳ các chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX là một thời kỳ lịch sử đã trải qua
những cách nhìn nhận và đánh giá hết sức khác nhau, có những lúc gần như
đảo ngược lại. Triều Nguyễn được đặt trong khung lý thuyết hình thái kinh tế
- xã hội, là triều đại suy vong, lâm vào khủng hoảng nặng nề, và chịu nhiều
11
phán xét không công bằng. Theo GS. Lê, khi nghiên cứu, nhận thức lịch sử
cần phải rút ngắn khoảng cách giữa lịch sử khách quan và lịch sử được nhận
thức, nghĩa là sự nhìn nhận, đánh giá về vị trí, vai trò của các chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn, phải mang tính khách quan, khoa học, công bằng.
Nhìn chung, các công trình, các bài viết trên đều đã giới thiệu khái
quát những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá và tư tưởng của giai đoạn lịch sử
này Song, trên thực tế, chưa có một công trình nào đi sâu vào tìm hiểu sự
độc tôn Nho giáo và ảnh hưởng của nó từ khi triều Nguyễn nắm quyền thống
trị đến năm thực dân Pháp đình chỉ nền giáo dục và khoa cử theo Nho giáo.
Do đó, có thể nói, đây vẫn còn là một vấn đề mở, cần phải đi sâu nghiên cứu
và có những kiến giải rõ hơn, hợp lý và sâu sắc hơn trên cơ sở khái quát, hệ
thống những nguyên nhân và hệ quả của sự độc tôn Nho giáo.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích: Trình bày nguyên nhân và nội dung cơ bản của sự độc
tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn, qua đó làm rõ ảnh hưởng của nó đối với xã
hội Việt Nam từ năm 1802 đến năm 1919.
- Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn cần tập trung giải quyết
các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ nguyên nhân và phân tích các tiền đề lịch sử, chính trị - xã
hội và tư tưởng cho sự độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn.
+ Trình bày nội dung cơ bản của sự độc tôn Nho giáo qua các chủ
trương của triều Nguyễn và trong tư tưởng của một số nhà nho tiêu biểu
đương thời.
+ Làm rõ những ảnh hưởng của sự độc tôn Nho giáo đối với xã hội
Việt Nam từ khi thành lập triều Nguyễn cho tới thời điểm thực dân Pháp bãi
bỏ hoàn toàn nền cổ học vốn lấy Nho giáo làm cơ sở.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những nguyên nhân, nội dung và ảnh
hưởng của sự độc tôn Nho giáo dưới triều Nguyễn thông qua việc khảo cứu,
12
phân tích các nguồn tư liệu về sử liệu của triều Nguyễn, các tư tưởng của một
số nhà nho tiêu biểu liên quan đến vấn đề này cũng như những thành tựu
nghiên cứu về hướng đề tài này của các học giả khác từ trước tới nay.
5. Cơ sở và phƣơng pháp luận nghiên cứu:
Dựa trên sự phân tích, đối chiếu, so sánh, tổng hợp kết hợp với
phương pháp lôgíc - lịch sử, dưới ánh sáng phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Đóng góp của luận văn:
Luận văn trình bày một cách hệ thống chủ trương của triều đình nhà
Nguyễn và tư tưởng Nho giáo của một số nhà nho tiêu biểu đương thời ở Việt
Nam về độc tôn Nho giáo, qua đó làm rõ ảnh hưởng của sự độc tôn Nho giáo
đối với xã hội Việt Nam thế kỷ XIX.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
- Luận văn góp phần tìm hiểu thực chất của sự độc tôn Nho giáo và
vai trò của nó trong lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XIX.
- Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu và giảng dạy lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam thế kỷ XIX.
8. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.
