Do nội dung của các tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc
phục dưới thời Nguyễn bao quát nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội, nên nguồn tư liệu mà luận văn tiếp cận, khai thác và sử dụng rất phong
phú và đa dạng nhưng cũng rất tản mạn.
Nguồn tư liệu cơ bản, chủ yếu làm cơ sở cho việc nghiên cứu của luận
văn là các bộ chính sử như Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn
biên soạn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn biên
soạn, đều đã được Viện Sử học dịch và xuất bản.
Sách Đại Nam nhất thống chí – bộ sách địa lý học Việt Nam đầy đủ
nhất dưới thời phong kiến, ở phần nội dung đã chia ra mục hình thế, khí hậu,
trong đó đặc biệt là mục khí hậu, đã có sự tổng kết nghiên cứu khái quát về
đặc điểm khí hậu, ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu tới đời sống sản xuất, xã
hội của người dân ở các vùng miền trên cả nước.
27 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Tai biến tự nhiên và khắc phục của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại đa số các nghiên
cứu này đều nhằm miêu tả, phân tích, nhìn nhận và đánh giá chung về các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa còn các sự kiện tai biến tự nhiên và biện pháp
phòng chống, khắc phục chưa được tập hợp, thống kê, phân tích, tìm hiểu một
cách có hệ thống. Lý giải điều này cũng có thể là do xuất phát từ quan niệm
cho rằng, hiện tượng tai biến tự nhiên và tác động của nó chưa phải là vấn đề
gây ra sự ảnh hưởng sâu rộng, nó có thể bị hòa vào các chính sách về nông
nghiệp, chính sách tô thuế, về thực trạng đời sống nông dân Mặc dù vậy,
khi đề cập đến thời Nguyễn, các tác giả ít nhiều có nhận định chung hoặc
điểm đến một số chính sách, biện pháp cụ thể liên quan đến vấn đề được luận
văn quan tâm.
Sách Lịch sử Việt Nam (1971), Tập 1 do Ủy ban Khoa học xã hội xuất,
tuy không trực tiếp bàn đến các tai biến tự nhiên xảy ra dưới thời Nguyễn,
nhưng đã gián tiếp đề cập đến ở khía cạnh khác:
- 8 -
Dưới triều Nguyễn, kinh tế nông nghiệp càng ngày càng sa sút. Đó là
hậu quả của nạn chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ và sự bóc lột nặng
nề của nhà nước phong kiến. Mặt khác, triều Nguyễn lại bất lực trong việc
chăm lo, bảo vệ đê điều và các công trình thủy lợi, để cho thiên tai đe dọa
thường xuyên và nghiêm trọng nền sản xuất nông nghiệp Trong suốt đời
Nguyễn, nạn đê vỡ, hạn hán, lụt lội xảy ra liên tiếp. Riêng đê sông Hồng ở
Khoái Châu (Hải - Hưng) thời Tự Đức bị vỡ 10 năm liền. Cả một vùng đồng
ruộng phì nhiêu, cư dân trù mật biến thành bãi lầy hoang vu, nhân dân phải bỏ
làng đi ăn xin khắp nơi Ruộng đồng bỏ hoang, nhân dân phiêu bạt, xóm
làng xác xơ. Một màu đen ảm đảm như vậy bao phủ khắp nông thôn [36, tr.
376].
Sách Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều
Nguyễn (1997), do Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang chủ biên, đã đề cập đến các
nội dung: Công tác trị thủy và thủy lợi (Tình hình bão lụt, hạn hán dưới thời
Nguyễn; Hoạt động trị thủy); Canh tác nông nghiệp và đời sống nông dân (Kỹ
thuật và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp; Đói kém, dịch bệnh; Hoạt động
cứu tế xã hội). [48, tr. 105 - 171]
Sách Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử) của Phan Khánh, Từ Mạo,
Nguyễn Gia Quang đã đề cập tới một loại tai biến tự nhiên có tần suất và
cường độ xảy ra nhiều nhất là lũ lụt, qua phần nội dung Đê điều, trị thủy dưới
triều Nguyễn, trong đó trình bày thực trạng trị thủy và đê điều qua các triều
vua, từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức với cuộc trưng cầu ý
kiến về trị thủy Bắc Kỳ [30, tr. 35 - 96].
