Một điều cần nói thêm nữa là enzyme thường chứa ởcác tếbào vi sinh vật
gọi là các enzyme trong tếbào (intracellular), nhuwnh nó cũng có thể được các vi
sinh vật tiết ra môi trường sống. Đó là các enzyme ngoài tế bào (extracellular).
Enzyme vi sinh vật thương chiết là enzyme ngoại bào.
Các phân tửenzyme không có khảnăng đi qua màng tếbào và màng của các
cấu tửcủa tếbào. Do đó có thểchiết rút các enzyme nội bào, bước đầu tiên là phải
phá vỡcấu trúc của các tếbào có chứa enzyme và chuyển chúng vào dung dịch.
Có thểphá vỡcấu trúc của các tếbào bằng các biện pháp cơhọc nhưnghiền
với bột thủy tinh hoặc cat thạch anh, làm đồng hóa bằng thiết bị đồng hóa
(homogenzizator).
Muốn tách được các enzyme trong các cấu tửcủa tếbào, người ta còn phải
dùng các yếu tốvật lí và hóa học khác nhau nhưsóng siêu âm. Dùng các dung môi
hữu cơnhưbuthanol, aceton, glycerin, ethyl acetate và chất detergent. Các hóa
chất có tác dụng tốt cho việc phá vỡcác cấu tửcủa tếbào vì trong các cơquan này
thường chứa mỡ.
Sau khi đã phá vỡcác cấu trúc của tếbào, enzyme được chiết bằng nước cất,
bằng các dung dịch đệm thích hợp hoặc bằng các dung dịch muối trung tính.
Có một sốyếu tố ảnh hưởng đến quá trình chiết rút cần lưu ý. Trước hết đó
là nhiệt độ. Đểtránh mất hoạt tính hoặc thậm chí vô hoạt, cần thiết rút và tiến hành
kết tủa enzyme ởnhiệt độthấp (từ3 đến 5
o
C). Các thao tác phải nhanh. Một số
chất điện li làm tăng quá trình chiết rút enzyme nhưNaCl, ZnCl2
, CaCl
2
. Tác dụng
của chúng còn phụthuộc vào phương pháp dùng khi chiết rút.
44 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 7090 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng quan về Enzyme protease, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp
gene đã được nghiên cứu ở một số loài vi khuẩn như E.coli, Salmonella,
Pseudomonas aeruginosa.
3.1.1.4. Phương pháp tải nạp
Vật liệu di truyền (AND) được chuyển từ tế bào cho sang tế bào nhận nhờ
vai trò trung gian của thực khuẩn thể (phage). Trong quá trình tải nạp, các đoạn
AND được chuyển từ tế bào cho đến tế bào tiếp hợp với AND của tế bào nhận. Do
đó làm biến đổi tính chất di truyền của tế bào nhận.
3.1.2. Phương pháp bảo quản giống vi sinh vật.
Khi sử dụng vi sinh vật để sản xuất enzyme cần chọn giống thuần chủng, đã
được kiểm tra đầy đủ về các đặc tính hóa sinh, vi sinh, nuôi cấy và cần đặc biệt lưư
ý đến điều kiện bảo quản giống. Thực tế khi bảo quản giống gốc trong một thời
gian có thể tạo ra các biến dị ngẫu nhiên không mong muốn do đó định kỳ phải cấy
chuyển và kiểm tra lại các đặc tính ban đầu.
• Phương pháp cấy chuyển.
Đây là phương pháp phổ biến nhất dễ thực hiện bằng cách giữ giống trên môi
trường thạch (thạch nghiêng, hộp petri,…) với thành phần môi trường nuôi cấy và
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 17
điều kiện nuôi cấy thích hợp cho giống vi sinh vật đó. Sau khi giống đã mọc tốt cần
bảo quản ở nhiệt độ lạnh 3-400C và sau mỗi tuần phải cấy chuyển lại. Khi cấy
chuyển chỉ lấy bào tử hoặc khuẩn lạc mà không nên lấy cả môi trường dinh dưỡng
để đảm bảo không chuyển các sản phẩm trao đổi chất vào môi trường mới (có thể
gây biến đổi bất lợi không thể lường hết được). Nếu là xạ khuẩn thì không nên bảo
quản giống trên môi trường thạch mà nên giữ trong đất để khử trùng.
