Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 5
1.1. Những nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức 5
1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức ở Việt Nam hiện nay 9
1.3. Những nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao hiệu quả của
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức trong
xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay 17
1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục làm
rõ trong luận án 24
Chương 2: TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC 27
2.1. Khái niệm đạo đức, đạo đức công chức, đạo đức công chức theo
tư tưởng Hồ Chí Minh 27
2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức 41
2.3. Nội dung cơ bản của đạo đức công chức và những nguyên tắc
xây dựng đạo đức công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh 52
2.4. Giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức công chức 65
Chương 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
CÔNG CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÔNG
CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ
NGUYÊN NHÂN 70
3.1. Những nhân tố chủ yếu tác động đến việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức công chức trong xây dựng đạo đức công
chức hiện nay 70
164 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và vận dụng tư tưởng đó trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cạnh sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, kinh tế thị trường cũng tạo ra hệ
lụy là lối sống hưởng thụ. Lối sống này ảnh hưởng đến toàn xã hội ở những mức
độ khác nhau, trong đó có công chức nhà nước. Khi nhu cầu tiêu dùng vượt quá
khả năng kinh tế, vượt quá đồng lương của khu vực nhà nước, dễ dẫn đến tình
trạng công chức vì lợi ích cá nhân mà vi phạm pháp luật, vi phạm các giá trị đạo
đức, thực hiện những hành vi tiêu cực như hách dịch, cửa quyền nhằm tìm kiếm
lợi ích kinh tế cho bản thân, dẫn tới làm ăn phi pháp, biển thủ công quỹ, tham ô,
tham nhũng...
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, giá trị của con người thường được
đo bằng hiệu quả của hoạt động kinh tế nên trong quá trình thực thi công vụ đội
ngũ công chức dễ bị ảnh hưởng đến nhân cách theo hướng tư lợi. Trong cơ chế
này, giá trị truyền thống bị xem nhẹ, bị lãng quên, thói kiêu căng, hợm mình và
những thói xấu khác dễ xuất hiện. Khi đạo đức của công chức xuống cấp thì sẽ
làm giảm chất lượng của các cơ quan nhà nước, làm mất lòng tin của nhân dân
vào hoạt động quản lý nhà nước.
75
Thứ ba; trước những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, hội
nhập quốc tế cùng với những hạn chế yếu kém trong quản lý, điều hành, trong
việc giáo dục và rèn luyện cán bộ đảng viên, đâu đó đã xuất hiện những giá trị
vật chất lấn lướt những giá trị tinh thần, tư tưởng hưởng thụ, lợi ích nhóm, thu
vén cá nhân, ích kỷ bè phái, chạy chức, chạy quyền, đó là những biểu hiện của
chủ nghĩa cá nhân đang làm ảnh hưởng xấu đến những giá trị cao cả của người
cán bộ, đảng viên đã được hình thành, tôi luyện qua bao thăng trầm của cách
mạng, làm phương hại đến phẩm chất, uy tín của Đảng ta.
Cũng trong nền kinh tế thị trường, khi mà toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế ngày càng phát triển, thì các lực lượng thù địch, lực lượng phản động,
lưu vong ở nước ngoài dễ lợi dụng tìm cách mua chuộc, khống chế, dụ dỗ, lôi
kéo một bộ phận cán bộ, công chức vào con đường ăn chơi sa đọa, biến chất
về đạo đức để chúng dễ bề thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" phá hoại
cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa từ trong tổ chức Đảng và Nhà nước của
chúng ta.
Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan, tuy nhiên nó cũng
có những tác động tiêu cực đến đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức.
Chính vì vậy, cùng với sự phát triển của nền kinh tế chúng ta cần xây dựng và
hoàn thiện đạo đức của đội ngũ công chức để đáp ứng với yêu cầu của thực tiễn.