Sách Thiên tai và dịch bệnh ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế (Bảy thế kỷ
nhìn lại) của Dương Phước Thu (2006), ở Chương 3 với nội dung Bão, lũ,
dịch bệnh từ năm 1801 đến 1945, đã trình bày theo cách thống kê biên niên
các sự kiện thiên tai (hạn hán, lũ bão, dịch bệnh, mất mùa, sét đánh, động đất,
- 9 -
sâu bọ) xảy ra dưới thời nhà Nguyễn ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên
Huế. Tuy nhiên, cách trình bày các nội dung chỉ theo diễn tiến thời gian, mà
chưa có sự phân chia cụ thể, hệ thống riêng biệt của từng loại tai biến tự
nhiên.
Những năm gần đây, cũng đã xuất hiện nhiều nghiên cứu hoặc gián
tiếp, hoặc trực tiếp bàn đến một số vấn đề mà luận văn đặt ra: Vũ Văn Quân
với Chế độ ruộng đất, kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX
(1991), Luận án Phó Tiến sỹ Sử học, Đại học Tổng hợp Hà Nội và Vài nét về
chế độ tô thuế thời Nguyễn (1988), Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp;
ngoài ra còn có một số bài viết khác như Vài nét về kinh tế nông nghiệp Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XIX (1990), Nghiên cứu kinh tế; Đỗ Đức Hùng với Nhà
Nguyễn với công tác tổ chức quản lý công trình thủy lợi ở Bắc Bộ thế kỷ XIX
(1994), Khoa học xã hội...
Trong quá trình nghiên cứu, một mảng tư liệu khác tuy không nhiều
nhưng cũng được tác giả quan tâm khai thác là một số nghiên cứu về các loại
tai biến tự nhiên dưới góc độ khoa học tự nhiên, khí tượng thủy văn như Khí
tượng thủy văn và đời sống (1995), NXB. Khoa học kỹ thuật; Địa lý tự nhiên
Việt Nam (1978) của Vũ Tự Lập; Thiên nhiên Việt Nam (2005) của Lê Bá
Thảo; Hạn hán và những giải pháp giảm thiệt hại (2003) do Đào Xuân Học
chủ biên; Lũ lụt và cách phòng chống (2000) do Trần Thanh Xuân chủ biên
đều có ít nhiều liên quan đến đề tài luận văn.
Tóm lại, xung quanh vấn đề tai biến tự nhiên và biện pháp phòng
chống, khắc phục của nhà Nguyễn (1802 – 1858) đã có một số nghiên cứu đề
cập đến một cách gián tiếp ở từng góc độ khác nhau tùy theo yêu cầu nghiên
cứu. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu trực tiếp và
tập trung vào các tai biến tự nhiên thời nhà Nguyễn. Đây là một khó khăn lớn
đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài luận văn. Tuy vậy, dù ở mức độ nào,
- 10 -
những công trình của người đi trước đã là nguồn tham khảo bổ ích, quý báu
giúp chúng tôi nhiều trong quá trình làm luận văn, từ những vấn đề cụ thể đến
lý luận, phương pháp luận.
3.2. Các nguồn tư liệu
Do nội dung của các tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc
phục dưới thời Nguyễn bao quát nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội, nên nguồn tư liệu mà luận văn tiếp cận, khai thác và sử dụng rất phong
phú và đa dạng nhưng cũng rất tản mạn.
Nguồn tư liệu cơ bản, chủ yếu làm cơ sở cho việc nghiên cứu của luận
văn là các bộ chính sử như Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn
biên soạn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn biên
soạn, đều đã được Viện Sử học dịch và xuất bản.
Sách Đại Nam nhất thống chí – bộ sách địa lý học Việt Nam đầy đủ
nhất dưới thời phong kiến, ở phần nội dung đã chia ra mục hình thế, khí hậu,
trong đó đặc biệt là mục khí hậu, đã có sự tổng kết nghiên cứu khái quát về
đặc điểm khí hậu, ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu tới đời sống sản xuất, xã
hội của người dân ở các vùng miền trên cả nước.