Để kéo dài thời gian bảo quản giống từ hàng tháng đến 1 năm, người ta phủ 1
lớp paraphin lỏng để tiệt trùng trên bề mặt giống để hạn chế sự phát triển của nó.
Cần lưu ý chỉ phủ lớp dầu sau khi cấy vi sinh vật đạt đến độ chin sinh lý.
Phương pháp cấy chuyển rất có hiệu quả để bảo quản các giống nấm men, vi
khuẩn và rất hữu hiệu, dễ dàng triển khai giống ra sản xuất lớn, hạn chế các tai biến
có thể dẫn đến hư hỏng giống gốc.
3.2. Bảo quản bằng phương pháp cấy truyền trên môi trường thạch
• Phương pháp làm khô
Bằng cách giữ giống trên cát, đất, silicagen trong điều kiện khô ráo (tất cả đều
được khử trùng cẩn thận). Trong điều kiện như vậy sẽ hạn chế sự phát triển tiếp tục
của giống khi bảo quản. Phương pháp này rất hay được sử dụng để bảo quản nấm
mốc, xạ khuẩn, một vài loại nấm men, vi khẩn thời gian giữ giống có thể được một
nă. Phương pháp làm khô cũng thực hiện đơn giản, không cần dụng cụ đắt tiền.
Tuiy nhiên giống như phương pháp cấy chuyển thời gian bảo quản tương đối ngắn.
• Phương pháp đông khô
Đông khô là quá trình mà nước được lấy ra khỏi mẫu khi các mẫu đang ở trạng
thái lạnh sâu. Ở đây vi sinh vật được huyền phù trong môi trường thích hợp và
đượclàm lạnh trong môi trường chân không. Thiết bị đông khô sẽ hút nước và cuối
cùng mẫu được làm khô đến mức nhất định. Mẫu được hàn kín để cho môi trường
chứa mẫu là chân không. Đây là phương pháp phổ biến có hiệu quả cao cho bảo
quản các đối tượng vi sinh vật khác nhau như nấm sợi, nấm men, vi khuẩn và một
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 18
số virut. Tuy nhiên phương pháp này ít được ứng dụng đối với tảo, động vật
nguyên sinh và tế bào động vật.
• Phương pháp bảo quản lạnh sâu
Đối với phương pháp bảo quản lạnh sâu thì vi sinh vật được bảo quản trong môi
trường dịch thể và nước cần cho hoạt động sống của vi sinh vật bị bất hoạt ở nhiệt
độ lạnh sâu (-196oC -> -80oC).
Với phương pháp này, tế bào có thể bị vỡ trong quá trình làm lạnh và làm tan
mẫu. Một nguyên nhân dẫn đến làm vỡ tế bào là việc tích luỹ các chất điện giải
trong mẫu bảo quản và hình thành các tinh thể nước trong tế bào. Để khắc phục
nhược điểm này người ta đã bổ sung các chất làm hạn chế tốc độ lạnh sâu và làm
tan nhanh như glycerol, DMSO (dimethyl sulfoxide). Việc bảo quản theo phương
pháp lạnh sâu này được thực hiện ở các thang nhiệt đọ khác nhau như -20oC, -30oC,
-40oC,-70oC, -140oC và -196oC. Nói chung mức nhiệt độ cao hơn -30oC cho hiệu
quả thấp do tế bào chịu nồng độ muối cao sinh ra từ các chất điện giải. Phương
pháp bảo quản này có hiệu quả với nhiều nhóm sinh vật khác nhau như nấm sợi,
nấm men, vi khuẩn, xạ khuẩn và virut.
Đặc biệt với phương pháp bảo quản lạnh sâu trong nitơ lỏng là phương pháp
vạn năng hơn cả. Phương pháp này thích hợp với nhiều đối tượng vi sinh vật khác
nhau như, vi khuẩn, nấm sợi, nấm men, virut, tảo và các dòng tế bào động vật. Tuy
nhiên, phương pháp này cũng bộc lộ một số nhược điểm như đầu tư kinh phí cho
thiết bị và điện, nitơ lỏng hoặc rủi ro nhue cháy nổ… Đặc biệt phương pháp này
không thích hợp với các chủng vi sinh vật thường xuyên dùng đến. Nói chung
phương pháp này thường được dùng với các chủng vi sinh vật có những đặc tính
quí mà không thích hợp với phương pháp đông khô.
