Phản biện xã hội khác với phản biện khoa học. Phản biện khoa
học là hình thức được áp dụng khi tiến hành nghiên cứu, xét duyệt,
nghiệm thu các công trình nghiên cứu khoa học để đưa ra các quyết
định về tính đúng sai; chủ thể tiến hành các cuộc phản biện khoa học
là hội đồng nghiệm thu, đánh giá các công trình nghiên cứu khoa
học, đề án, dự án có những thẩm quyền xác định (nghiệm thu -
không nghiệm thu, tán thành - không tán thành) đối với công trình
nghiên cứu, phát minh, sáng chế được đưa ra xét duyệt, còn phản
biện xã hội là hình thức được áp dụng để tìm được sự đồng thuận xã
hội về lợi ích trong thẩm định, xét duyệt các chủ trương, đường lối,
trong ban hành các đạo luật, trong hoạch định các đề án, dự án, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những điểm phân tích, luận giải nêu trên, có thể định nghĩa:
Phản biện xã hội là hoạt động phân tích, luận chứng một cách khách
quan, khoa học về tính đúng đắn, hợp lý của các đường lối, chính
sách, quyết định liên quan tới lợi ích chung của các cộng đồng xã
hội do các chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội đưa ra dựa trên các ý
kiến, kiến nghị của các tầng lớp xã hội
28 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 18/02/2022 | Lượt xem: 564 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận văn Vai trò của hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u những vấn đề có liên quan đến hoạt động giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể là nguồn tài liệu
tham khảo hữu ích đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói
chung, các cấp Hội, hội viên nói riêng trong việc triển khai các
hoạt động giám sát, phản biện xã hội phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của từng cấp Hội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn có kết cấu gồm 03 chương, 11 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội;
Chương 2: Thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội;
Chương 3: Giải pháp bảo đảm phát huy vai trò của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội;
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ
NỮ VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
1.1. Quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện xã hội
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát
Theo cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Giám sát là sự theo dõi, kiểm
tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người này
đối với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực
hoạt động kinh tế- xã hội; trong việc thực hiện chủ trương, đường lối,
quan điểm của Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà
nước, các quyền, nghĩa vụ công dân, của các tổ chức chính trị- xã hội
và những kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với các
nhân, tổ chức có những hành vi sai trái”.
Theo Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm
theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính
trị): “Giám sát là việc theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến
nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên,
đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về việc thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước”.
Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá có
tính bao quát của chủ thể từ bên ngoài hệ thống đối với đối tượng
không nằm trong cùng một hệ thống phụ thuộc nhau nhằm bảo đảm
việc thực hiện đúng những chuẩn mực, quy định.
1.1.1.2. Khái niệm hoạt động phản biện xã hội
Trong đời sống chính trị của một đất nước, các thiết chế cầm
quyền luôn đứng trước nhu cầu là phải lựa chọn, đắn đo cân nhắc
trong số rất nhiều các dữ kiện chủ quan và khách quan cũng như các
8
lợi ích của các giai cấp, các nhóm xã hội, dân tộc, quốc tế.v.v. khác
nhau để đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất
nhằm giải quyết những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Phản biện xã hội khác với phản biện khoa học. Phản biện khoa
học là hình thức được áp dụng khi tiến hành nghiên cứu, xét duyệt,
nghiệm thu các công trình nghiên cứu khoa học để đưa ra các quyết
định về tính đúng sai; chủ thể tiến hành các cuộc phản biện khoa học
là hội đồng nghiệm thu, đánh giá các công trình nghiên cứu khoa
học, đề án, dự án có những thẩm quyền xác định (nghiệm thu -
không nghiệm thu, tán thành - không tán thành) đối với công trình
nghiên cứu, phát minh, sáng chế được đưa ra xét duyệt, còn phản
biện xã hội là hình thức được áp dụng để tìm được sự đồng thuận xã
hội về lợi ích trong thẩm định, xét duyệt các chủ trương, đường lối,
trong ban hành các đạo luật, trong hoạch định các đề án, dự án, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những điểm phân tích, luận giải nêu trên, có thể định nghĩa:
Phản biện xã hội là hoạt động phân tích, luận chứng một cách khách
quan, khoa học về tính đúng đắn, hợp lý của các đường lối, chính
sách, quyết định liên quan tới lợi ích chung của các cộng đồng xã
hội do các chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội đưa ra dựa trên các ý
kiến, kiến nghị của các tầng lớp xã hội.