13
Chƣơng 1
NHỮNG NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN DẪN ĐẾN TÍNH TẤT YẾU
CỦA SỰ ĐỘC TÔN NHO GIÁO DƢỚI TRIỀU NGUYỄN
1.1. Một số nét khái quát về Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam
1.1.1. Lịch sử Nho giáo và những nội dung tư tưởng cơ bản của nó
Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội ra đời ở Trung Quốc cổ
đại vào thế kỷ VI - V Tr.CN. Người sáng lập của trường phái này là Khổng
Tử (551 - 479 Tr.CN), người nước Lỗ . Vốn xuất thân từ tầng lớp quí tộc bị
thất thế , Khổng Tử muốn đưa ra một học thuy ết về quản lý xa ̃hôị , quản lý
con người nhằm thiết lập và duy trì trật tự xa ̃hôị đang bị loạn lạc thời bấy
giờ. Khác với chủ trương biến pháp của các pháp gia đương thời , Khổng Tử
muốn dùng đạo đức để cảm hóa con người , làm cho xa ̃hôị có trật tự th eo
đẳng cấp mà ở đó, mỗi một người phải thấm nhuần tư tưởng chính danh trong
sự gắn liền với định phận mang tính tiền định bởi trời.
Sau khi Khổng Tử mất , Nho gia chia thành nhiều phái, trong đó thời
tiên Tần, hay còn gọi là Nho giáo sơ kỳ nổi bật là phái duy tâm do Mạnh Tử
(372 - 289 Tr.CN) và phái duy vật do Tuân Tử (313 - 238 Tr.CN) đứng đầu.
Nho giáo thời Tần đứng trước thảm họa diệt vong bởi chính sách “phần thư
khanh nho” (đốt sách giết học trò) do chủ trương độc tôn Pháp trị của nhà
nước. Đến thời Hán, do nhu cầu xây dựng nhà nước phong kiến trung ương
tập quyền, nhà Hán đã thực hiện đường lối trị nước kết hợp đức trị với pháp
trị, nhờ đó Nho gia được khôi phục. Và, trên nền tảng học thuyết duy tâm của
Khổng Mạnh, Đổng Trọng Thư (179 - 104 Tr.CN), người được mệnh danh là
Khổng Tử thời Hán , đã đưa một số yếu tố tôn giáo thần bí vào nội dung đạo
đức của Nho gia để hình thành nên hệ tư tưởng chính thống mang tính thần
quyền của nhà nước phong kiến . Mặc dù Nho gia trở thành trụ cột của hệ tư
tưởng thống trị trong suốt thời gian tồn tại của chế độ phong kiến Trung
Quốc, về mặt học thuật của nó đã bộc lộ sự yếu kém so với Phật giáo và Đạo
14
giáo về nhiều phương diện , do đó , từ thời Tống nội dung tư tưởng Khổng
Mạnh được bổ sung thêm những yếu tố mới về hình nhi thượng học và hình
nhi hạ học, làm cho Nho giáo trở thành một học thuyết có nội dung học thuật
cao với các phái Đạo học, Lý học, Số học, Tâm học, Thực học, v.v. Các phái
đó được gọi chung là Tân Nho giáo gồm Tống Nho, Minh Nho, Thanh Nho.
Nho giáo tiên Tần theo tinh thần Khổng Mạnh ít bàn đến vấn đề bản thể
của thế giới mà chủ yếu bàn đến khái niệm “trời” với tư cách vừa là tự nhiên,
vừa là siêu nhiên. Trời phú tính và ban mệnh cho con người, do đó nếu con
người biết “tồn tâm dưỡng tính” thì sẽ trở thành người tốt tính theo các nấc
thang “tu, tề, trị, bình”. Tuân Tử xác nhận nguồn gốc của thế giới từ âm
dương và giữa trời và người không có liên quan gì đến nhau. Đổng Trọng Thư
cho rằng, thế giới này có nguồn gốc từ thập đoan (Âm dương, Ngũ hành và
Tam tài), trong đó ông đề cao vai trò của trời với tư cách là thủy tổ của muôn
loài mà ở đó loài người là cao quí nhất. Tân Nho giáo đề cập đến vấn đề bản
thể của thế giới thông qua mối quan hệ giữa lý và khí, tâm và vật, như tập đại
thành của Tống Nho là Chu Hi xác nhận khí là bản thể của thế giới, lại cho
rằng, lý (tức nguyên lý, quy luật) có trước khí.
Vấn đề con người được xem là trọng tâm của Nho giáo, từ đó Nho giáo
xây dựng nên đường lối trị nước bằng đạo đức (đức trị) thông qua thuyết tính
người và quan niệm về các mối quan hệ người, giáo dục đào tạo con người.
Đường lối trị nước của Nho giáo được thể hiện trước tiên ở tư tưởng
của Khổng Tử. Ông không tán thành loại trừ hình pháp, đồng thời khẳng định
dùng đạo đức để cảm hóa con người thì hơn: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt
dân, dùng hình pháp để giữ trật tự, dân tránh khỏi tội nhưng chưa biết hổ thẹn.
Dùng đức để dẫn dắt, dùng lễ để giữ trật tự, dân biết hổ thẹn mà tiến tới chỗ
tốt lành”[Luận Ngữ, Vi chính]. Đường lối đức trị của Khổng Tử thể được hiện
ở những nội dung cơ bản như: Huệ dân (nhà cầm quyền phải có ân huệ với
dân, khoan thư sức dân, sử dân dĩ thời, v.v.); Nhân (yêu thương con người,
trung thứ, đề cao hiếu đễ và khắc kỷ phục lễ, v.v.); Lễ (bao gồm lễ nghi tế tự
15
và nghi thức ứng xử); Chính danh (danh phận con người trong sự ràng buộc
và tuân thủ mệnh trời , v.v.). Từ nội dung trên , Khổng Tử khẳng định mục
đích của đức trị là thiết lập xa ̃hôị lý tưởng theo mô hình xa ̃hôị thời Nghiêu
Thuấn, còn chủ thể của nó là mẫu người quân tử. Người quân tử hội đủ đức
nhân, trí, dũng, liêm, trực, v.vđiều mà ở tiểu nhân không đủ, thậm chí
không có.
Mạnh Tử phát triển học thuyết của Khổng Tử về đường lối trị nước gọi
là nhân chính và thống nhất. Ông là người đề cao vai trò của dân (dân vi quý,
xã tắc thứ chi, quân vi khinh), đòi hỏi nhà cầm quyền phải lo cho dân có hằng
sản để dân yên tâm phục vụ đất nước, chấp hành mệnh lệnh của thiên tử (hằng
tâm).
Tuân Tử lại cho rằng , trị nước phải cần đến Lễ . Công dụng của Lễ là
điều hòa các mối quan hệ xa ̃ hôị, nó làm cho con người chấp nhận sự tồn tại
đẳng cấp trong xa ̃hôị , kéo theo đó là chấp nhận sự bất bình đẳng trong phân
công lao động xa ̃hôị và phân phối sản phẩm lao động . Mặt khác, Tuân Tử
còn cho rằng, Lễ cần phải được kết hợp với pháp luật để duy trì trật tự xa ̃hôị
(lễ pháp kiêm trị), song hình phạt phải mang tính giáo dục, nhà cầm quyền
không được lạm dụng hình pháp để phạt nặng.
Đổng Trọng Thư đề cao vai trò của thiên tử trong việc trị nước (thừa
hành mệnh trời dưỡng dục và giáo hoá dân). Mọi hành vi của thiên tử đều
được trời giám sát và thực hiện sự thưởng phạt tùy theo mức độ trị loạn trong
thiên hạ . Do đó , con người phải biết kính trời , sợ trời mà chấp hành mệnh
lệnh của thiên tử một cách vô điều kiện . Tư tưởng đức pháp kiêm trị đó rõ
ràng là mang tính thần quyền.