3.3. Môi trường nuôi cấy vi sinh vật tổng hợp enzyme Protease.
Cần phải chọn môi trường vì thành phần môi trường dinh dưỡng cso ảnh
hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng và tổng hợp enzyme của vi sinh vật. trong thành
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 19
phần môi trường phải có đủ các chất bảo quản được sự sinh trưởng bình thường của
vi sinh vật và tổng hợp enzyme.
Đặc biệt lưu ý là để tăng sự tổng hợp enzyme người ta thường dựa vào hiện tượng
cảm ứng. Vì nếu như trong thành phần môi trường có các chất cảm ứng thì chất đó
hay sản phẩm phân giải của nó sẽ kìm hãm hoặc làm yếu tác dụng kìm toả của chất
kìm hãm nhằm bảo đảm khả năng sinh tổng hợp enzyme đã cho khồng bị cản trở.
Chất cảm ứng tổng hợp enzyme cho thêm vào môi trường nuôi thường là cơ chất
tương ứng của enzyme cần tổng hợp.
Thành phần chính của môi trường: C, N, H, O. Ngoài ra các chất vô cơ: Mn, Ca, P,
S, Fe, K và các chất vi lượng khác.
3.3.1. Nguồn cacbon.
Thường là hợp chất hữu cơ trong đó chủ yếu là gluxit, tuỳ thuộc vào đặc
tính của enzyme và nòi sinh vật mà người ta lựa chọn cho thích hợp.
Có nhiều chất hydratcacbon và các hợp chất khác là nguồn cacbon thích hợp đối
với nấm mốc sinh ra enzyme protease có hoạt lực cao. Các nguồn cacbon có tác
dụng đến sinh tổng hợp proteinase cảu nấm mốc có thể theo thứ tự:
Đối với Asp.flavus 74: fructoza → glucoza → sacaroza → ramnoza →
manoza → galactoza → arabinora → lactoza.
Đối với Asp. Awamori 200: fructoza → manit → sacaroza → arabinora → manoza
→ galactoza → lactoza.
Đối với Asp. Oryzae 79: fructoza → sacaroza → maltoza → glucoza → manit →
arabinora → galactoza.
Tinh bột là nguồn cacbon của nhiều chủng vi khuẩn sinh tổng hợp enzyme
Protease. Ví dụ: VI khuẩn Bac. Subtilis có khả năng sinh tổng hợp protease ở môi
trường tinh bột >8%.
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 20
Nhiều xạ khuẩn ưu nhiệt, trong đó Micromonospora vulgaris 42, mọc tốt và
sinh tổng hợp protease cao ở môi trường có tinh bột. Tăng nồng đọ tinh bột từ 0,25
– 1,5% sinh khối cũng tăng đồng thời với hiệu suất tổng hợp enzyme. Nếu tăng
nồng độ tinh bột hơn nữa sẽ không thu được kết quả dương tính. Tỷ số giữa cacbon
và nitơ cần phải là 4:1. trên môi trường có maltoza (0,5 – 2%) vi sinh vật phát triển
bình thường, nhưng tổng hợp protease ngoại bào bị ức chế. Xạ khuẩn không phát
triển được ở trên môi trường có các nguồn cacbon duy nhất là sacaroza, lactoza
hoặc arabinoza. Glucoza, manoza,fructoza, xyloza có trong môi trường (0,2 – 5%)
làm ức chế sinh trưởng của xạ khuẩn và sinh tổng hợp enzyme.
Ngoài ra, một số loại hydrocacbon cũng có nguồn cacbon có 125 chủng vi
sinh vật. Chẳng hạn chủng Ps. Seruginosa có thể đồng hoá hydrocacbon và có khả
năng sinh tổng hợp protease có hoạt lực cao trên môi trường n-parafin với 12, 14 và
16 nguyên tử cacbon, dầu nặng hoặc propylenglycol. Chúng khôgn chỉ đồng hoá
đươch cả hydrocacbon béo mà còn đồng hoá cả hydrocacbon thơm.
3.3.2. Nguồn nitơ.
Nguồn nitơ sử dụng rất phong phú, bao gồm 2 nhóm: vô cơ và hữu cơ.
Đối với một số laòi nấm mốc thuộc họ (A. oryzae, A. awamori, A. niger, A. flavus)
trên môi trường có các nguồn nitơ hữu cơ sinh tổng hợp protease axit cao. Tren môi
trường kzapek NaNO3 đwocj thay bằng cả cazein và bổ sung pepton hoạt lực
enzyme tăng 6lần. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy sinh tổng hợp enzyme được
nâng cao khi trong môi trường có đồng thời cả nguồn nitơ hữu cơ và nitơ vô cơ.
