Tóm tắt Luận văn Từ ngữ biểu thị văn hóa gia đình trong ca dao

CHƯƠNG 2

ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA TỪ NGỮ BIỂU THỊ VĂN HÓA

GIA ĐÌNH TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT

2.1. TẦN SỐ VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TỪ BIỂU THỊ

VĂN HÓA GIA ĐÌNH

2.1.1. Từ biểu thị văn hóa gia đình là từ đơn

Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 3 loại từ đơn biểu thị

văn hóa gia đình, đó là từ xưng gọi, động từ biểu thị hoạt động, trạng

thái, cách ứng xử, giao tiếp giữa các mối quan hệ trong gia đình, tính

từ biểu thị phẩm chất, cách thức, mức độ ứng xử giữa các thành viên

trong gia đình. Khi các từ biểu thị văn hóa gia đình là từ đơn thì đặc

trưng, tính chất, cách ứng xử của các mối quan hệ gia đình được nói

đến trong ca dao thường mang ý nghĩa khái quát hơn. Cụ thể như :

+ Cách ứng xử của cha mẹ đối với con cái : Ẵm, bồng, bế, ấp,

ru, bảo, dặn, đẻ, sinh, sanh, khuyên, nhủ, thương, chiều, dưỡng, sắm,

gả, cậy. Trong đó từ “ẵm” 23 lần, “bồng” 10 lần, “ru” 10 lần, “sinh”

10 lần, “thương” 10 lần, các từ còn lại xuất hiện từ 1-5 lần.

+ Cách ứng xử của con cái đối với cha mẹ : Đền, giỗ, dâng,

dắt, dìu, hầu, lo, kính, mong, nhớ, nuôi, nghĩ, thăm, thờ, thương,

viếng. Trong đó từ “nuôi” 60 lần, “thương” 15 lần, các từ còn lại xuất

hiện từ 1- 6 lần.