Ví dụ về khí hậu phủ Thừa Thiên, sách này viết:
Bốn mùa thường ấm, đầu mùa xuân đào đã trổ hoa, tháng Giêng, tháng
Hai khí trời hòa ấm; tháng Ba khí trời nóng dần, thỉnh thoảng có gió
mạnh từ phương Nam đến, tục gọi là “bão nam”, người đi sông nước
cần phải đề phòng; tháng Tư tiết Tiểu mãn, thỉnh thoảng cũng có lụt;
tháng 5, tháng 6 và tháng 7 gió nam thổi mạnh; trước ngày 7 tháng 7 có
mưa, tục gọi là “mưa rửa xe”; tháng 8, tháng 9, khí trời mát dần,
thường có mưa lũ, thỉnh thoảng lại có gió đông vài ba ngày mới tắt, tục
gọi là “gió từ bến”; tháng 10 trong những ngày mồng 3, 13 và 23
thường bị lụt, ngạn ngữ có câu “Ông tha mà bà chẳng tha, làm cho cái
- 11 -
lụt ngày 3 tháng 10”. Lụt rút mà có mưa, gọi là “mưa rửa bùn”, mùa
đông mưa nhỏ, sắc nước tối gọi là “mưa tro”. Trong một năm, nửa mùa
thu sang mùa đông thường mưa nhiều, nửa mùa xuân về sau thường
nắng nhiều, từ tháng trọng đông (tháng 11 trở về sau) khí rét nhưng
không giá buốt, cây cối không rụng lá, cuối năm khí trời đã ấm; tháng
12 sấm bắt đầu dậy[7, tr. 110].
Khí hậu tỉnh Quảng Nam:
Khí hậu nóng nực, nhiều tạnh ít mưa, chất đất phù bạc, nhiều khô khan
ít màu mỡ. Hết tháng Chạp thì gió đông nổi, tiết Kinh trập thì mưa xuân
nhuần; gió nam mạnh về mùa hạ; gió bấc rét về mùa đông; mùa thu gió
mát mà hay mưa lụt (các tháng 8, 9, 10 thường hay mưa lụt), mưa đông
hết lụt thì bãi sông bằng (mùa đông, sau khi mưa lụt thì bãi sông bằng
phẳng, tức là hết kỳ mưa lụt); mây đen nổi ở Trà Sơn là triệu sẽ mưa,
cầu vồng hiện ở Cu Đê là sắp có lụt (cầu vồng hiện mùa hè thì mưa,
hiện mùa thu, mùa đông thì lụt). Thỉnh thoảng cũng có gió bão. Gần núi
rừng thường nhiều lam chướng, ven sông biển thì có thủy triều lên
xuống[8, tr. 337].
Thông qua những kiến thức về đặc điểm thời tiết, khí hậu riêng ở các
địa phương này, đã phần nào giúp cho người dân có những nhận thức rõ ràng,
để có những hoạt động sản xuất, đời sống thích hợp, nhằm phòng tránh, hạn
chế tối đa sự tác động của tai biến tự nhiên.
Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 63, phần Quyết tuất
(tha thuế và cấp tuất) cũng đã có sự thống kê biên niên các nội dung: Ban ra
và cho vay thóc kho; Chuẩn tế dân bị thiên tai; Miễn thuế; Khám đồng lúa;
Giảm thuế tô; Khuyến khích việc quyên góp; Cứu giúp nạn gió bão; Cứu giúp
kẻ cô cùng; Thương xót kẻ tù tội; Cấp tuất. Thông qua các nội dung này đã
- 12 -
cung cấp những thông tin về tai biến tự nhiên xảy ra dưới thời nhà Nguyễn,
cùng những biện pháp phòng chống, khắc phục của triều đình.
- Năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), Dụ rằng: các trấn Sơn Nam, Nam
Định, Sơn Tây, Bắc Ninh thuộc Bắc Thành, đê điều tràn vỡ Nay cho
phép quan Bắc Thành, chiếu trong khu vực bị tai, ai bị chết đuối, bất cứ
nam, phụ, lão, ấu, đều truy cấp cho mỗi người 3 quan tiền tuất. Còn
những người nghèo đói, liệu chia ra 2 hạng: nghèo quá, nghèo vừa bất
cứ nam, phụ, lão, ấu, hạng nghèo quá, cấp mỗi người 2 quan tiền, 1
phương gạo; hạng nghèo vừa, 1 quan tiền, 1 phương gạo. [31, tr. 569].