Thực tiễn xã hội cho thấy, bên cạnh những thành tựu mà công cuộc đổi
mới đạt được thì chúng ta đang đứng trước những thách thức không nhỏ, trong
đó tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức, thiếu ý thức trách nhiệm trong
thực thi công vụ của một bộ phận công chức nhà nước. Đại hội XII, Đảng ta đã
thẳng thắn chỉ ra rằng: "Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí chưa được bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp;
đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm trọng" [29, tr.61].
- Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan và ngày càng mở rộng, các quốc
gia dù muốn hay không, cũng đều chịu sự tác động của nó. Việt Nam là nước
76
đang phát triển, quá trình toàn cầu hóa tạo cho chúng ta những thời cơ thuận lợi
để phát triển, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Chúng ta có điều kiện thuận
lợi để mở rộng thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và nguồn lực bên ngoài
nhằm phát triển các ngành sản xuất mà ta có lợi thế, qua đó, thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế. Ngoài những tác động về kinh tế, toàn cầu hóa còn tác động tích
cực đến sự phát triển văn hóa. Nhờ tiếp thu những thành tựu công nghệ thông
tin, chúng ta có thể tiếp cập nhật được nhiều thông tin mới về tình hình thế
giới. Cũng qua đó, ý thức chính trị về các vấn đề trong nước và trên thế giới
cũng được nâng cao. Ở đây, các giá trị văn hóa nói chung, tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức công chức nói riêng được phát triển trong điều kiện mới và
cũng từ đây các quan niệm về đạo đức và đạo đức công chức, lối sống được bổ
sung, phát triển cho phù hợp với thời đại, vừa đậm đà truyền thống dân tộc vừa
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Điều này có tác dụng tích cực đến tư duy, lối
sống, đạo đức của người cán bộ công chức.
Những thay đổi trong đời sống kinh tế văn hóa, tinh thần theo hướng ngày
càng tất đẹp hơn làm người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thấy rõ đường lối, chính sách đổi mới của
Đảng đề ra là đúng đắn, theo kịp trào lưu của thời đại, phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân,
đưa nước ta lên một vị trí xứng đáng trên trường quốc tế. Tuy nhiên, toàn cầu
hóa một mặt, tạo cơ hội cho những tổ chức, cá nhân có năng lực phát huy
được tiềm năng của mình, đem lại lợi ích cho cá nhân và cho cả xã hội.
Nhưng mặt khác, toàn cầu hóa cũng đem đến tác động tiêu cực trong phát
triển kinh tế. Đó là việc đặt mục tiêu kinh tế lợi nhuận lên trên hết, do đó mà
một số tổ chức, cá nhân làm giàu bất chính bằng bất cứ giá nào. Điều đó góp
phần làm băng họai nền đạo đức xã hội, làm cho quan hệ giữa người với
người trở nên lạnh lùng, xa lạ, đây là một trong những nguyên nhân của sự
suy thóai đạo đức, lối sống của một số cán bộ, công chức. Toàn cầu hóa các
quan hệ kinh tế sẽ đưa lại sự hưởng thụ vật chất và tinh thần rẻ hơn, tiện nghi
phong phú hơn. Song mặt khác, chính sự giao thoa về văn hóa, sự tràn ngập
77
của hàng hóa đó đã tạo ra khả năng về sự tha hóa nhân cách, đạo đức, làm rối
loạn các giá trị truyền thống của dân tộc.