Cho thêm vào môi trường có cám mì, bột đậu tương đã tách chất béo, các nguồn
nitơ và hữu cơ hoạt lực enzyme protease tăng 22 – 74%. Còn trường hợp dùng các
nguồn nitơ vô cơ duy nhất trong môi trường sẽ dẫn đến ngừng sinh tổng hợp
protease nói chung.
Trong quá trình nuôi cáy vi khuẩn, trong đó có B. subtilis và B.
mesentericus, các hợp chất nitơ vô cơ và hữu cơ được dùng phối hợp trong môi
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 21
trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sinh tổng hợp protease. Trong số các nguồn
nitơ vô cơ thì NH4, H2PO4 là tốt hơn cả. Những muối khác NH4Cl, (NH4)2SO4,
NH4NO3, NaNO3, KNO3. Ca(NO3)2 làm giảm hoạt lực protease tới 30-50%, còn
amylaza giảm 7-10 lần. Còn trong môi trường chỉ có nguồn nitơ hữu cơ hoạt lực
protease và amylaza cũng thấp hơn trong môi trường đối chứng (NH4)2HPO4 và
nước chiết đậu tương.
Đối với xạ khuẩn ưu nhiệt Actynomyces Vulgaris U2 thì peptin là chất cảm
ứng sinh tổng hợp enzyme protease là tốt nhất.
Các axit amin có ảnh hưởng rõ rệt tới sinh tổng hợp enzyme bằng vi sinh
vật. Glỹin, alanin, metionin và lơxin cso tác dụng làm tăng hoạt lực protease cảu
chủng đột biến A. oryzae 251-90 đến 6-9% và nguyên chủng A. oryzae 132-63 tới
7-24%. Nhiều axit amin có tcs dụgn ức chế đến sinh tổng hợp enzyme, Valin, Axit
glutamic, izolỡin và valin ức chế tổng hợp enzyme ở B. megaterium 60%. Còn đối
với B. subtilis các axít amin ức chế trong quá trình này là glyxin, metinonin, axit
glutamic, alamin, lơxin,… Ngoài ra, các bazơ purin như A (adenin), G (guanin) và
các dẫn xuất của chúng, ARN và các sản phẩm thuỷ phân cũng làm tăng đang kể
sinh tổng hợp proteinza vi sinh vật.
3.3.3. Nguồn các nguyên tố khoáng và các yếu tố (chất) kích thích sinh trưởng.
Muối khoáng rất cần thiết cho hoạt động vi sinh vật.
Ion Mg2+ cso tác dụng sinh tổng hợp và ổn định các enzyme cso hoạt tính ở nhiệt
độ cao.
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đối với môi trường nuôi cấy. Nhiệt độ nuôi cấy
thông thường từ 25-30oC. Trị số pH ban đầu cảu môi trường (chủ yếu ở môi trường
nước) cũng có thể gây ảnh hưởng nào đó đến sự tạo thành enzyme, nhưng khi đó
cũng cần tính đến khả năng biến đổi nhanh chóng chỉ số đó bởi vi sinh vật.
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 22
Độ thông khí cũng rất cần thiết cho việc sinh tổng hợp enzyme. Vì vậy môi
trường bề mặt người ta thường thêm chất xốp như trấu vào, còn ở môi trường bề
sâu (môi trường dịch thể), thì người ta thường lắc (nếu enzyme cần lắc thì việc này
cực kỳ quan trọng). Độ ẩm cũng rất quan trọng (chỉ có tác dụng ở nuôi cấy bề mặt),
phụ thuộc vào thành phần môi trường bề mặt.
Khi lựa chọn môi trường cần chú ý đến cả thành phần định tính và định
lượng sao chi quá trình sinh tổng hợp enzyme mong muốn là cao nhất. Muốn vậy
người ta có thể sử dụng một số phương pháp:
Phương pháp tối ưu hoá quy hoạch thực hiện toàn phần.
Phương pháp toán học môhình hoá thực nghiệm.
3.4. Các loại môi trường nuôi cấy vi sinh vật tổng hợp enzyme.
Có thể chia làm 2 loại: môi trường tổng hợp và môi trường tự nhiên.