- Năm Tự Đức thứ 2 (1849), Dụ rằng: 3 huyện Bố Trạch, Bình Chánh,
Minh Chánh hạt Quảng Bình, ruộng đất cao hạn, lúa chiêm, thu hoạch
không được mấy, thuyền buôn đi lại không đến, hiện nay giá gạo đã
cao. Cho phép quan tỉnh ấy chiếu xem dân 3 huyện, hoặc có ai nghèo
đói, thiếu thốn thời hạng nghèo quá, chẩn cho mỗi người 5, 6 bát gạo,
người nghèo vừa 3, 4 bát [31, tr. 571].
Ngoài hai bộ chính sử nói trên, các tập Đại Nam nhất thống chí do
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sỹ
Liên và các sử thần triều Lê biên soạn là những sách cung cấp tài liệu và
nhận xét có liên quan đến các tai biến tự nhiên xảy ra dưới thời Nguyễn và
trước Nguyễn cũng là nguồn tư liệu được chúng tôi đặc biệt quan tâm khi tiến
hành nghiên cứu.
Tư liệu về các sự kiện tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc
phục dưới thời nhà Nguyễn qua các tài liệu kể trên khá rời rạc, tản mạn. Tuy
nhiên, các tài liệu đó cũng đã đề cập đến các vấn đề mà luận văn cần giải
quyết như các sự kiện tai biến tự nhiên xảy ra theo tiến trình thời gian (tháng,
năm); tác động của tai biến tự nhiên trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội;
biện pháp phòng chống và khắc phục của nhà Nguyễn.
- 13 -
Sau nữa là các bài viết cũng có nội dung liên quan đến tác động của tai
biến tự nhiên trên các tạp chí như Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu kinh tế,
Khoa học xã hội... Tất cả đều là những tài liệu mà chúng tôi sẽ tham khảo
trong quá trình thực hiện luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đáp ứng mục đích, yêu cầu đặt ra của luận văn, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp lịch sử: Với đề tài khoa học lịch sử này, luận án vận dụng
chủ yếu phương pháp lịch sử theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của học thuyết Mác – Lênin; các hiện tượng tai biến tự nhiên xảy ra
dưới thời nhà Nguyễn được xem xét theo một trật tự thời gian cùng với những
tác động của nó đến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội.
Tai biến tự nhiên và các biện pháp phòng chống, khắc phục của nhà
Nguyễn là một bộ phận trong hệ thống chính sách xã hội của Nhà nước, nó có
nội dung, đối tượng và tác động riêng nhưng mặt khác, nó có liên quan chặt
chẽ, tương tác với các chính sách khác và bao quát đến mọi lĩnh vực, mọi tầng
lớp xã hội. Do đó, khi khảo cứu, bên cạnh phương pháp lịch sử là chủ yếu, tác
giả sẽ kết hợp vận dụng các phương pháp phân loại, so sánh, phương pháp hệ
thống, phương pháp thống kê, bóc tách các sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhằm
mục đích xác định diện mạo, nội dung, tác động của các hiện tượng tai biến tự
nhiên, cũng như các biện pháp phòng chống, khắc phục.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn liên hệ, so sánh giữa các thời
kỳ lịch sử trước và sau đó, để rút ra những điểm mạnh, điểm yếu cùng những
đặc điểm nổi bật của các biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến tự nhiên
dưới thời nhà Nguyễn.
Từ những sự kiện, hiện tượng lịch sử tản mạn, đa dạng, phức tạp thuộc
các hiện tượng tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc phục, tác giả
- 14 -
đã có sự chọn lọc, sắp xếp và hệ thống lại. Từ đó, luận văn sẽ vận dụng
phương pháp lôgic nhằm phân tích, lý giải các tác động, các mối liên hệ,
tương tác của các biện pháp giải quyết hậu quả tai biến tự nhiên trong hệ
thống chính sách xã hội của nhà Nguyễn.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Vài nét về tai biến tự nhiên trước thế kỷ XIX
Chương 2: Tai biến tự nhiên dưới thời Nguyễn (1802 – 1858)
Chương 3: Tác động của tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống,
khắc phục của nhà Nguyễn
- 15 -
Chương 1
VÀI NÉT VỀ TAI BIẾN TỰ NHIÊN TRƯỚC
THẾ KỶ XIX
1.1. Vài nét về tự nhiên Việt Nam
Các điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thủy
văn, thổ nhưỡng, sinh vật và những mối quan hệ tác động qua lại, chi phối lẫn
nhau giữa chúng. Chính mối quan hệ này là cơ sở tạo ra những điều kiện
thuận lợi cũng như đưa đến những vấn đề tai biến tự nhiên.