1.1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động giám sát,
phản biện xã hội
Quản lý nhà nước là một dạng đặc biệt của quản lý xã hội, mang
tính quyền lực nhà nước. Quản lý nhà nước về hoạt động giám sát và
phản biện xã hội được hiểu là các cơ quan quản lý nhà nước dùng
quyền lực nhà nước (quyền hành pháp) quản lý tất cả các hoạt động
giám sát và phản biện xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
chính trị, văn hóa, kinh tế... theo quy định của pháp luật. Giám sát
công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo; hoạt động
giám sát với cơ quan hành chính nhà nước ở một tổ chức hay cơ
quan nào đó; phản biện với các dự án luật, các dự án trọng điểm quốc
9
gia, Các hội nghị phản biện xã hội, các cuộc giám sát đã góp phần
phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng
Đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
1.1.2. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản
biện xã hội
Ở nước ta hiện nay, Hiến pháp, pháp luật đã giao cho Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam chịu trách nhiệm thực hiện giám sát xã hội và
phản biện xã hội. Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động
giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân
dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước;
góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
nhân dân.
Phản biện xã hội bao gồm phản biện các dự thảo văn bản về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy hoạch, kế
hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
Nhà nước khi được yêu cầu phản biện, phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị -
xã hội. Để giám sát và phản biện xã hội thật sự phát huy hiệu quả
trong cuộc sống, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu và xây dựng
các quy chế, quy định về tiếp thu ý kiến, kiến nghị từ hoạt động giám
sát và phản biện xã hội
1.1.3. Phương thức quản lý nhà nước về giám sát, phản biện
xã hội
Phương thức quản lý nhà nước là những phương thức, cách thức
và chủ thể áp dụng để tác động lên khách thể quản lý nhằm đạt được
những mục đích đề ra. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ là mối quan hệ vốn ra đời trước đổi mới. Trong đó, hoạt
động giám sát chủ yếu dựa trên 03 hình thức: (i) Tham gia giám sát
với cơ quan quyền lực nhà nước; (ii) Vận động nhân dân giám sát và
(iii) Tự mình giám sát.
10
Phản biện xã hội nói lên sự phản hồi của xã hội đối với các hoạt
động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Phản biện xã hội về
thực chất là người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề
nghiệp của dân góp sức với Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng
các chủ trương, chính sách, chuẩn bị các quyết định của về chương
trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phản biện xã hội là một
hình thức, một biện pháp cụ thể thể hiện quyền của dân và ý thức
trách nhiệm của dân đối với công việc chung của đất nước, thể hiện
lòng tin của cơ quan lãnh đạo đối với mối quan hệ chặt chẽ giữa
Đảng và Nhà nước với dân, tin ở trình độ chính trị của dân, mức độ
hiểu biết của dân về lãnh đạo và quản lý.
1.2. Khái quát về Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
1.2.1. Vị trí, vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Là tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, sinh thời
Chủ tịch Hồ Chí minh luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí vai trò
của phụ nữ trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam.
Bác từng nhấn mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, do
phụ nữ ta trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”;
“'Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà mẹ Việt Nam anh hùng”;
“Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra
và cống hiến những người ưu tú, đã và đang chiến đấu anh dũng
tuyệt vời bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại”.
Vai trò đại diện của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được xác
định cụ thể hơn thể hiện thông qua việc quy định Cơ quan Trung
ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam “có quyền trình dự án luật
trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc
hội”; “đại diện cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
có thể được mời dự các phiên họp công khai của Quốc hội”; “người
đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội được mời
tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan”;
cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam “có quyền đề
11
nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh”. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi
để Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện giám sát và phản biện
xã hội, kiến nghị và theo dõi các cơ quan có thẩm quyền tiếp thu kiến
nghị, đề xuất của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Hội LHPN Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống nhất hành động. Hội LHPN Việt
Nam là tổ chức thống nhất trong cả nước với hệ thống tổ chức chặt
chẽ ở 4 cấp: Trung ương; Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
tương đương (gọi chung là cấp tỉnh); Huyện, quận, thị xã, thành phố
trực thuộc tỉnh và tương đương (gọi chung là cấp huyện); Xã,
phường, thị trấn và tương đương (gọi chung là cấp cơ sở). Như vậy,
hệ thống tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được thành lập
tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính nhà nước.