Về bản tính con người, các nhà sáng lập Nho giáo đưa ra các quan điểm
khác nhau. Khổng Tử cho rằng, tính người ta thuở ban đầu là gần nhau, nhưng
do thói quen, tập nhiễm mà xa nhau (tính tương cận dã, tập tương viễn dã);
Mạnh Tử khẳng định bản tính con người là thiện , đối lập với ông là thuyết
tính ác của Tuân Tử; Đổng Trọng Thư cho rằng, tính người có ba hạng (thiện,
16
ác, vừa thiện vừa ác). Tuy các quan điểm nêu trên về tính người là khác nhau ,
song các nhà sáng lập Nho giáo đều thống nhất với nhau rằng , để con người
trở nên tốt tính , có ích cho xã hội cần phải có giáo dục . Chính Khổng Tử là
nhà giáo dục tư thục đầu tiên đưa ra mục đích giáo dục là đào tạo mẫu người
lý tưởng, hiểu biết sâu sắc về đạo và thực hành đạo đó trong xa ̃hôị để làm
cho xa ̃hôị được trị bình . Ông là tấm gương vĩ đại của ngành giáo dục với
phương châm dạy người không biết mỏi, không phân biệt giàu nghèo, sang
hèn; phương pháp giáo dục tiến bộ, theo đó học phải đi đôi với tập, với tư và
với hành. Nội dung giáo dục trong tư tưởng của Khổng Tử nói riêng và Nho
giáo nói chung , đều hướng vào việc giáo dục đạo đức , còn lĩnh vực tri thức
chuyên môn phục vụ sản xuất ra của cải vật chất cho xa ̃hôị lại bị xem nhẹ .
Đó cũng là mặt hạn chế trong tư tưởng giáo dục của Nho giáo.
Về các mối quan hệ người, các nhà sáng lập Nho giáo đã giành cho lĩnh
vực này sự quan tâm đặc biệt . Khổng Tử nêu nhân luân, theo đó trong quan
hệ với bề tôi vua phải là người có nhân, bề tôi phải trung với vua; cha phải từ,
con phải hiếu; chồng phải có nghĩa với vợ, còn vợ phải tùy theo chồng; anh
nhường em kính; bạn bè quan hệ với nhau phải tin cậy lẫn nhau. Mạnh Tử
trên tinh thần ấy đã xác định mối quan hệ qua lại một cách bình đẳng hơn, đó
là ngũ luân: phụ tử hữu thân; quân thần hữu nghĩa; phu phụ hữu biệt ; trưởng
ấu hữu tự ; bằng hữu hữu tín . Tuy nhiên, đến thời Hán , Đổng Trọng Thư dù
vẫn tiếp tục đề cao đạo đức gia đình như Khổng Mạnh , ông đã vận dụng
thuyết Âm dương ngũ hành vào việc xem xét các phương diện đạo đức xa ̃hôị
và cá nhân, làm cho các mối quan hệ xa ̃hôị trở nên hà khắc , một chiều, đó là
đạo đức tam cương (vua tôi, cha con, chồng vợ). Tam cương phản ánh sự
phục tùng vô điều kiện của bề tôi với vua, con đối với cha, vợ đối với chồng,
tức là âm phải tùy thuộc vào dương. Các chuẩn mực đạo đức cá nhân (ngũ
thường- nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) được Đổng Trọng Thư tham chiếu với Ngũ
hành (Mộc, Kim, Hỏa, Thủy, Thổ).
17
Lĩnh vực kinh tế cũng được các nhà nho đề cập tới nhưng không phải là
nội dung cơ bản, ở đó vấn đề công bằng luôn được đặt lên hàng đầu chứ
không phải là điều kiện vật chất quy định sự phồn thịnh của đất nước và cá
nhân con người. Khổng Tử cho rằng, việc chính trị trước hết phải làm cho dân
đông, dân giàu và sau đó là giáo hóa dân. Song, khi đề cập đến việc bất đắc dĩ
phải bỏ hai trong ba thứ là binh khí , lương thực và dân tín thì Khổng Tử
khẳng định ngay rằng, có thể bỏ binh khí và lương thực chứ không được đánh
mất lòng tin của dân. Mạnh Tử thì đề cao hằng sản và biện pháp thực hiện nó
là chế độ tỉnh điền và giảm thuế má cho dân. Tuân Tử đề cao sức mạnh của
dân, cho rằng vua là thuyền, dân là nước, chở thuyền và lật thuyền cũng là
dân.