Một trong những tác động tích cực của toàn cầu hóa là việc soi chiếu các
giá trị đạo đức dưới góc độ cá nhân, phẩm chất cá nhân. Nhưng cũng chính mặt
tích cực này khi bị con người đẩy lên quá mức sẽ trở thành tiêu cực. Điều đó dẫn
đến việc đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích xã hội, coi lợi ích cá nhân là trên hết,
lúc đó, lợi ích tập thể sẽ bị lấn át, thậm chí bị phế bỏ, từ đó mà tham nhũng, lãng
phí ngày càng có cơ hội gia tăng, tham nhũng, lãng phí làm tha hóa phẩm chất
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, làm nảy sinh nhiều vấn đề
xã hội bức xúc, làm cho nhân dân lo lắng, bất bình và nguy hiểm hơn, đó là làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và chế độ
Như vậy, khi những chuẩn mực đạo đức truyền thống không được giữ vững
như là định hướng trong họat động của con người thì sự suy thoái là điều không
tránh khỏi. Vì vậy, việc giữ vững định hướng chính trị và định hướng giá trị tinh
thần trong thực tiễn xây dựng đất nước, cũng như trong họat động thực tiễn đạo đức
là yêu cầu cấp thiết để góp phần ngăn chặn sự suy thóai và nguy cơ suy thóai đạo
đức của một bộ phận cán bộ, công chức trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
3.1.2. Nhân tố chủ quan
Một là, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức công chức
Một trong bốn nhóm giải pháp mà Nghị quyết số 12/NQ-TW về Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay được Hội nghị lần thứ tư Ban chấp
hành Trung ương khóa XI thông qua xác định: "Đẩy mạnh học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những giải pháp quan trọng để
thực hiện Nghị quyết". Nhằm kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán
bộ, đảng viên, ngăn chặn tình trạng cán bộ đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện,
giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân
dân, bên cạnh những giải pháp về phê bình và tự phê bình; công tác tổ chức cán
bộ; về cơ chế chính sách; cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng
78
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 05/CT-TW của Bộ
Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh.
Những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước thời gian qua
luôn gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên; gắn với việc rèn luyện
phong cách làm việc mới theo gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong công cuộc
đổi mới đó, đa số cán bộ, đảng viên đã thực hiện tốt phương châm "nói đi đôi với
làm", nêu gương trước cấp dưới. Tuy vậy, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng
viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít,
nói hay làm dở, nói mặt đằng làm một nẻo Một số cán bộ, đảng viên là cấp ủy
viên, cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý còn có những biểu hiện thiếu tinh thần
trách nhiệm, cố ý làm trái đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, quan liêu, tham nhũng, chuyên quyền, độc đoán, hống hách với
nhân dân Tình trạng này không những làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối
với Đảng, mà còn làm cho kỷ cương, phép nước bị coi thường. Thực tế này vừa
phản ánh phong cách làm việc chưa đáp ứng được yêu cầu mới, vừa phản ánh sự
yếu kém về năng lực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong phong cách làm việc, thực
hiện có hiệu quả nói đi đôi với làm, góp phần xây dựng phong cách làm việc của
cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay, các cấp ủy, chính
quyền, các tổ chức đoàn thể cần tiếp tục đổi mới giáo dục, nâng cao nhận thức cho
cán bộ, đảng viên về tư tưởng, tấm gương đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tinh giảm biên chế, khắc phục sự suy thoái đạo
đức Đảng. Xây dựng môi trường xã hội lành mạnh điều kiện thuận lợi cho công
tác giáo dục đạo đức, xây dựng đạo đức cho người công chức hiện nay.
Hai là, việc xây dựng đạo đức công chức phụ thuộc vào nỗ lực của chính
đội ngũ công chức trong rèn luyện, phấn đấu xây dựng đạo đức công vụ.
Đây là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng, tác động đến việc hình thành
và nâng cao đạo đức công vụ. Nâng cao đạo đức công vụ. Nó giữ vai trò quết
79
định trực tiếp vì sự tác động tích cực của các chủ thể đến đội ngũ công chức chỉ
có ý nghĩa khi bản thân công chức biết tự giác học tập và rèn luyện đạo đức công
chức theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
Sủa đổi lối làm việc đã từng căn dặn: "việc học phải lấy tự học làm cốt". Vì thế
việc tự giác học tập và rèn luyện tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong xây dựng đạo đức công chức của chính đội ngũ này là không thể
thiếu. Người công chức nếu không chú tâm tới việc tự rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức cách mạng thì sẽ không thể thực hiện tốt nghĩa vụ của mình trước Đảng,
Nhà nước và nhân dân, thậm chí còn bị tha hóa, biến chất trước sự tác động đa
chiều của đời sống xã hội.