1.1.1 Vị trí địa lý
Vị trí địa lý của một lãnh thổ là một yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng
chi phối các đặc điểm tự nhiên của lãnh thổ đó.
Trên bản đồ thế giới, Việt Nam nằm ở rìa Đông của bán đảo Đông
Dương, gần trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp với Trung Quốc,
phía Tây giáp với Lào, Campuchia, phía Đông và phía Nam giáp với Biển
Đông.
Lãnh thổ Việt Nam nối liền một dải từ điểm cực Bắc trên cao nguyên
Đồng Văn ở vĩ độ 23°23’B thuộc Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang
tới điểm cực Nam trên bán đảo Cà Mau ở vĩ độ 8°34’B thuộc xã Đất Mũi,
huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau; điểm cực Tây ở kinh độ 102°10’Đ thuộc xã
Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên; điểm cực Đông nằm trên bán
đảo Hòn Gốm ở kinh độ 109°24’Đ thuộc xã Vạn Hạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa. Ngoài ra, nước ta còn có vùng biển rộng nằm trên Biển Đông với
trên 3000 đảo lớn, nhỏ nằm ở gần bờ và xa bờ. Vì thế, hệ tọa độ địa lý của
Việt Nam còn kéo dài tới khoảng vĩ độ hơn 6°50’B và từ khoảng kinh độ
101°Đ đến hơn 117°20’Đ trên Biển Đông.
- 16 -
Với hệ tọa độ địa lý trên, Việt Nam nằm hoàn toàn trong vành đai nóng
nội chí tuyến ở nửa cầu Bắc và gần sát với chí tuyến Bắc nên có sắc thái
chung của tự nhiên vùng nhiệt đới.
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, là một trong ba hệ
thống của khu vực châu Á gió mùa điển hình, với hai mùa rõ rệt, mùa đông là
thời kỳ hoạt động của gió mùa Đông Bắc, mùa hạ là thời kỳ hoạt động của gió
mùa Tây Nam, tạo nên đặc điểm gió mùa của khí hậu Việt Nam và sắc thái
nhiệt đới ẩm.
Việt Nam nằm ở vị trí tiếp giáp nối liền lục địa với đại dương, có quan
hệ với vành đai sinh khoáng và núi lửa Thái Bình Dương nên có tài nguyên
khoáng sản phong phú và đa dạng, đồng thời cũng xảy ra các hoạt động núi
lửa, động đất.
Do nằm ở khu vực biển nhiệt đới Tây Thái Bình Dương, một trong
những trung tâm phát sinh bão lớn trên thế giới, nên hàng năm Việt Nam phải
đối phó với hàng chục cơn bão, trong đó có nhiều cơn bão có sức tàn phá rất
lớn, gây thiệt hại nặng nề trên diện rộng.
1.1.2. Địa hình
Đặc điểm chung của địa hình Việt Nam là có cấu trúc theo hướng Tây
Bắc – Đông Nam, hướng vòng cung là chủ yếu và thấp dần ra biển.
Đặc điểm cấu trúc địa chất – kiến tạo trong lịch sử hình thành và phát
triển của tự nhiên đã khiến cho Việt Nam có nhiều đồi núi và có hướng cấu
trúc chủ yếu theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đây cũng là hướng chính của
các thung lũng và các đứt gãy như đứt gãy sông Hồng, sông Đà, sông Mã,
sông Cả ở miền Bắc, rãnh Nam Bộ ở miền Nam.
Ngoài hướng cấu trúc chính Tây Bắc – Đông Nam, địa hình Việt Nam
còn có một hướng cấu trúc nữa rất độc đáo là hướng vòng cung. Hướng vòng
- 17 -
cung thể hiện rõ nét nhất và trở thành một đặc điểm nổi bật của vùng núi phía
đông Bắc Bộ, đó là các dãy núi Tam Đảo như hình nan quạt.