Nói tóm lại , Nho giáo là một học thuyết chính trị - xã hội đề ra nhiệm
vụ quản lý xa ̃hôị và con người bằng đạo đức . Chính vì vậy học thuyết này
còn gọi là học thuyết chính trị - đạo đức. Dù dưới hình thức phát triển nào đi
nữa, dùng đức để cảm hóa con người vẫn là chủ đề chính. Nếu Mạnh Tử kêu
gọi “tồn tâm dưỡng tính” thì Tống Nho kêu gọi “tồn thiên lý, diệt nhân dục”
và mục đích chung vẫn là xây dựng xa ̃hôị hài hòa , lý tưởng. Học thuyết này
ảnh hưởng mạnh tới các nước trong khu vực như Triều Tiên, Nhật Bản và Viêṭ
Nam, đồng thời góp phần thiết lập và duy trì chế độ phong kiến trung ương
tập quyền ở mỗi nước.
1.1.2. Sự du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam
Nho giáo vào Viêṭ Nam khá sớm , ít nhất là từ thời kỳ đô hộ của Đông
Hán.
Sau khi xâm chiếm nước ta, giai cấp phong kiến nước ngoài đã ra sức
củng cố chế độ nô dịch của chúng, tạo ra những biến chuyển lớn trên các lĩnh
vực xã hội, kinh tế, chính trị, tư tưởng. Chế độ phong kiến theo kiểu Trung
Quốc dần dần được thiết lập ở Việt Nam. Trên đất nước ta diễn ra một cuộc
đấu tranh gay gắt lúc âm ỉ, lúc công khai giữa nhân dân Việt Nam với chế độ
tàn bạo và chính sách đồng hoá của bọn xâm lược.
18
Trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng, nhà nước của bọn xâm lược du nhập
và phát triển cả Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo vào nước ta, trong đó Nho
giáo trở thành hệ tư tưởng chính thống và xiềng xích nô dịch của nhân dân.
Ngay từ thời Tây Hán, Nho giáo từ Trung Quốc đã từng bước được du
nhập vào Việt Nam, với hai Thái thú Tích Quang và Nhâm Diên. Văn tự
Trung Quốc đã được sử dụng vừa phục vụ cho nhu cầu hành chính của quân
xâm lược, vừa truyền bá Nho giáo với các sách kinh điển của Nho giáo như
Tứ thư, Ngũ kinh. Từ thời Mã Viện đã mở lớp dạy Nho cho con em quan lại,
địa chủ Hán tộc và cho một số con em tầng lớp trên của xã hội Việt Nam.
Đến đời Sỹ Nhiếp làm Thái thú ở Giao Chỉ thì Nho giáo lại càng được
phổ biến rộng rãi trong tầng lớp quý tộc, thống trị ở Giao Châu.
Dưới thời Bắc thuộc, các triều đại Trung Hoa: Hán, Tần, Tống, Tề,
Lương, Tuỳ, Đường, đã cho dân Việt Nam học tập Nho giáo, Đạo giáo và
Phật giáo như bên Trung Quốc. Ở giai đoạn đầu du nhập thì Nho giáo vẫn
chưa vào sâu được trong dân gian. Ưu thế vẫn thuộc về Phật giáo và Đạo
giáo.
Sau khi giành được độc lập, ở những triều đại đầu tiên trong lịch sử
như: Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, thì Phật giáo được coi là Quốc giáo. Tuy nhiên,
chế độ phong kiến trong quá trình củng cố, xây dựng và phát triển, Phật giáo
không thể đảm đương được trách nhiệm quản lý nhà nước và càng tỏ rõ yếu
kém trước nhu cầu của thời đại. Chính vì thế mà các vua chúa dần dần quan
tâm đặc biệt đến Nho giáo hơn, tích cực phát triển Nho giáo.