pdf26 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 434 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Từ ngữ biểu thị văn hóa gia đình trong ca dao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chú”, chị của cha còn được gọi là “bác gái”, miền Trung gọi là “cô hoặc o”. Em gái, chị gái của cha là “cô hay o”. Vợ của bác (anh của cha hay mẹ) gọi là “bác gái”, miền Trung gọi là mự hoặc mợ. Vợ của chú gọi là “thím”, và chồng của cô hay dì gọi là “chú” hay “chú dượng” hay “dượng”, chồng của bác gái gọi là bác hay bác dượng. Anh trai của ông bà nội là “ông bác” (bác của cha hay mẹ mình), em trai của ông nội là “ông chú” (chú của cha hay mẹ mình), chị của ông bà nội gọi là “bà bác”, em gái của ông nội mình gọi là “bà cô” (cô của cha mẹ mình), anh em trai của bà nội gọi là “ông chú” và anh trai gọi là “ông bác”, em gái và chị gái của bà nội đều 5 gọi là “bà cô”. Tuy nhiên, trong lối xưng hô hàng ngày, người ta thường gọi giản tiện là “ông hay bà (mệ)”. Xưng hô với cha mẹ gồm có “ bố mẹ, cha mẹ, ba má, ba me, cậu mợ, thầy me, thầy bu, thân sinh, song thân, các cụ chúng tôi, ông bà nội các cháu, và ông bà ngoại các cháu, v.v”. Tiếng xưng hô với mẹ gồm có: má, mạ, mẹ, me, mệ, mế, mợ, bu, u, vú, bầm, và đẻ, v.v. Tiếng xưng hô với cha gồm có “ bọ, bố, ba, thầy, cha, cậu, tía, v.v”. “Cậu - mợ” thường là cách gọi tránh cho những người con khó nuôi, gửi chùa hoặc cách gọi của con nuôi, con ở đối với bố mẹ nuôi, ông bà chủ. Tiếng gọi cha mẹ chồng gồm “cha mẹ chồng, cha chồng, mẹ chồng, các cụ thân sinh của nhà tôi, ông bà nội của các cháu” và những từ giống như phần dành cho cha mẹ mình. Người chồng sau của mẹ mình gọi là “cha ghẻ, kế phụ, cha, cậu, hay dượng”. Người vợ sau của cha mình gọi là” dì, mẹ kế, hay kế mẫu”. Các tiếng xưng hô về chị em còn gồm có : Anh em ruột gồm anh em, trong đó có cả trai lẫn gái: “anh trai, em trai, em gái”. Chị em toàn là gái thì có chị gái và em gái gọi chung là “chị (ả) em”. Em có “em kế, em út” cho cả em trai và em gái. Chị em ruột gồm “chị em cùng cha mẹ trong đó có em trai”. “Chị gái hay chị ruột” cùng cha mẹ. “Chị họ” là chị cùng họ với mình. “Chị em chú bác, chị em con chú con bác, chị em thúc bá”: các con gái và con trai của em trai và anh bố mình đều gọi theo thứ bậc như anh chị em nhà mình. Anh em con chú con bác hay anh em thúc bá thì người con trai là của bác gọi là “anh”, con trai của chú gọi là “em” còn người con gái của bác và chú đều gọi là “em”. “Chị em bạn dâu”: chị em cùng làm dâu trong một nhà. “Chị dâu” là vợ của anh mình còn “em dâu” là vợ của em mình. Anh của chồng gọi là “anh hay bác”, còn khi nói chuyện với người khác thì dùng “ông anh nhà tôi, anh của nhà tôi, hay anh chồng 6 tôi”. Chị của chồng gọi là “chị hay bác”, còn khi nói chuyện thì dùng “chị chồng, bà chị của nhà tôi,v.v”. Em trai của chồng gọi là “em hay chú”. Em gái của chồng là “em, cô, hay dì”. Xưng hô giữa vợ chồng: Vợ chồng trẻ, trong những năm đầu, chuyện trò với nhau phần lớn dùng cặp chữ “anh/em” để xưng hô. Chồng xưng anh, gọi vợ là em. Ngược lại, vợ xưng em gọi chồng là anh. Tuổi tác không can dự được vào lời xưng hô này. Dù tuổi có nhỏ hơn, chồng cũng xưng ở vai trên, anh. Dù lớn tuổi hơn, vợ vẫn xưng ở vai dưới, em Đến lúc hết thời kỳ vợ chồng son, khi hai người có con để nựng nịu, đôi vợ chồng có cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc, họ có thể xưng hô ngọt lịm, hơn cả thời kỳ dùng cặp chữ anh/em. Họ vẫn xưng anh, em, nhưng gọi nhau bằng “mình” rất tự nhiên, rất bình thường, trước cả bàn dân thiên hạ. Nhưng trong những lúc cơm chẳng lành canh không ngọt, vợ chồng đổi giọng, không còn xưng hô anh, em nữa, mà lạnh nhạt xưng tôi. Chồng xa cách gọi vợ là cô (tiếng cô này nghe nhẹ thể hơn tiếng “cô” lần đầu gặp gỡ rất nhiều). Còn vợ xa lạ gọi chồng là ông. Cả vợ cũng xưng tao và gọi chồng là mày. Vợ chồng khi bước vào tuổi đời gọi là “sồn sồn” lại thay đổi cách xưng hô. Có người gọi vợ là “má nó”, “má mày”, “mẹ nó”, “bu nó”, “má con Phượng”, “mẹ thằng Tèo”Người ta có dùng “nhà em, nhà anh, nhà cháu, nhà con... để xưng gọi chồng mình, vợ mình” (ngôi thứ ba) đối với người trực tiếp nói chuyện (ngôi thứ nhì). Người ta nói “nhà cháu” có nghĩa là “vợ cháu = vợ của cháu”. Xưng hô với con cháu: Con trai đầu lòng của mình gọi là “con trai trưởng” hay “con trai trưởng nam” (có người gọi một cách thân mật là cậu trưởng tôi, thằng trưởng nam nhà tôi). Vợ của con trai là 7 “con dâu”. Vợ con trai trưởng nam là “con dâu trưởng”. Con gái đầu lòng gọi là “trưởng nữ”. Tất cả các con trai kế tiếp được gọi là “thứ nam”. Người con được sinh ra trước tiên còn được gọi là “con cả” hay “con đầu lòng”. Con trai hay con gái cuối cùng của gia đình gọi là “con út, út nam, hay út nữ”. Nếu vợ chồng chỉ có một con, trai hoặc gái, thì người con đó được gọi là “con một hay quý nam, quý nữ”. Con của vợ hay của chồng có trước hay sau khi lấy nhau gọi là “con ghẻ hay con riêng”. Đứa con mới đẻ ra gọi là “con đỏ”. Con còn nhỏ gọi là “con mọn”. Khi người đàn ông già rồi mới có con, người ta gọi cảnh đó là cảnh cha già con mọn. Con của con trai mình gọi là “cháu nội” (cháu nội trai, cháu nội gái); con trai đầu lòng của con trai trưởng nam là “cháu đích tôn, đích tôn thừa tự, hay đích tôn thừa trọng”, tức là cháu trưởng nối nghiệp lớn của ông bà và giữ việc thờ cúng tổ tiên sau này. Ngoài việc xưng theo danh từ thân tộc theo mối quan hệ gia đình, gia đình người Việt còn xưng theo tên gọi.[33] a2. Xưng hô bên ngoại Con của con gái chúng ta gọi chúng ta là “ông bà ngoại, ông ngoại, bà ngoại, hay gọi tắt là ngoại”. Anh của mẹ gọi là “bác hay cậu”, em trai của mẹ là “cậu”, chị của mẹ là “già hay bác gái”, và em gái của mẹ là “dì”. Anh em trai của ông bà ngoại mình đều gọi là “ông”, chồng của bà dì cũng gọi là “ông”. Các chị em của bà ngoại đều gọi là “bà”. Tiếng gọi cha mẹ vợ gồm có “ông bà nhạc, ông nhạc, bà nhạc, cha mẹ vợ, cha vợ, và mẹ vợ, v.v”. Tiếng gọi cha vợ khi nói chuyện với bạn gồm có “ nhạc phụ, nhạc gia, bố vợ, ông nhạc, cha vợ, ông ngoại các cháu, và trượng nhân, v.v”. Tiếng gọi mẹ vợ khi nói chuyện với bạn bè gồm có “mẹ vợ, má vợ, bà nhạc, bà ngoại các cháu, nhạc mẫu, v.v”. 8 Xưng hô với anh chị em: Anh của vợ gọi là “anh hay bác”, còn khi nói chuyện với người khác thì dùng “anh của nhà tôi, anh vợ tôi”. Chị của vợ gọi là “chị hay bác”, còn khi nói chuyện thì dùng “chị vợ, bà chị của nhà tôi, v.v”. Em trai của vợ gọi là “em hay chú”. Em gái của vợ gọi là “em, hay dì”. Các từ bác, hay dì trong các trường hợp xưng hô với anh chị là cách chúng ta gọi thế cho con mình và có nghĩa là anh, chị, em của mình. Anh em bạn rể hay anh em cột chèo để chỉ các ông chồng của chị vợ hay em vợ. Anh rể là chồng của chị mình và em rể là chồng của em mình. Nhưng để cho thân thiết, phần nhiều đều bậc anh được gọi là anh chị và bậc em được gọi là cô chú. Xưng hô với con cháu: Con của con gái mình gọi là “cháu ngoại” (cháu ngoại trai, cháu ngoại gái) nhưng gọi chung là cháu.