1.2.3. Chức năng. nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Về chức năng, Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam xác định
chức năng của Hội là “Đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng,
tham gia quản lý Nhà nước; Đoàn kết, vận động phụ nữ thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới”. Hội vận động, đoàn
kết, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ nâng cao hiểu biết về giới và trình độ
mọi mặt để góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, chăm lo quyền lợi phụ nữ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có các nhiệm vụ
sau:, (i) Động viên phụ nữ tự lực, tự cường nâng cao hiểu biết về
giới, về luật pháp, chính sách và trình độ mọi mặt. Tham gia tích cực
vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; (ii)
Tham gia xây dựng và kiểm tra giám sát việc thực hiện Hiến pháp,
pháp luật, chính sách của Nhà nước có liên quan đến quyền lợi, đời
12
sống của phụ nữ, trẻ em nhằm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện
bình đẳng và phát triển; (iii) Hướng dẫn, giúp đỡ phụ nữ hiểu biết
về nuôi dạy con, giữ gìn giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của
phụ nữ Việt Nam, tổ chức cuộc sống gia đình no ấm, bình đẳng,
tiến bộ, hạnh phúc; (iv) Xây dựng, củng cố các cấp Hội vững
mạnh, đào tạo bồi dưỡng cán bộ Hội, giới thiệu phụ nữ có đức, có
tài tham gia vào các cơ quan lãnh đạo Đảng, Chính quyền các
cấp...; (v) Đoàn kết, hợp tác rộng rãi với phụ nữ các nước, các tổ
chức và cá nhân tiến bộ, trong khu vực và trên thế giới vì bình
đẳng, phát triển và hoà bình.
1.3. Khái niệm, nội dung, phương thức hoạt động giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Hoạt động giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là việc
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp theo dõi, xem xét, đánh giá
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, công chức, viên
chức trong việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước nhằm kịp thời phát hiện và kiến nghị
xử lý những sai sót, khuyết điểm đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ
sung các chính sách cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố
mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân góp
phần kiểm soát quyền lực nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy Đảng và Nhà nước.
Hoạt động phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
là việc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp, theo tôn chỉ, mục
đích, điều lệ, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, triển khai
việc nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm, chính kiến, đề xuất, kiến
nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước, các quy hoạch, kế hoạch, chương trình,
dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước (trừ những
vấn đề thuộc bí mật quốc gia) nói chung, của từng ngành, lĩnh vực,
địa phương nói riêng.
13
Trên bình diện chung, nội dung hoạt động giám sát của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam là việc thực hiện các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định, nội
quy, quy chế tổ chức, hoạt động của cơ quan, đơn vị... từ phía cơ
quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên
chức nhà nước. Giám sát những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cán bộ, hội viên, phụ nữ thuộc
phạm vi giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được quy định
trong nhiều văn bản pháp luật.
Tập trung phản biện về sự cần thiết, tính cấp thiết của văn bản dự
thảo; sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực tiễn của đơn vị, địa
phương; tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã
hội và tính khả thi của văn bản dự thảo; dự báo tác động của văn bản
dự thảo đối với các nhóm đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn
bản, hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, đối ngoại của văn bảo dự thảo.
Phương thức hoạt động giám sát là cách thức (phương pháp, hình
thức) được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp sử dụng nhằm
hiện thực hóa mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ giám sát việc thực hiện
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, các quy định, nội quy, quy chế tổ chức, hoạt động của cơ quan,
đơn vị... từ phía cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân
cử, công chức, viên chức nhà nước.
Phương thức hoạt động phản biện xã hội là tổng thể quy trình,
biện pháp, hình thức được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp
sử dụng để triển khai việc nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm, chính
kiến, đề xuất, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, các quy hoạch, kế
hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của
Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) nói chung, của
từng ngành, lĩnh vực, địa phương nói riêng.