Năm 1070, Lý Thánh Tông (1034 - 1072) xây dựng văn miếu thờ Chu
Công, Khổng Tử và 72 hiền. Quốc Tử Giám được thành lập để làm nơi học
tập cho con em quý tộc, quan lại. Nền Đại học Việt Nam bắt đầu từ đó. Lý
Nhân Tông (1073 - 1127) mở khoa thi Tam trường (1075). Lý Nhân Tông lại
đặt Hàn lâm viện (1086). Tuy vậy, chế độ khoa cử thời Lý chưa được quy
định hẳn hoi, dẫu rằng nó là hình thức tuyển dụng quan chức tốt nhất cho bộ
máy quan liêu của nhà nước phong kiến tập quyền.
19
Sang vương triều Trần, do yêu cầu củng cố chế độ phong kiến, bộ máy
nhà nước cần được tăng cường, chế độ khoa cử đã được tổ chức quy củ để
thường xuyên đào tạo những lớp quan lại sung vào bộ máy nhà nước.
Do nhu cầu củng cố nhà nước tập quyền, Nho giáo đã được giai cấp
phong kiến phát triển như là hệ tư tưởng chính thống của nó. Chế độ giáo dục
và chế độ khoa cử đều dựa trên cơ sở Nho giáo mà đào tạo những tầng lớp
quan lại trung thành với chế độ phong kiến tập quyền. Về mặt này, rõ ràng
Nho giáo có tác dụng mạnh mẽ hơn Phật giáo, trong khi Phật giáo hướng con
người vào thế giới bên kia, thì Nho giáo chủ động, tích cực trong vai trò nhập
thế, phục vụ lợi ích cho giai cấp phong kiến thống trị và tôn ti trật tự xã hội.
Nho giáo ngày càng phát triển. Tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo.
Đại bộ phận tầng lớp quan lại trong bộ máy nhà nước đều xuất thân từ nho sĩ.
Tầng lớp này ngày càng nắm được những địa vị quan trọng trong bộ máy nhà
nước. Họ là những kẻ đại diện cho giai cấp địa chủ. Hệ tư tưởng của họ là hệ
tư tưởng Nho giáo.
Và như vậy, Nho giáo gắn liền với quyền lợi đẳng cấp quý tộc. Tầng
lớp nho sĩ đa số xuất thân từ giai cấp địa chủ nhỏ, muốn có địa vị trong xã hội
bằng cách thông qua Khổng giáo, thông qua thi cử để đạt mục đích của mình.
Từ chỗ không được ưa thích trong các tầng lớp nhân dân Việt Nam,
Nho giáo đã dần dần giữ vị trí ngày càng tăng trong việc đề cao uy thế của
nhà vua, xây dựng một hệ thống quan liêu từ trên xuống dưới, đảm bảo mối
quan hệ chặt chẽ giữa nhà nước và nhân dân.
Nho giáo được du nhập vào Việt Nam, trải qua quá trình tiếp biến với
văn hoá bản địa cho nên nó không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của
nó nữa. Nó đã được Việt Nam hoá. Nho sĩ Việt Nam vì lợi ích bảo vệ và xây
dựng tổ quốc, đã khai thác những quan điểm tích cực của Nho giáo để khẳng
định những giá trị truyền thống của dân tộc.
Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tôi ở vị trí cao nhất trong năm quan
hệ giữa người với người. Nhân nghĩa là hai phạm trù trung tâm đứng hàng
20
đầu trong năm giá trị cơ bản của đạo đức Khổng giáo (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí,
Tín).