[33] b. Từ ngữ biểu thị tình cảm gia đình b1. Từ ngữ biểu thị tình cảm giữa anh chị em trong nhà Căn bản của tình anh em là cùng chung máu huyết của cha mẹ, như tay với chân nên anh em trong gia đình phải biết: nhường nhịn, đùm bọc, yêu thương, chỉ bảo, lo lắng, quan tâm, chăm sóc, quý mến, giúp đỡ, bảo ban. Anh chị lớn thì phải biết ẵm, bồng, bế, ru, âu yếm, bảo ban, chăm sóc em nhỏ. Các em thì phải biết vâng lời, ngoan ngoãn, phụ giúp anh chị, cha mẹ b2. Từ ngữ biểu thị tình cảm của con cái, dâu rể đối với ông bà, cha mẹ Người Việt thường lấy chữ hiếu làm trọng. Chữ hiếu thể hiện bằng từ ngữ bao gồm: kính trọng, biết ơn, ghi nhớ công ơn cha mẹ, kính thương, kính mến, vâng lời, lễ phép, ngoan ngoãn, phụ giúp, đỡ đần, gánh vác việc nhà.Anh chị em trong nhà sống thuận hòa, đoàn kết, gắn bó keo sơn, kính trên nhường dưới, không ganh tỵ, so đo, tính toán, nạnh khóe nhau. 9 Dâu rể phải coi ba mẹ chồng/vợ như ba mẹ mình, phải biết quý trọng, kính cẩn, đi thưa về trình, phụng dưỡng, lễ phép, chu toàn, quán xuyến công việc gia đình hai bên. b3. Tình cảm của ông bà, cha mẹ đối với con cháu, dâu rể Ông bà, cha mẹ luôn là tấm gương đối với con cháu, dâu rể trong gia đình vì thế cho nên “những bậc bề trên” luôn phải gương mẫu, nghiêm nghị, ân cần, quan tâm, chăm sóc, dạy bảo, khuyên răn, nuôi nấng, chở che, yêu thương đúng mực, dạy dỗ đúng cách.. 1.2.2. Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ văn hóa gia đình trong văn hóa Việt Từ lâu đời, người Việt mình có truyền thống về lễ phép và lịch sự trong cách xưng hô. Các con cháu có lễ phép và có giáo dục thường biết đi thưa về trình chứ không phải muốn đi thì đi muốn về thì về. Khi nói chuyện với bố mẹ và ông bà, con cháu thường dùng cách thưa gửi và gọi dạ bảo vâng chứ không bao giờ nói trống không với người trên. Người Việt chúng ta thường dùng tiếng thưa trước khi xưng hô với người ở vai trên của ta. Khi trả lời bố mẹ hay ông bà, con cháu thường dùng chữ “ Dạ, ạ, vâng ạ, vâng”. Người ta dùng chữ “ạ” ở cuối câu để tỏ vẻ kính trọng và lễ phép. 1.3. KHÁI NIỆM VĂN HÓA GIA ĐÌNH 1.3.1. Khái niệm văn hóa Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể và phi vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Văn hóa xét cho cùng là hệ quả của việc từng cộng đồng thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội quanh mình để tồn tại. Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được 10 truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hoạt động của con người. 1.3.2. Khái niệm gia đình Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình là không gian mà trong đó những người có quan hệ mật thiết cùng chung sống. Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Thực tế, gia đình có những ảnh hưởng và những tác động mạnh mẽ đến xã hội 1.3.3. Khái niệm văn hóa gia đình Nội hàm của khái niệm văn hóa gia đình từ cấu trúc cho tới cách thức phân loại cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Sự khác biệt này vốn xuất phát từ sự đa dạng trong cách hiểu về văn hóa. Tuy thế, dù phân chia cấu trúc theo kiểu nào thì văn hóa gia đình luôn được hình dung như một tổng thể các hoạt động sống của một gia đình cũng như các sản phẩm vật chất, tinh thần mà các thành viên của nó đã tạo lập trong các hoạt động ấy. 1.4. CA DAO - LOẠI HÌNH