Chính các dãy núi cánh cung có hướng Bắc – Nam và Đông Bắc – Tây
Nam này đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho gió mùa Đông Bắc xâm nhập
nhanh chóng vào đồng bằng Bắc Bộ, làm cho vùng Đông Bắc Bắc Bộ chịu
ảnh hưởng sâu sắc nhất của gió mùa Đông Bắc và trở thành vùng có khí hậu
lạnh nhất Việt Nam về mùa đông.
Địa hình Việt Nam có xu thế thấp dần ra biển theo hướng cấu trúc của
địa hình và theo các dòng chảy. Hầu hết các sông ngòi trên lãnh thổ Việt Nam
đều trực tiếp đổ ra Biển Đông. Địa hình thấp dần ra biển đã tạo điều kiện
thuận lợi cho ảnh hưởng của biển thâm nhập vào sâu trong đất liền, trước hết
là các luồng gió thổi từ biển vào, gió đất – biển và sự xâm nhập của thủy
triều, tạo nên vùng nước lợ, nhiễm mặn và ngập mặn ở vùng ven biển.
Phần lớn địa hình Việt Nam là đồi núi, tuy vậy tính chất phân bậc của
địa hình thể hiện khá rõ rệt ở miền núi với nhiều bậc địa hình mà hiện tại là
các đỉnh núi, các sơn nguyên tại mỗi bậc có độ cao xấp xỉ như nhau. Các kiểu
địa hình chính ở Việt Nam là: địa hình núi, địa hình cao nguyên, địa hình đồi,
địa hình đồng bằng và một số kiểu địa hình đặc biệt là cacxtơ, địa hình bờ
biển.
Địa hình Việt Nam rất tiêu biểu cho địa hình của vùng nhiệt đới ẩm, đó
là hiện tượng địa hình bị xâm thực, xói mòn mạnh mẽ do dòng chảy gây lên
khiến cho lượng phù sa trên các sông suối tăng lên rất nhanh, nhất là vào thời
kỳ mùa mưa. Do đó, những trận lũ ống, lũ quét có sức tàn phá rất lớn thực sự
là các tai họa đối với các vùng núi. Ngoài ra còn phải kể đến hiện tượng đất
trượt, sụt lở đất đá, làm biến đổi nhanh chóng bề mặt địa hình.
1.1.3. Khí hậu
Khí hậu là một trong những nhân tố quyết định bộ mặt của cảnh quan
- 18 -
tự nhiên Việt Nam. Cùng với địa hình, khí hậu có tác động đến sự hình thành
lớp phủ thổ nhưỡng, thực vật, động vật và chế độ thủy văn, hải văn.
Đặc điểm chung của khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa,
có sự phân hóa đa dạng, có diễn biến bất thường.
Khí hậu Việt Nam mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. Tính chất
nhiệt đới của khí hậu thể hiện rõ nét qua yếu tố bức xạ. Lượng bức xạ tổng
cộng trung bình năm từ 110 - 130kcal/cm² ở Việt Nam là rất lớn. Nhiệt độ
trung bình hằng năm ở hầu hết các vùng trong cả nước là 22 - 25°C, ở Hà Nội
là 23,5°C, thành phố Hồ Chí Minh tới 27,1°C.
Tính chất gió mùa là sự biến thiên theo mùa của khí hậu Việt Nam, mà
nguyên nhân hình thành chính là do sự luân phiên hoạt động của gió mùa
Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Trên lãnh thổ Việt Nam, nơi nào cũng có hai
mùa, mùa mưa và mùa khô xen kẽ với các mức độ khác nhau, kể cả sự lệch
pha của mùa mưa và mùa khô của một số địa phương so với cả nước.
Khí hậu Việt Nam có sự phân hóa đa dạng. Trên nền tảng nhiệt đới ẩm
gió mùa, sự diễn biến của khí hậu Việt Nam rất phong phú với sự phân hóa
không gian đa dạng mà nguyên nhân chính là do đặc điểm của bề mặt đệm.
Khí hậu Việt Nam có sự phân hóa từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây và từ
thấp lên cao do lãnh thổ trải dài trên nhiều vĩ độ, kết hợp với tác động của chế
độ gió mùa sự phân hóa này được thể hiện rất rõ nét trong chế độ mưa.