14
1.4. Các yếu tố ảnh hướng tới việc thực hiện vai trò giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Bất kỳ một hoạt động xã hội nào của con người cũng chịu sự ảnh
hưởng bởi những yếu tố, điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Cũng như
các dạng hoạt động xã hội khác, việc thực hiện vai trò giám sát và
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng chịu sự
tác động ảnh hưởng của nhiểu yếu tố khác nhau, bao gồm cả các yếu
tố chủ quan và các yếu tố khách quan, yếu tố Chính trị, kinh tế văn
hóa. Điều đó giải thích tại sao cùng trong điều kiện hoàn cảnh như
nhau, việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Trung
ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, một số cấp Hội Phụ nữ được
triển khai một cách chủ động, tích cực, nhận được sự quan tâm chỉ
đạo sâu sát, kịp thời của cấp ủy Đảng, giúp các cấp Hội Phụ nữ thực
hiện hiệu quả công tác giám sát và phản biện xã hội.
Tiểu kết chương 1
Trong nội dung chương 1, luận văn đã đề cập, phân tích, luận
giải các vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước về hoạt động
giám sát, phản biện xã hội, bao gồm khái niệm, nội dung, phương
thức quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện xã hội.
Trên cơ sở trình bày về vị trí, vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về cơ cấu tổ chức, chức
năn, nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, luận văn đã tập
trung làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức thực hiện hoạt động
giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.;; chỉ
ra các yếu tố ảnh hướng tới việc thực hiện vai trò giám sát, phản biện
xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
15
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG
GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
2.1. Kết quả đạt được, nguyên nhân và những hạn chế, bất
cập trong thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt nam
2.1.1. Trong thực hiện vai trò giám sát
Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát việc
thực thi các chính sách bình có liên quan tới đẳng giới được coi là trung
tâm vì vị thế đặc biệt của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong hệ thống chính trị
và xã hội của Việt Nam. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã chủ trì giám
sát 10 nội dung với 28 đoàn giám sát tại 26 tỉnh và 02 bộ ngành. Trong 5
năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh, huyện, xã đã chủ trì thành lập đoàn
giám sát 15.601 cuộc; trong đó, cấp tỉnh chủ trì thành lập đoàn giám sát
523 cuộc; cấp huyện chủ trì thành lập đoàn giám sát 2.438 cuộc; cấp xã
chủ trì thành lập đoàn giám sát 12.640 cuộc. Ngoài ra, các cấp Hội giám
sát bằng các hình thức khác, như nghiên cứu xem xét văn bản; tham gia
các đoàn giám sát của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước); qua đơn thư khiếu nại, tố
cáo, phản ảnh; quan sát, tìm hiểu, giao tiếp.
2.1.2. Trương thực hiện vai trò phản biện xã hội
Từ năm 2014 đến nay, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tập
trung phản biện xã hội nhiều dự thảo luật, dự thảo báo cáo quan
trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới,
như: dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi); dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa
đổi), Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức 06 Hội
thảo tham vấn ý kiến chuyên gia, đại biểu các ngành và cán bộ Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp tại 6 tỉnh; Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam các tỉnh, thành tổ chức được 7.809 cuộc góp ý kiến với
tổng số 3.287.039 người tham gia, dự thảo Luật Hôn nhân và gia
16
đình; dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội, dự thảo Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật (sửa đổi), dự thảo Luật Trẻ em; dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều Luật Các cơ quan đại diện nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; dự thảo Luật Trợ giúp
pháp lý; dự thảo Luật Tiếp cận thông tin; dự thảo Báo cáo mục tiêu
quốc gia về bình đẳng giới năm 2017, Luật Giáo dục (sửa đổi), Luật
Thi hành án hình sự (sửa đổi)... Ngoài ra Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam các cấp ở địa phương đã tích cực tham gia phản biện xã hội,
góp ý vào các dự thảo văn bản pháp luật, kế hoạch, chương trình, dự
án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cấp địa phương.
2.1.3. Những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và nguyên nhân
Thứ nhất, hoạt động giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam các cấp mới chủ yếu triển khai giám sát chuyên đề và tập trung
chủ yếu vào các cơ quan, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp...;
ít thực hiện giám sát thường xuyên và chưa thực hiện được việc giám
sát đối với các tổ chức Đảng, đặc biệt chưa giám sát được cán bộ,
đảng viên, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, trong việc thực hiện vai trò phản biện xã hội của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chưa có cơ chế khuyến khích tiếp nhận ý
kiến của các tầng lớp nhân dân vào các văn bản dự thảo.