Môi trường tổng hợp: là môi trường bao gồm các chất với liều lượng xác
định (qua tìm hiểu, nghiên cứu), chẳng hạn nguồn cacbon có thể là tinh bột,
xenluloza, đường, axit, rượu, nguồn nitơ vô cơ và hữu cơ. Loại môi trường này
được sử dụng chomục đích nghiên cứu.
Môi trường tự nhiên: thường dùng các loại phế liệu, nguyên liệu có chứa các
nguồn cacbon, nitơ, khoáng, các yếu tố sinh tổng hợp trưởng. Mặt khác, các
nguyên liệu này có sẵn, rẻ tiền nên được sử dụng rất nhiều trong công nghiệp sản
xuất các phế phẩm enzyme từ vi sinh vật. Các nguyên liệu để chuẩn bị làm môi
trường tự nhiên bao gồm: cám và bột hạt cốc, nước chiết ngô, dịch ép hoa quả, rau,
khô dầu, bã rượu, rĩ đường, sản phẩm phân huỷ nấm, men bia, trấu, lõi ngô. Khi lựa
chọn sử dụng môi truờng cần chú ý đến các chất cso tác dụng điều hoà sinh tổng
hợp enzyme, đặc biệt các chất cảm ứng.
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 23
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đối với môi trường nuôi cấy. Nhiệt độ nuôi cấy
thông thường từ 25-30oC. Trị số pH ban đầu cảu môi trường (chủ yếu ở môi trường
nước) cũng có thể gây ảnh hưởng nào đó đến sự tạo thành enzyme, nhưng khi đó
cũng cần tính đến khả năng biến đổi nhanh chóng chỉ số đó bởi vi sinh vật.
3.5. Các phương pháp nuôi cấy vi sinh vật.
• Nuôi cấy bề mặt:
Phương pháp này rất thích hợp để nuôi cấy các loại nấm mốc do khả năng phát
triển nhanh, mạnh, nên ít bị tạp nhiễm. Khi nuôi nấm mốc phát triển bao phủ bề
mặt hạt chất dinh dưỡng rắn, các khuẩn ty cũng phát triển đâm sâu vào lòng môi
trường đã được tiệt trùng, làm ẩm. Đối với một số mục đích đặc biệt, người ta nuôi
vi sinh vật trực tiếp trên bề mặt hạt gạo (sản xuất tương), hạt đậu tương (đậu tương
lên men-misô) đã được nấu chín trộn hạt cốc còn sống (làm men thuốc bắc, men
dân tộc, làm tương).
Người ta thường dùng cám mì, cám gạo, ngô mảnh… cso chất phụ gia là trấu.
Cám, trấu, có bề mặt tiếp xúc lớn, mông, tạo được độ xốp nhiều, không có những
chất gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nấm mốc. Tỉ lệ các chất phụ gia phải
bảo đảm sao cho hàm lượng tinh bột trong khối nguyên liệu không được thấp hơn
20%, có thể bổ sung thêm nguồn nitơ vô cơ ((NH4)2SO4, (NH4)2CO), photpho, nitơ
hữu cơ và các chất kích thích sinh trưởng như malt, nước chiết ngô, nước lọc rượu.
Quy trình công nghệ:
Làm nguội, tơi. Thanh trùng bằng nhiệt độ. Làm ẩm. trộn nguyên liệu. Nuôi cấy,
theo dõi, xử lý. Chuyển vào dụng cụ nuôi cấy. Gieo trồng vsv lý.
Ưu nhược điểm:
Nồng độ enzyme tạo thành cao hơn nhiều lần so với dịch nuôi cấy chìm sau khi
đã tách tế bào vi sinh vật. Trong công nghiệp rượu muốn đường hoá 100kg tinh bột
chỉ cần 5kg chế phẩm nấm mốc bề mặt nhưng phải cần đến 100lít nấm mốc chìm
để lọc bã và tế bào vi sinh vật.
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 24
Chế phẩm dễ dàng sấy khô mà không làm giảm đáng kể hoạt tính enzyme, chế
phẩm khô, dễ bảo quản, vận chuyển, nghiền nhỏ hoặc sử dụng trực tiếp mà không
cần khâu tách và làm sạch enzyme.
Tốn ít năng lượng, thiết bị, dụng cụ nuôi cấy đơn giản, có thể thực hiện qui
mô gia đình, trang trại cũng như qui mô đến 20T/ngày.