Việt Nam có lượng mưa trung bình hằng năm khá lớn. Lượng mưa
trung bình năm ở đồng bằng là trên 1500 mm, ở các khu vực núi cao tới 2000
– 3000 mm. Tuy nhiên, ở những nơi có địa hình khuất gió, lượng mưa chỉ trên
dưới 700 mm. Những nơi mưa nhiều nhất là các vùng núi cao có địa hình
chắn gió. Ở miền Bắc là vùng núi thượng nguồn sông Chảy (Bắc Quang 4802
mm), vùng núi Hoàng Liên Sơn (SaPa 2833 mm). Ở Trung Bộ, trên các đỉnh
núi cao của dãy Trường Sơn, lượng mưa còn lớn hơn (Hòn Ba 3751 mm).
- 19 -
Những nơi có lượng mưa trung bình là đồng bằng Bắc Bộ và dải đồng bằng
miền Trung từ Quảng Ngãi đến Phú Yên (Hà Nội 1676 mm, Quy Nhơn 1692
mm). Những nơi mưa ít nhất là đồng bằng cực Nam Trung Bộ (Phan Rang
653 mm, Mũi Dinh 757 mm) và các thung lũng ở miền núi như Mường Xén
(Nghệ An) lượng mưa hằng năm chỉ có 643 mm. Việt Nam là nước có số
ngày mưa trung bình hằng năm khá lớn, từ 100 - 150 ngày.
Nét nổi bật trong chế độ mưa là mưa theo mùa. Mùa khô ít mưa, có
tháng không có mưa. Còn mùa mưa thì lượng mưa chiếm tới 80 - 85% lượng
mưa cả năm và tháng mưa ít nhất cũng phải từ 100 mm trở lên, tháng mưa
nhiều nhất có thể 300 - 600 mm. Và mùa mưa ở Việt Nam diễn ra tại các khu
vực có sự khác nhau.
Khí hậu Việt Nam có diễn biến rất thất thường. Nguyên nhân chủ yếu
của tính chất này là do ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ gió mùa. Tùy thuộc
vào diễn biến từng năm của gió mùa Đông Bắc hay gió mùa Tây Nam mà khí
hậu Việt Nam có những biến động khá phức tạp. Tính chất thất thường thể
hiện trước hết qua diễn biến và đặc trưng của mùa khí hậu. Có năm gió mùa
Đông Bắc hoạt động mạnh, đem đến một mùa đông rét và kéo dài, song có
năm gió mùa Đông Bắc hoạt động yếu, gây nên thời tiết nóng đến sớm bất
thường. Gió mùa Tây Nam cũng có năm gây mưa nhiều và lũ lớn, có năm lại
hoạt động yếu thậm chí gây ra cả hạn hán trong mùa hạ.
Sự biến động trong chế độ mưa luôn xảy ra trên phạm vi toàn lãnh thổ,
có những biểu hiện rõ nét và gây nhiều tác hại lớn hơn. Sự bất thường này thể
hiện ở sự biến động của lượng mưa hàng năm, lượng mưa từng mùa và lượng
mưa trong từng tháng. Sự biến động lượng mưa hằng năm thường được biểu
thị bằng tỉ số lượng mưa của năm mưa nhiều nhất với lượng mưa của năm
mưa ít nhất. Do tính chất thất thường của chế độ mưa mà việc chống hạn,
- 20 -
chống úng ngập thường xuyên phải đặt ra ở mọi nơi và việc tưới tiêu phải
được đưa lên thành các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp hàng đầu.
Sự diễn biến thất thường của khí hậu Việt Nam còn được biểu hiện rõ
rệt trong hoạt động của bão. Bão ở Việt Nam thường được phát sinh từ khu
vực Biển Đông (chiếm 40% tổng số cơn bão) và vùng biển phía tây Thái Bình
Dương (chiếm 60% tổng số cơn bão). Đây cũng là một trong những trung tâm
lớn phát sinh và hoạt động mạnh của bão trên thế giới. Các cơn bão nhiệt đới
được hình thành trên vùng biển nóng, có độ ẩm cao và tình trạng rất bất ổn
định của khí quyển, nên thường xảy ra vào thời kỳ mùa hạ và đã trở thành quy
luật mùa.