Đội ngũ công chức nước ta mang trong mình truyền thống, đạo đức tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam sẵn sàng phục vụ nhân dân, Tổ quốc một cách vô điều
kiện. Mặc dù vậy, trong xã hội vẫn tồn tại nhiều thói quen, tâm lý cần sớm được
loại bỏ, như: dùng vật chất (tiền, quà biếu) để chi phối người khác; hành vi
"chạy chức, chạy quyền"; tâm lý thích khoa trương tiền bạc, thế lực vẫn đang
hàng ngày, hàng giờ tác động đến đội ngũ công chức nhà nước và đã "đốn ngã"
không ít cán bộ, công chức, làm cho đạo đức công chức ít nhiều bị suy giảm.
3.2. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức trong xây dựng đạo đức công chức ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Những thành tựu đạt được trong việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng đạo đức công chức và nguyên nhân của nó
3.2.1.1. Thành tựu trong nhận thức và xác định các chương trình học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
Tại Đại hội lần thứ II (1951), Đảng ta khẳng định: Toàn Đảng hãy ra sức
học tập đường lối chính trị, tác phong và đạo đức của Hồ Chủ tịch; sự học tập ấy
là điều kiện tiên quyết làm cho Đảng mạnh, và làm cho cách mạng đi mau đến
thắng lợi hoàn toàn. Thực hiện Nghị quyết Đại hội, toàn Đảng ra sức học tập tư
tưởng, đạo đức của Người, lãnh đạo xây dựng khối đoàn kết dân tộc, đưa cuộc
kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi.
Nghị quyết 195-NQ/TW của Bộ Chính trị Khóa III (6 - 3 - 1970)
mở Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ
80
Chí Minh. Nghị quyết yêu cầu: "Tất cả các đảng viên phải tham gia lớp nghiên
cứu các tác phẩm của Hồ Chủ tịch". Lần đầu tiên trong Nghị quyết của mình,
Đảng ta yêu cầu mọi đảng viên phải nghiên cứu các tác phẩm của Hồ Chí Minh
và coi đây là biện pháp có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao năng lực
nhận thức, tư duy, là phẩm chất đạo đức của người đảng viên.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Tổng Bí thư
Trường Chinh trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(1986) nhấn mạnh: Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư
tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại hội VII (1991), vấn đề nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh từng bước
được đẩy lên một bước mới, tuy chưa thật hệ thống và sâu sắc, nhưng những kết
quả bước đầu đã tạo tiền đề cho các nhà khoa học, cán bộ, đảng viên và nhân dân
nghiên cứu, tìm hiểu ở những giai đoạn tiếp sau. Cương lĩnh và Báo cáo chính
trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thông qua tại Đại hội VII khẳng định:
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
Sau Đại hội VII, Đảng ta tiếp tục có các nghị quyết trực tiếp hoặc gián
tiếp đề cập tới công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, nổi bật là Nghị quyết
09-NQ/TW (2-1995) của Bộ Chính trị Về một số định hướng lớn trong công tác
tư tưởng hiện nay khẳng định lại: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng
Việt Nam.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Đảng ta rút ra một số
bài học chủ yếu: "Trong quá trình đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh" [22, tr.14].
Nghị quyết Đại hội cũng khẳng định lại nhiều vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được nêu ở các Nghị quyết trước đây của Đảng và nhấn mạnh việc thường xuyên
81
bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh; coi việc học tập là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ,
đảng viên; đồng thời coi trọng việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho thế hệ trẻ.