THƠ CA DÂN GIAN ĐẶC SẮC CỦA NGƯỜI VIỆT 1.4.1. Khái niệm ca dao Ca dao được xem là loại thơ trữ tình dân gian có sức truyền cảm rất lớn. Cho đến nay, sức sống trường tồn của những câu ca dao vẫn mạnh mẽ hơn bao giờ hết, chúng đã thể hiện vai trò không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt. 11 1.4.2. Đặc trưng ngôn ngữ ca dao Ngôn ngữ ca dao với đặc trưng tính chất của thể loại thơ ca dân gian, mang âm sắc của giai điệu lời nói tiếng Việt, với hình thức kết cấu đối đáp, ngôn ngữ diễn tả thời gian, không gian nghệ thuật mang tính gợi hứng và lối sử dụng đại từ nhân xưng đầy biểu cảm là những yếu tố cơ bản tạo nên giá trị thẩm mĩ cho những lời hát dân ca. Chính hình thức tồn tại ấy là điều kiện để ca dao dễ thấm đượm, thơm lâu trong mỗi con người. 1.4.3. Thế giới biểu tượng trong ca dao Biểu tượng trong ca dao xuất hiện với tần số khá cao, đã phản ánh được một số đặc trưng quan trọng của ca dao về thi pháp cũng như về nội dung. Những biểu tượng rồng, phượng, loan, trúc, mai, thắt đáy lưng ong, hoa nguyệt, con cò, trầu cau... đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nên cấu tứ mẫu mực của rất nhiều bài ca dao, là nguồn thi liệu quen thuộc, phong phú của người Việt xưa. Tiểu kết: Như vậy trong chương 1 chúng tôi đã xác lập được toàn bộ những vấn đề lý thuyết mang tính chất cơ sở và khái quát nhất có liên quan trực tiếp tới đề tài, đặc biệt là cho sự triển khai vững chắc ở trong các chương sau (tiếp cận định lượng và tiếp cận văn hóa). Những vấn đề phức tạp và chưa thống nhất về cụm từ, ngữ trong giới nghiên cứu ngôn ngữ đã được trình bày và chúng tôi theo quan điểm cụm từ và ngữ có những điểm khác nhau. Từ những cơ sở lý thuyết ở chương này, chúng tôi áp dụng vào phân tích cấu tạo và giá trị biểu đạt của từ ngữ biểu thị văn hóa gia đình trong ca dao người Việt. 12 CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA TỪ NGỮ BIỂU THỊ VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT 2.1. TẦN SỐ VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA TỪ BIỂU THỊ VĂN HÓA GIA ĐÌNH 2.1.1. Từ biểu thị văn hóa gia đình là từ đơn Qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 3 loại từ đơn biểu thị văn hóa gia đình, đó là từ xưng gọi, động từ biểu thị hoạt động, trạng thái, cách ứng xử, giao tiếp giữa các mối quan hệ trong gia đình, tính từ biểu thị phẩm chất, cách thức, mức độ ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. Khi các từ biểu thị văn hóa gia đình là từ đơn thì đặc trưng, tính chất, cách ứng xử của các mối quan hệ gia đình được nói đến trong ca dao thường mang ý nghĩa khái quát hơn. Cụ thể như : + Cách ứng xử của cha mẹ đối với con cái : Ẵm, bồng, bế, ấp, ru, bảo, dặn, đẻ, sinh, sanh, khuyên, nhủ, thương, chiều, dưỡng, sắm, gả, cậy. Trong đó từ “ẵm” 23 lần, “bồng” 10 lần, “ru” 10 lần, “sinh” 10 lần, “thương” 10 lần, các từ còn lại xuất hiện từ 1-5 lần. + Cách ứng xử của con cái đối với cha mẹ : Đền, giỗ, dâng, dắt, dìu, hầu, lo, kính, mong, nhớ, nuôi, nghĩ, thăm, thờ, thương, viếng. Trong đó từ “nuôi” 60 lần, “thương” 15 lần, các từ còn lại xuất hiện từ 1- 6 lần. Ngoài ra, qua khảo sát những tính từ thuộc loại từ đơn biểu thị văn hóa gia đình, chúng tôi thấy được sự hài hòa và không hài hòa trong mối quan hệ ứng xử vợ chồng cũng như tiêu chuẩn chọn đối tượng bạn đời của mỗi bên có sự khác nhau rõ rệt. 13 HÀI HÒA KHÔNG HÀI HÒA CHỒNG VỢ CHỒNG VỢ Đẹp Đẹp Bé Lớn Đẹp Xinh (4) Thấp