Nuôi cấy trong điều kiện vô cùng tuyệt đối và trong quá trình nuôi cấy đều có
nhiễm trùng phần nào, khu vực nào thì chỉ cần loại bỏ canh trường phần đó.
Tuy nhiên phương pháp bề mặt cso năng suất thấp, khó cơ khí hoá, tự động hoá,
cần diện tích nuôi lớn, chất lượng chế phẩm ở các mẻ không đồng đều.
• Nuôi cấy chìm
Vi sinh vật được nuoi cấy trong môi trường lỏng với cơ chất chủ yếu trong đa số
trường hợp là tinh bột. Chỉ có một số ít giống vsv dùng nguồn cơ chất cacbon là
đường glucoza, saccharoza. Thực tế, trong một số trường hợp đường hoá sơ bộ tinh
bột trước khi thanh trùng. Khi đó đường maltoza được tạo thành là chất cảm ứng
tốt, môi trường thường giảm độ nhớt nên dễ dàng cho quá trình khuấy trộn và sục
khí.
Phương pháp nuôi cấy bề sâu đồi hỏi phải được vô trùng tuỵet đối ở các khâu vệ
sinh tổng hợp, thanh trùng môi trường dinh dưỡng, thao tác nuôi cấy, không khí
cung cấp cho quá trình nuôi cấy.
Các giai đoạn chính cảu quá trình nuôi cấy chìm 1 bước gồm: chuẩn bị môi trường
nuôi cấy, nuôi cấy nấm men giống, nuôi cấy nấm mốc sản xuất.
Ưu nhược điểm
Phương pháp nuôi cấy hiện đậi dễ cơ khí hoá, tự động hoá, năng suất cao, dễ tổ
chức sản xuất.
Có thể nuôi cấy dễ dàng các chủng vi sinh vật đột biến cso khả năng sinh tổng hợp
enzyme cao và lựa chọn tối ưu thành phần môi trường, các điều kiện nuôi cấy,
enzyme thu được tinh khiết hơn, đảm bảo điều kiện vệ sinh, vô trùng.
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 25
Tuy nhiên do thu được canh trường và nông độ enzyme thấp nên khi tách thu
hồi enzyme sẽ có giá thành cao. Tốn điện năng cho khuấy trộn, nếu không bảo đảm
vô trùng sẽ bị nhiễm hàng loạt, toàn bộ gây tổn thương lớn.
3.6 Tách và làm sạch chế phẩm enzyme.
Một điều cần nói thêm nữa là enzyme thường chứa ở các tế bào vi sinh vật
gọi là các enzyme trong tế bào (intracellular), nhuwnh nó cũng có thể được các vi
sinh vật tiết ra môi trường sống. Đó là các enzyme ngoài tế bào (extracellular).
Enzyme vi sinh vật thương chiết là enzyme ngoại bào.
Các phân tử enzyme không có khả năng đi qua màng tế bào và màng của các
cấu tử của tế bào. Do đó có thể chiết rút các enzyme nội bào, bước đầu tiên là phải
phá vỡ cấu trúc của các tế bào có chứa enzyme và chuyển chúng vào dung dịch.
Có thể phá vỡ cấu trúc của các tế bào bằng các biện pháp cơ học như nghiền
với bột thủy tinh hoặc cat thạch anh, làm đồng hóa bằng thiết bị đồng hóa
(homogenzizator).
Muốn tách được các enzyme trong các cấu tử của tế bào, người ta còn phải
dùng các yếu tố vật lí và hóa học khác nhau như sóng siêu âm. Dùng các dung môi
hữu cơ như buthanol, aceton, glycerin, ethyl acetate… và chất detergent. Các hóa
chất có tác dụng tốt cho việc phá vỡ các cấu tử của tế bào vì trong các cơ quan này
thường chứa mỡ.
Sau khi đã phá vỡ các cấu trúc của tế bào, enzyme được chiết bằng nước cất,
bằng các dung dịch đệm thích hợp hoặc bằng các dung dịch muối trung tính.
Có một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chiết rút cần lưu ý. Trước hết đó
là nhiệt độ. Để tránh mất hoạt tính hoặc thậm chí vô hoạt, cần thiết rút và tiến hành
kết tủa enzyme ở nhiệt độ thấp (từ 3 đến 5 oC). Các thao tác phải nhanh. Một số
chất điện li làm tăng quá trình chiết rút enzyme như NaCl, ZnCl2, CaCl2. Tác dụng
của chúng còn phụ thuộc vào phương pháp dùng khi chiết rút.