Cùng với việc truyền bá Nho giáo vào nhân dân, nho sĩ Việt Nam đã
hoạt động mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và đã có những đóng
góp đáng kể, góp phần hình thành và củng cố những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc. Từ thế kỷ XI trở đi, các triều đại phong kiến Việt Nam đã
vận dụng các nguyên tắc cơ bản của Nho giáo để trị nước, đặc biệt từ thời Lê
Sơ, Nho giáo được độc tôn, làm tiền đề cho sự độc tôn lần thứ hai dưới triều
Nguyễn.
1.2. Những nguyên nhân cơ bản của sự độc tôn Nho giáo dƣới
triều Nguyễn
1.2.1. Sự độc tôn Nho giáo lần thứ nhất dưới thời Lê Sơ là tiền đề
quan trọng cho sự độc tôn Nho giáo lần thứ hai dưới triều Nguyễn
Năm 1428, sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa chống sự xâm lược và
đô hộ của nhà Minh, Lê Lợi (tức Lê Thái Tổ) lên ngôi, lập lên vương triều Lê.
Trong những năm trị vì đất nước, Lê Lợi đã xây dựng một bộ máy nhà nước
theo mô hình của nhà Trần, ban hành một số văn bản pháp luật dưới dạng các
chỉ dụ, lệnh, chiếu, thi hành các chính sách nhằm phát triển sản xuất nông
nghiệp cùng một số biện pháp an sinh xã hội, tạo ra sự ổn định và hưng
khởi bước đầu cho đất nước sau hơn 20 năm bị giặc chiếm đóng và tàn phá.
Nho giáo đã bắt đầu chiếm vị trí độc tôn trong thượng tầng kiến trúc phong
kiến.
Giai cấp phong kiến Việt Nam thời Lê Sơ lấy Nho giáo làm công cụ
thống trị tinh thần, làm cơ sở lý luận và quy tắc đạo đức để củng cố trật tự xã
hội và bảo vệ quyền thống trị của chế độ phong kiến tập quyền chuyên chế.
Hệ tư tưởng Nho giáo được quán triệt vào nhiều chủ trương chính sách của
nhà nước phong kiến và có ảnh hưởng sâu sắc trong mọi lĩnh vực văn hoá
đương thời.
21
Lê Thánh Tông là một ông vua tinh thông Nho giáo và đã nâng Nho
giáo lên địa vị cao nhất. Ngay sau khi lên nắm quyền, Lê Thánh Tông chủ
trương và xây dựng một nhà nước quân chủ chuyên chế, đề cao uy quyền và
quyền hành thực tế của vua, tăng cường sự chi phối quyền lực của triều đình
xuống các địa phương.
Các biện pháp cải cách đã được thực hiện từng bước. Nhà nước
phong kiến thời Lê đề ra chính sách nhằm củng cố và phát triển đất nước như
chủ trương “trọng nông”, “ức thương”. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam, tư tưởng “trọng nông”, “ức thương” được thể chế hoá và được triệt
để thực hiện thông qua các chính sách và biện pháp cụ thể của nhà nước.
Cũng từ đây hình thành quan niệm phân tầng xã hội, chia xã hội thành tứ dân
là sĩ, nông, công, thương, tạo cơ sở vững chắc cho Nho giáo phát triển mạnh
mẽ.
Trong xã hội phong kiến thế kỷ XV, địa vị của tầng lớp nho sĩ được
đề cao, làm rường cột của nhà nước phong kiến, làm nguồn bổ sung vào bộ
máy quan liêu. Tầng lớp Nho sĩ ấy đã được đào tạo từ một chế độ giáo dục và
thi cử lấy Nho giáo làm cơ sở.
Trên cơ sở thuyết “Chính danh, định phận” và “Đạo Nhân”: Tam
cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức... của Nho giáo, nhà nước phong kiến
thời Lê Sơ ra sức ổn định và củng cố các quan hệ phong kiến với những thứ
bậc tôn ti chặt chẽ. Nhà vua có một uy quyền vô thượng, được xe
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l2_01803_9284_2003096.pdf