Cao Khôn (6 lần) Ngoan (2 lần) Già Trẻ Cần Kiệm Trẻ Già Đẹp Giòn Sang (4 lần) Hèn Hòa Thuận Dại Khôn (3 lần) Còng Còng Mau Thưa Hen Hen Khôn Dại Lành (2 lần) Hiền (3 lần) Giàu (9 lần) 2.1.2. Từ biểu thị văn hóa gia đình là từ phức Từ phức biểu thị văn hóa gia đình đa phần là từ ghép. Từ ghép chia thành 2 loại: ghép chính phụ và ghép đẳng lập. Từ ghép chính phụ biểu thị văn hóa gia đình chủ yếu là mở rộng, làm rõ các mối quan hệ, liên kết, ứng xử trong gia đình. Ta có bảng từ ghép biểu thị các mối quan hệ ứng xử trong gia đình như sau Nội dung biểu thị Từ ghép biểu thị Vai vế giữa anh em trong gia đình Anh cả, anh Hai, anh Ba, anh Tư, em út Nói về vai con Con tôi, con anh, con mẹ, con chàng, con thiếp, con dâu, con rể, con chồng Nói về vai dâu Dâu cả, dâu ba, dâu tư, dâu cũ, dâu mới Nói về gia đình Gia thất, gia đường, gia cảnh, gia đình; Nói về mẹ Mẹ già, mẹ tôi, mẹ anh, mẹ em, mẹ chồng, mẹ ruột, mẹ nàng, mẹ ta 14 Nói về nhà ở Nhà tôi, nhà anh, nhà má, nhà vợ, nhà chồng, nhà tre, nhà gỗ, nhà tranh, nhà ngói Nói về công ơn cha mẹ Công cha, nghĩa mẹ Nói về vợ Vợ bé, vợ anh, vợ cả, vợ hai, vợ ba, vợ tư, vợ lẽ, vợ người, vợ lính Nói về chồng Chồng em, chồng ta, chồng tôi, chồng mình, chồng người, chồng một, chồng chung Bên cạnh đó, một số từ láy biểu thị văn hóa gia đình được sử dụng trong ca dao cũng nhằm thể hiện trạng thái, tâm tư, tình cảm trong quan hệ gia đình, mà chủ yếu là tình cảm của vợ chồng với nhau, cụ thể như tâm trạng người vợ chờ chồng (nuôi nấng, đỡ đần, thổn thức, vò võ, lẻ loi, lạnh lùng, lai láng) hay thể hiện cuộc sống vợ chồng tuy vất vả nhưng lúc nào cũng vui vẻ, vui vầy vvv. 2.2. TẦN SỐ VÀ ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA NGỮ BIỂU THỊ VĂN HÓA GIA ĐÌNH 2.2.1. Tần số và đặc điểm cấu tạo của ngữ cố định biểu thị văn hóa gia đình Ngữ cố định biểu thị văn hóa gia đình được sử dụng khá nhiều, qua khảo sát, chúng tôi thống kê được 154 cụm từ cố định trên 1.145 đơn vị ca dao về đề tài này. Ngữ cố định chủ yếu là các thành ngữ được sử dụng để biểu thị các nội dung về mối quan hệ ứng xử vợ chồng, cha mẹ với con cái, hình ảnh người mẹ người vợ trong gia đình, tình cảm anh emTa có bảng thống kê về ngữ cố định biểu thị văn hóa gia đình trong ca dao như sau 15 Nội dung biểu thị Ngữ cố định biểu thị Hình ảnh vợ chồng cân xứng, đẹp đôi Đôi đà xứng đôi, Chồng xinh vợ đẹp, Chồng đẹp vợ giòn Vợ chồng không cân xứng Chồng già vợ trẻ, Chồng bé vợ lớn, Vợ già chồng trẻ, Vợ bé chồng lớn, Chồng thấp vợ cao, Được vợ hỏng chồng. Vợ chồng mà xa cách nhau Anh bắc em đông, Chàng nam thiếp bắc, Chồng bắc vợ nam, Chồng bắc vợ đông, Kẻ nam người bắc, Lạc vợ xa chồng, Phân chồng rẽ vợ, Xa chồng cách vợ Vợ chồng gắn bó yêu thương, thủy chung son sắt Chồng cày vợ cấy, Của chồng công vợ, Chồng hòa vợ thuận, Đạo vợ nghĩa chồng, Hôm ấp mai ôm, Đầu ấp má kề, Nghĩa nặng tình thâm, Phu xướng phụ tùy, Tình chồng nghĩa vợ, Chồng buôn vợ bán, Đầu bạc răng long, Chàng đâu thiếp đó, Đồng tâm son sắt, Thiếp đây chàng đấy, Đó vợ đây chồng, Chồng trước vợ sau, Non xanh nước bạc, Tình chàng nghĩa thiếp, Duyên kim nợ cải, Một vợ một chồng Vợ chồng bất hòa Cơm không lành canh không ngọt Vợ chồng nhớ nhung da diết Chỉ vấn tơ vương, Ruột tằm héo hon, Ruột bào gan thắt Hình ảnh phòng loan của đôi vợ chồng Giường loan gối quế, giường không chiếu lạnh, Chăn đơn gối chiếc, Gối loan màn phụng, Chăn gấm gối hoa 16 Ngữ cố định biểu thị văn hóa