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 26
Để loại bỏ muối khoáng và các loại đường… là các tạp chất có phân tử lượng
thấp, người ta thường dùng phương pháp thẩm tích (dialysis) đối nước hay đối các
dung dịch đệm loãng hoặc bằng cách lọc qua gel sephadex.
Thẩm tích để loại muối (NH4)2SO4 trong kết tủa protein
Để loại bỏ các protein tạp (protein cấu trúc, protein trơ) và các chất có phân
tử lượng cao khác người ta hay dung kết hợp các phương pháp khác nhau: phương
pháp biến tích chọn lọc nhờ tác dụng của nhiệt độ hoặc pH của môi trường, phương
kết tủa phân đoạn bằng muối trung tính hoặc các dung môi hữu cơ, các phương
pháp sắc ký (sắc ký hấp phụ, sắc ký trao đổi ion) điện di, phương pháp lọc gel.
Mục đích yêu cầu: Các chế phẩm enzyme được sử dụng ở các dạng khác
nhau theo mức độ tinh khiết (hoạt độ riêng). Trong một số trường hợp, canh trường
nuôi cấy vi sinh vật có chứa enzyme được sử dụng trực tiếp dưới dạng thô không
cần tách tạp chất nếu chúng không gây ảnh hưởng đáng kể đến sản phẩm và qui
trình công nghệ sau này( ví dụ: sản xuất rượu, nước chấm thực vật, da). Cũng có
khi người ta cần sử dụng chế phẩm enzyme tinh khiết trong công nghiệp dệt, công
nghiệp mạch nha, y học, nghiên cứu khoa học.
Enzyme nói chung rất dễ giảm hoạt tính dưới tác dụng của các tác nhân bên
ngoài do đó khi tách và tinh chế enzyme để tránh sự biến hình protein ảnh hưởng
lớn đến hoạt tính enzyme cần tiến hành nhanh chóng ở nhiệt độ thấp, độ pH thấp
không có mặt các chất gây biến hình enzyme.
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 27
3.6.1 Phương pháp kết tủa
Phương pháp kết tủa phân đoạn bằng (NH4)2SO4 dựa trên cơ sở sự khác nhau
về khả năng kết tủa của các protein enzyme ở một nồng độ muối (tính theo % nồng
độ bão hòa) xác định được dùng phổ biến để loại bỏ bước đầu protein tạp của các
dung dịch enzyme. Các loại muối có thể được dùng là (NH4)2SO4, Na2SO4,
MgSO4… ngươi ta đã nhận thấy muối (NH4)2SO4 là tốt nhất vì nó không làm hại
mà làm ổn định (làm bền) hầu hết các loại enzyme. Loại muối này lại rẻ và phổ
biến. Độ hòa tan của nó lại rất lớn (bão hào 767 g/l ở 25 0C).
3.6.2 Phương pháp sắc ký
*Các kỹ thuật sắc ký cột
Dịch chiết enzyme đã được loại bỏ phần lớn các protein tạp nhưng vẫn chưa
đảm bảo độ đồng nhất cần thiết. Do đó dịch chiết enzyme được tiếp tục làm sạch
bằng phương pháp sắc ký cột.
- Phương pháp dùng chấ rây phân tử (lọc gel – gel filtration)
Cơ sở của phương pháp lọc gel là dựa vào sự khác nhau về kích thước hình dạng
phân tử lượng của enzyme có trong hỗn hợp để tách chúng ra.
Để đảm bảo cho việc tách enzyme được tốt, chất rây phân tử phải là chất trơ,
không phản ứng với protein enzyme. Chất này cũng không hòa tan và tương đối
bền với các yeus tố về cơ học cũng như sinh học. Ngoài ra chất được sử dụng cho
mục đích lọc phân tử phải là chất không có tính đàn hồi (không co) và phải là chất
ưa nước (hydrophyl).