Mùa bão ở Việt Nam thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 12 và xuất
hiện sớm ở khu vực phía Bắc, chậm dần đối với khu vực phía Nam. Bão ở
Việt Nam có phạm vi ảnh hưởng khá rộng. Mỗi khi có bão thường gây ảnh
hưởng tới nhiều địa phương. Khi bão đổ bộ vào đất liền, tốc độ gió đã giảm đi
rõ rệt và ảnh hưởng trong phạm vi 50 – 100 km rồi tan. Bão có sức tàn phá
mạnh và gây mưa to nên hay gây ra những thiệt hại lớn, đặc biệt trong mùa
mưa lũ. Thông thường, mưa do bão có thể chiếm 30 – 45% lượng mưa của
mùa mưa. Vì thế, những năm không có bão hoặc ít bão, lượng mưa cả năm
giảm đi rõ rệt.
1.1.4. Thủy văn
Sông ngòi Việt Nam có mạng lưới dày đặc, nguồn nước phong phú,
nhiều phù sa. Nhờ có nguồn cung cấp nước dồi dào nên Việt Nam có tới 2360
sông lớn nhỏ, có chiều dài từ 10 km trở lên. Sông suối đã tạo nên một mạng
lưới dày đặc trên khắp mọi miền đất nước, với mật độ trung bình khoảng
0,66km/1km² diện tích lãnh thổ. Nơi có mật độ mạng lưới sông thấp là các
vùng núi đá (chủ yếu ở miền Bắc) và vùng có khí hậu khô cạn (ở cực Nam
Trung Bộ), nơi có mật độ sông suối lớn, trên 1,5 km/km² là ở các khu vực
- 21 -
miền núi cao có sườn đón gió. Các vùng đồng bằng châu thổ có mật độ mạng
lưới sông đạt giá trị cao nhất, do ngoài sông suối tự nhiên, nơi đây còn có hệ
thống mương máng, kênh rạch chằng chịt.
Đại bộ phận sông ngòi Việt Nam chảy theo hướng Tây Bắc – Đông
Nam và tất cả các sông đều đổ ra Biển Đông, tiêu biểu là các sông Chảy, sông
Hồng, sông Đà, sông Thái Bình, sông Mã, sông Cả, sông Gianh, sông Đà
Rằng, sông Tiền, sông Hậu. Điều đáng chú ý là trên một số hệ thống sông lớn
ở Việt Nam, mạng lưới sông có dạng nan quạt nên có khả năng tập trung nước
rất nhanh. Vào mùa mưa lũ, khi có mưa lớn trên một diện rộng, nước sông
dâng lên nhanh chóng nên rất dễ gây ra lũ lụt.
Do ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa nên sông ngòi Việt
Nam có chế độ nước đơn giản, trong năm chỉ có một mùa lũ và một mùa cạn.
Tuy nhiên, các sông ngòi ở miền Trung lại có thêm một đỉnh lũ tiểu mãn, chủ
yếu xảy ra vào các tháng 5, 6 do các trận mưa dông nhiệt đầu mùa hạ mang lại
trong khi ở đây vẫn còn đang là các tháng mùa khô. Như vậy, lũ tiểu mãn
cùng với chế độ mưa khác biệt với miền Bắc và miền Nam đã tạo ra một kiểu
thủy chế riêng cho khu vực này.
Mùa lũ của sông ngòi kéo dài từ 3 - 6 tháng, trung bình là 4 - 5 tháng.
Trung bình lượng nước trong mùa lũ chiếm tới 70 - 80% tổng lượng nước cả
năm.
Mùa cạn trên các triền sông ở Việt Nam thường kéo dài hơn mùa lũ.
Thời kỳ mùa cạn kéo dài trung bình là 7 - 8 tháng, với lượng nước nhỏ, chỉ
chiếm từ 20 - 30% tổng lượng nước cả năm.
Chế độ nước của sông ngòi Việt Nam thường hay có những biến động
thất thường, lệ thuộc vào diễn biến bất thường của thời tiết. Có những năm ở
một số nơi đã có xuất hiện lũ cao trong thời kỳ mùa cạn do có lượng mưa khá
lớn. Ở những vùng hạ lưu và cửa sông những năm có lượng nước cạn kiệt, sẽ
- 22 -
tạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- v_l2_01820_7201_2003111.pdf