Thứ ba, một bộ phận cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các
cấp chưa hiểu biết đầy đủ, chưa nắm vững các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát và phản
biện xã hội; năng lực giám sát, phản biện xã hội, khả năng phát hiện,
lựa chọn, lập luận, phân tích vấn đề phục vụ hoạt động phản biện xã
hội còn hạn chế, chỉ ở mức độ theo dõi, phản ứng chứ chưa đi đến
cùng để giải quyết vấn đề đặt ra.
Thứ tư, trong thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, có thể nhận thấy rằng, càng xuống
cấp dưới thì công tác giám sát, phản biện xã hội càng gặp nhiều khó
khăn, lúng túng, hiệu quả chưa rõ nét, chưa có nhiều phát hiện, kiến
17
nghị xử lý sau giám sát; nhiều kiến nghị còn chung chung, chưa chỉ
ra lĩnh vực, vấn đề cụ thể cần khắc phục, giải quyết.
2.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực hiện
vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản
biện xã hội
Thứ nhất, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy là yếu tố đầu
tiên, có vị trí rất quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp nói chung, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam các cấp nói riêng thực hiện có hiệu quả hoạt động giám sát,
phản biện xã hội. Người đứng đầu cấp ủy phải nhận thức đầy đủ, sâu
sắc và trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo quá trình triển
khai thực hiện các hoạt động này.
Thứ hai, để hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền đi vào thực chất, các cấp Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam cần chủ động lựa chọn những nội dung giám
sát, phản biện xã hội, những vấn đề gây bức xúc dư luận xã hội, có
liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội
viên, phụ nữ; xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát và phản biện
xã hội, trong đó xác định cụ thể nội dung chủ trì, nội dung phối hợp
giám sát, lựa chọn phương pháp giám sát, phản biện xã hội phù hợp
với từng nội dung, đối tượng tránh chồng chéo qua đó mang lại hiệu
quả cao khi triển khai thực hiện.
Thứ ba, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ và rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ
Hội, hội viên là nhân tố quyết định chất lượng công tác giám sát,
phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Thứ tư, chính quyền các cấp cần tạo các điều kiện thuận lợi để
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó
có Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp, thực hiện và phát huy
vai trò giám sát, phản biện xã hội
Thứ năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp, nhất là cấp
Trung ương, cần chú trọng, đầu tư thỏa đáng cho công tác sơ kết,
18
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo khoa học những vấn đề
sẽ xảy ra trong tương lai, lấy đó làm cơ sở khoa học cho hoạt động
giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính
quyền; tránh tình trạng tham gia góp ý qua loa, hình thức vì ngại bày
tỏ quan điểm, chính kiến.
Tiểu kết chương 2
Nội dung chương 2 của luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam thông qua việc luận chứng những thành công, kết quả
đạt được trong thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, chỉ ra những nguyên nhân đem đến những kết
quả đạt được; phân tích những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò
giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và làm
rõ các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập đó. Trên cơ sở đánh
giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân, luận văn đã rút ra được một số bài
học kinh nghiệm từ thực tiễn thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội; lấy đó làm cơ sở để đề xuất,
luận giải các giải pháp phát huy vài trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội.
Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG
GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI
3.1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của
Đảng, thực hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật của Nhà nước
về giám sát, phản biện xã hội
3.1.1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của
Đảng về giám sát, phản biện xã hội, đặc biệt là Quyết định số 217-
QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ
Chính trị tới các cấp Hội, hội viên
Cụ thể hóa bằng Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành
19
kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính
trị) và Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể
chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền đó là những văn bản chính trị - pháp lý rất quan
trọng, mở ra một bước ngoặt lớn trong nhận thức về giám sát, phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị
- xã hội trong hệ thống chính trị cũng như trong xã hội, góp phần
quan trọng vào tham gia xây dựng Đảng, chính quyền các cấp trong
sạch, vững mạnh.
3.1.2. Thực hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật của Nhà
nước về giám sát, phản biện xã hội
Ban hành các văn bản t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_van_vai_tro_cua_hoi_lien_hiep_phu_nu_viet_nam_t.pdf