So với các Đại hội trước, Đại hội VIII đã có những định hướng nghiên
cứu, bồi dưỡng, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối cụ thể. Nghị quyết
trung ương 2 (khóa VIII) tiếp tục quan điểm đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào
giảng dạy trong hệ thống nhà trường: Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư
tưởng, đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa việc giảng dạy tư
tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù với lứa tuổi và từng bậc học, bước đầu
hình thành được khái niệm và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh; góp phần quan
trọng vào cuộc đấu tranh, phê phán, bác bỏ sự xuyên tạc của các thế lực thù địch
trên lĩnh vực tư tưởng - lý luận và tạo cơ sở dữ liệu, nội dung, phương pháp
nghiên cứu cho sự ra đời một chuyên ngành khoa học mới - chuyên ngành Hồ
Chí Minh học.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001) đưa ra khái
niệm tương đối hoàn chỉnh về tư tưởng Hồ Chí Minh và nhấn mạnh: "Tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại" [23, tr.20]. Ðể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ phát triển mới, Đảng chỉ rõ: cần thấm nhuần sâu sắc, vận
dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những vấn đề nóng bỏng mà thực
tiễn đang đặt ra; nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
phải trở thành một nhiệm vụ mấu chốt của công tác tư tưởng của Ðảng, cần
được toàn Ðảng thực hiện chặt chẽ, có chất lượng và hiệu quả.
Với tinh thần và ý nghĩa đó, ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị
số 23-CT/TW "về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ
82
Chí Minh trong giai đoạn mới" và nhân dịp kỷ niệm 113 năm Ngày sinh của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã phát động tổ chức đợt tuyên truyền, giáo dục sâu
rộng tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ thị còn đề ra mục đích, yêu cầu, đối tượng
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, vạch ra nội
dung, nhiệm vụ công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ CHí Minh và
việc tổ chức thực hiện.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) tiếp tục khẳng định:
"Sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta 76 năm qua đã khẳng định
rằng, tư tưởng vĩ đại của Người cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin mãi mãi là nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là
tài sản tình thần vô giá của Đảng và dân tộc ta" [24, tr.6].
Ngày 3 - 2 - 2007, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06 - CT/TW về tổ chức Cuộc
vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong toàn
Đảng, toàn dân. Chỉ thị ra đời nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu
sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biển mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng,
rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã
hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Đây là một
chủ trương lớn vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh tình hình hiện nay, vừa có
ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước tình hình thế giới và khu vực vẫn diễn biến phức tạp, khó lường,
bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, nhất là nguy cơ chệch hướng
xã hội chủ nghĩa, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn biến phức tạp, Đại
hội XII của Đảng đã đặt nhiệm vụ "tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh" ở vị trí hàng đầu trong mục tiêu tổng quát của Đại hội. Nội dung xây
dựng Đảng về đạo đức đã được đã được bổ sung thành một thành tố trong "xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức".
Đại hội cũng đặt ra yêu cầu tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh; coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức
Đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị,
83
gắn với chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng,
phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong việc thực
hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khoá XI về "Tiếp tục đẩy mạnh học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ
thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh. Theo đó, Bộ Chính trị yêu cầu toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành
động trong Đảng, hệ thống chính trị và nhân dân, đưa việc học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thành công việc tự giác,
thường xuyên của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của từng địa phương, cơ quan, đơn
vị, trước hết là của người đứng đầu, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức, đoàn viên, hội viên.
Những thành tựu nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức những năm qua có thể khái quát lại như sau:
Một là, từ những đổi mới nhận thức của Đảng và hoạt động thực tiễn công
tác nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức thời gian
qua, đa số cán bộ công chức đã nhận thức rõ hơn về ý nghĩa, tầm quan trọng của
đạo đức công chức; trách nhiệm tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức
công chức và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nhận thức về các nội
dung cơ bản của tư tưởng đạo đức cán bộ công chức Hồ Chí Minh cũng như tấm
gương đạo đức trong sáng của Người được nâng lên rõ rệt. Những giá trị to lớn
của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, như: "Trung với nước, hiếu với dân", "Cần
kiệm, liêm chính, chí công, vô tư", "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân"; tấm gương sáng ngời "Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục
vụ nhân dân"; "Xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn
minh"... của Người được tuyên truyền và thực hiện.