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 28
- Phương pháp sắc ký trao đổi ion
Phương pháp sắc ký trao đổi ion dựa vào sự khác nhau điện tích tổng số của
các protein enzyme. Hay nói cách khác, phương pháp này dựa trên cơ sở của phản
ứng trao đổi ion giữa protein được tan trong nước hoặc dung dịch đệm loãng và các
tác nhân trao dổi ion. Tác nhân (hay nguyên liệu) trao đổi ion có thể là chất nhựa có
tích nhóm sinh ion hoặc là chất ionit. Đây là những chất giá trơ, không tan trong
nước, có bản chát là cellulose hoặc chất gel dextran có lưới phân nhánh (Sephadex,
Molselect) hoặc là chất nhựa polystiron. Chất giá thể này thường kết hợp với các
nhóm ion hóa. Các chất trao dổi ion có chất giá là cellulose, sephadex, molselect
thông thường được dùng để tách protein enzyme, còn các chất trao đổi ion có chất
giá là polystirol (ví dụ như Dowex, Amberlite) chỉ dùng để tách các peptid có trọng
lượng phân tử nhỏ hơn.
Anionit DEAE – cellulose (diethylamino – ethyl – cellulose) là dẫn xuất este
của cellulose. C2H5
C2H5
Cellulose – O – CH2 – N
C2H5
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 29
Trong H2O nó được phân li:
Cellulose – O – C2H4 – N – (C2H5) + H2O
C2H5
Cellulose – O – C2H4 – N+ + OH
C2H5
H
Đây là chấ trao đổi anion
Nếu chất giá là sephadex thì chúng ta có chất trao đổi ion sephadex. Đó là cacs loại
DEAE – sephadex và CM – sephadex. Ưu điểm của loại này là vừa tách được
protein enzyme về kích thước và về điện tích tổng số của các protein enzyme.
Trường hợp CM – sephadex trên chất giá sephadex có gắn nhóm COO-
- O – CH2 – COOH
Phân ly
COO – (mang điện tích)
Đây là chất trao đổi cation.
Ngoài ra, có các phương pháp :
- Phương pháp dùng cháy phụ
- Phương pháp dùng chất phụ đặc hiệu sinh học hay là phương pháp sắc
ký ái lực (afinity chromatography).
3.6.3 Phương pháp tách hệ hai pha nước
Cơ sở kỹ thuật này dựa vào sự phân bố khác nhau của hỗn hợp trong dung
dịch hai pha không hòa tan vào nhau. Các hệ hai pha đặc trưng bằng cách trộn các
hệ dung môi vào nhau đẻ tạo thành hai pha riêng biệt. Hệ dung môi được sử dụng
trong phương pháp này có thể là polymer/polymer như: polyethylene glycol (PEG)
và dextran hoặc heejpolymer/muối như PEG và potasium phosphate, sodium
Enzyme protease
Trần Anh Đào – 48K – Hoá thực phẩm – DH Vinh 30
phosphate , sodium sulphate… Các protein và mảnh vỡ tế bào có khả năng hòa tan
khác nhau giữa hai pha, vì vậy phương pháp pháp này có thể được dùng cho cả hai
trường hợp: phân tách protein khỏi mảnh vỡ tế bào và phân chia các enzyme trong
suốt quá trình tinh sạch protein. Hệ hai pha nước được xem là phương pháp tốt cho
việc phân tách và tinh sạch các hỗn hợp, vì phân tách chất lỏng có mật độ khác
nhau dễ dàng hơn phân tách các chất rắn ra khỏi các chất lỏng. So với các phương
pháp tinh sạch khác thì hệ hai pha nước có một số ưu điểm hơn như: có độ hòa tan
trong nước của hai pha lớn (70 – 80 5), đạt độ tinh sạch cao, hiệu suất cao, dễ dàng
sử dụng ở quy mô lớn và đặc biệt polymer được tái sử dụng.
Sự phân tách đạt hiệu quả cao tùy thuộc vào các thông số như khối lượng
phân tử và điện tích của đối tượng nghiên cứu, nồng độ và khối lượng phân tử của
các polymer, nhiệt độ, pH, thời gian, lực ion của hỗn hợp và sự hiện diện của các
loại muối đa hóa trị như phosphaste hoặc sulphate…
PHẦN IV. CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT ENZYME PROTEASE
4.1 Quy trình công nghệ lên men tạo enzyme protease
4.1.1 Giới thiệu chung
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, việc nuôi cấy vi sinh vật thường được thực hiện
theo phương pháp bề mặt. Phương pháp này được phát triển rất rỗng rãi, không chỉ
để thu nhận chế phẩm enzyme ma trước tiên đó là phương pháp thu nhận kháng
sinh và nột số quá trình lên men truyền thống.
4.1.2 Ưu và nhược điểm của phương pháp nuôi cấy bề mặt.
Phương pháp tạo điều kiện cho vi sinh v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tổng quan về Enzyme protease.pdf