gia đình chủ yếu là thành ngữ. Thành ngữ là đơn vị định danh hình tượng. Mặt khác, tính chất đối của thành ngữ làm cho kết cấu của nó thêm vững chắc, làm cho nghĩa của nó thêm gợi cảm. Do đó, ca dao vận dụng thành ngữ để biểu thị văn hóa gia đình đã góp phần làm cho nội dung được chuyển tải thêm phần sâu sắc, gợi cảm, hấp dẫn hơn. Đó là sự biểu đạt bằng những hình ảnh biểu trưng, rất gần gũi, quen thuộc trong cuộc sống thường ngày. 2.2.2. Tần số và đặc điểm cấu tạo của ngữ tự do biểu thị văn hóa gia đình a. Ngữ biểu thị văn hóa gia đình là cụm chủ vị Với vai trò mở rộng câu, làm cho nội dung diễn đạt trong ca dao thêm phần phong phú, sinh động, sắc nét, các cụm chủ vị biểu thị văn hóa gia đình xuất hiện khá nhiều, qua thống kê có khoảng 56 đơn vị ca dao có mặt chúng. Nội dung biểu thị của các cụm chủ vị biểu thị văn hóa gia đình luôn đa sắc, có khi là diễn tả một sự việc đã xảy ra: Em có chồng rồi như lúa đổ vào kho Quân canh lính gác, anh đừng có lần dò tới chi Có khi là một lời khuyên, một đúc rút từ thực tế cuộc sống: Trai hiếu thảo lo chi ế vợ Gái chính chuyên nào sợ ế chồng Có khi là sự suy luận thú vị: Vợ dại thì đẻ con khôn Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm Và cả quy luật cuộc sống: Cha mẹ giàu thì con thong thả Cha mẹ nghèo /con cực đã gian nan 17 Tóm lại, ngữ biểu thị văn hóa gia đình là cụm chủ vị giúp cho câu ca thêm phần phong phú, cụ thể chi tiết, sâu sắc hơn, mang lại giá trị biểu cảm cao, góp phần làm cho các mối quan hệ, ứng xử trong gia đình thêm phần sắc nét, đậm đà. b. Ngữ biểu thị văn hóa gia đình là cụm đnng lp Cụm đẳng lập liệt kê sự việc, cho thấy tính liên tục, nối đuôi nhau của sự việc hiện tượng: Đến tối chị giữ mất chồng Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài Đêm đêm gọi những bớ Hai Trở dậy nấu cám, thái khoai, đâm bèo Hay cụm đẳng lập trên diễn đạt một nội dung có nguyên nhân lẫn hệ lụy: anh mê vợ bé → bỏ bè con thơ: Gió lùa bụi chuối sau hè Anh mê vợ bé, bỏ bè con thơ Cụm đẳng lập với vai trò là ngữ biểu thị văn hóa gia đình đã góp phần làm cho nội dung biểu đạt thêm phần cụ thể, chi tiết, làm cho những câu ca biểu thị văn hóa gia đình thêm phần ý nghĩa, sâu lắng. c. Ngữ biểu thị văn hóa gia đình là cụm chính hụ Cụm chính phụ được sử dụng nhiều nhất và hầu như luôn có mặt trong mỗi đơn vị ca dao về văn hóa gia đình chính là cụm động từ. Bởi lẽ, cụm động từ giúp cho các tác giả dân gian diễn đạt được hết ý trọn lời mà mình muốn gửi gắm qua ca dao. Theo thống kê, chúng tôi nhận thấy có nhiều đơn vị ca dao sử dụng cụm động từ có cấu trúc tương tự nhau. Cụm chính phụ với các thành tố phụ bổ nghĩa, cụ thể hóa nghĩa cho thành phần trung tâm gồm các cụm danh từ, động từ, tính từ được sử dụng là ngữ biểu thị văn hóa gia đình đã 18 góp phần làm cho các mối quan hệ ứng xử trong gia đình thêm phần cụ thể, đa dạng, sắc nét. 2.3. CHỨC NĂNG CHUYỂN NGHĨA TỪ VỰNG CỦA TỪ NGỮ BIỂU THỊ VĂN HÓA GIA ĐÌNH 2.3.1. Chuyển nghĩa từ vựng bằng phương thức từ loại Số lượng đơn vị câu ca biểu thị mối quan hệ ứng xử gia đình có sử dụng phương pháp chuyển loại tuy không nhiều nhưng nó đã góp phần làm cho nội dung câu ca thêm phần súc tích, cô đọng mà hàm chứa được nhiều ý nghĩa. Từ hoa nguyệt vốn là danh từ, khi nói Tính tôi hoa nguyệt thì nó mang chuyển loại là tính từ, hàm ý chỉ tính phóng khoáng, đa tình, không chính chuyên: Anh đánh thì tôi chịu đòn Tính tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa 2.3.2. Chuyển nghĩa từ vựng bằng phương thức tu từ Ca dao biểu thị văn hóa gia đình sử dụng rất phổ biến các phương thức chuyển loại tu từ trên nhằm làm phong phú, sinh động hơn nội dung ý nghĩa là các tác giả dân gian muốn gửi gắm. Cụ thể như bằng biện pháp hoán dụ, các tác giả dân gian đã mượn hình ảnh “Thân em” qua nhiều câu ca để phản ánh một cách sâu sắc thân phận, cuộc đời người phụ nữ trong gia đình, xã hội xưa: Thân em lấy lẽ chả hề Có như chính thất mà lê giữa đường Phương thức ẩn dụ phản ánh được tình cảm, tâm trạng của con người một cách tinh tế, sâu lắng: Tiếc thay hạt gạo trắng ngần Đã vo nước đục lại vần than rơm Các tác giả dân gian còn sử dụng khá phổ biến phương thức so sánh tu từ để làm cho ca dao biểu thị văn hóa gia đình thêm phần 19 giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm và qua đó tạo nên những biểu tượng hết sức phong phú và ý nghĩa. Tiểu kết: Như vậy trong chương 2, việc nghiên cứu, khảo sát, tổng hợp các từ, ngữ, phương thức chuyển nghĩa biểu thị văn hóa gia đình giúp ta nắm rõ hơn, hiểu kỹ hơn về cách thức sử dụng từ, ngữ cũng như các biện pháp tu từ khác trong việc miêu tả, diễn đạt, biểu thị các mối quan hệ ứng xử trong gia đình. Các tác giả dân gian đã sử dụng một cách khéo léo, tinh tế các hệ thống từ đơn, từ phức, ngữ cố định, ngữ tự do, phương thức chuyển nghĩa tu từ để chuyển tải nội dung về văn hóa gia đình vừa gần gũi, thân quen, vừa triết lý sâu rộng, vừa truyền thống xen lẫn hiện đại. 20 CHƯƠNG 3 ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ BIỂU THỊ VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT 3.1. BIỂU THỊ CHO MỐI QUAN HỆ ỨNG XỬ TRONG GIA ĐÌNH 3.1.1. Biểu thị cho quan hệ ứng xử giữa cha mẹ và con cái Số lượng đơn vị ca dao biểu thị cho mối quan hệ ứng xử giữa cha mẹ và con cái chiếm khá nhiều trong số 1.145 câu ca về quan hệ gia đình với 316 câu, chiếm 27,6% tổng số. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái được biểu thị với đặc trưng: Cha mẹ luôn là chỗ dựa cho con, luôn phải vất vả, tốn kém vì con. Tránh nhiệm chính của cha mẹ là nuôi nấng, dạy dỗ con thành người có ích cho xã hội. Còn đạo làm con cái phải biết lấy chữ hiếu làm trọng, phải biết hiếu thảo hiếu thuận, phụng dưỡng ông bà cha mẹ. 3.1.2. Biểu thị cho quan hệ ứng xử giữa vợ chồng Trong 1.145 đơn vị ca dao nói về đề tài gia đình thì có 570 đơn vị biểu thị mối quan hệ ứng xử giữa vợ chồng, chiếm số lượng nhiều nhất với 49,8 % tổng số. Đặc trưng của gia đình truyền thống của Việt Nam là vợ chồng chung thủy, gắn bó, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, nuôi dạy con cái nên người. Đối với đàn ông là vợ cái, con cột. Đối với người phụ nữ là hết lòng vì gia đình, vì chồng vì con. 3.1.3. Biểu thị cho quan hệ ứng xử giữa anh chị em Tuy số lượng ca dao nói về quan hệ ứng xử giữa anh chị em không nhiều nhưng vẫn được thể hiện một cách chân thực, sâu sắc qua 30 đơn vị ca dao. Quan hệ giữa anh chị em là quan hệ máu thịt, gắn bó với nhau như những ngón tay trong cùng bàn tay, do vậy anh 21 chị em phải thương yêu đùm bọc nhau, nhất là trong những lúc khó khăn, vấp váp. 3.1.4. Biểu thị cho quan hệ ứng xử giữa dâu, rể Qua khảo sát kho tàng ca dao người Việt, chúng tôi tổng hợp được 53 đơn vị ca dao nói về mối quan hệ ứng xử giữa dâu, rể trong gia đình, t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflethithuytien_tt_2666_1948544.pdf
Tài liệu liên quan