84
Qua thực tế triển khai cuộc vận động, đa số cán bộ, công chức nhận thức
rõ hơn việc học tập thấm nhuần và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là
công việc thiết thực với mỗi người, đem lại lợi ích cho mình, cho gia đình, quê
hương, đất nước... Nhiều người đã thấy rõ việc nghiên cứu, học tập và làm theo
tư tưởng đạo đức cán bộ công chức của Hồ Chí Minh không thể là một phong
trào, làm một lần là xong mà phải kiên trì, tiến hành lâu dài, phát huy sức mạnh
của toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị, trước hết là trong Đảng, trong đội ngũ
cán bộ công chức. Từ đó, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của tư tưởng về
đạo đức cán bộ, công chức của Hồ Chí Minh và giá trị hiện thời của nó.
Hai là, nội dung giáo dục xây dựng đạo đức công chức đã từng bước bám
sát tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Ở đây, các chủ thể giáo dục đã vận dụng
sáng tạo trong sự định hướng những phẩm chất mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức công chức trong điều kiện cụ thể phải gắn với từng lĩnh vực, từng cán
bộ các cấp, các ngành khác nhau. Những khái niệm trung hiếu, cần, kiệm, liêm,
chính , chí công vô tư, yêu thương con người, tinh thần đoàn kết, ý chí phục vụ
nhân dân đã dần dần đi vào cuộc sống hàng ngày của người cán bộ công chức
Việt Nam. Chẳng hạn, giáo dục trung với nước, hiếu với dân cho cán bộ công
chức là giáo dục lòng yêu nước, yêu tổ quốc, yêu nhân dân, quý trọng nhân dân, học
tập và phục vụ lợi ích chính đáng của nhân dân, vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ, công bộc của dân. Thành quả nâng cao nhận thức trong cán bộ, công chức
còn đã góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng và từng cơ
quan, đơn vị, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết các Đại hội Đảng.
Trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, vấn đề đạo đức, giáo dục, rèn
luyện đạo đức được quan tâm hơn; nội dung cuộc vận động đã được quán triệt trong
đơn vị, cơ quan, tác động thường xuyên đối với cán bộ, đảng viên.
Ba là, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức hướng vào
việc hình thành người công chức phát triển toàn diện, phong phú, giúp họ đứng
vững trước tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Quá
trình nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức từ trung
ương đến địa phương, đã có nhiều hình thức phong phú, với những việc làm cụ
85
thể, thiết thực. Nhờ đó, những năm qua, đội ngũ cán bộ công chức đã có những
chuyển biến tích cực về đạo đức công vụ, lối sống, phong cách làm việc với nhân
dân. Cũng từ đó, xuất hiện nhiều tập thể, cá nhân cán bộ công chức có thành tích
xuất sắc trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được phát
hiện, biểu dương và được xã hội ghi nhận.
3.2.1.2. Thành tựu vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức
được thể hiện trong các văn bản pháp luật về cán bộ, công chức
Ngay từ ngày đầu thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng, Nhà
nước ta đã quan tâm sâu sắc đến hoạt động công vụ và đội ngũ cán bộ, công
chức. Pháp lệnh cán bộ, công chức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông
qua ngày 26-2-1998, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số 02/L-CTN ngày 9-3-
1998 và có hiệu lực từ ngày 1-5-1998 là sự thể chế hóa đường lối, chính sách
cán bộ của Đảng trong tình hình mới, là cơ sở pháp lý để xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức tốt, có tài năng, hết lòng phục vụ
nhân dân. Trải qua nhiều thời kỳ khác nhau, đội ngũ cán bộ, công chức đã từng
bước trưởng thành, công tác quản lý đã dần đi vào nền nếp, góp phần tích cực
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 1998, Nhà nước đã ban hành
Pháp lệnh cán bộ, công chức (được sửa đổi, bổ sung năm 2000 và năm 2003) là
cột mốc pháp lý quan trọng để tổ chức và quản lý các hoạt động công vụ và đội
ngũ cán bộ, công chức, xây dựng nền hành chính ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_dao_duc_cong_chuc_va_van_dung_tu_tuo.pdf