tôn kính giữa con cháu đối với tổ tiên được
thể hiện qua các nghi lễ thờ cúng. Người Sán
Dìu không có tục cúng theo ngày giỗ của
người chết mà cúng vào các dịp lễ tiết, lúc gia
đình có việc đại sự hay cần đến sự phù hộ,
che chở của tổ tiên.
Nghi thức cúng tế tổ tiên thường do chủ gia
đình hoặc con trai trưởng chủ trì. Trước đây,
đối với phụ nữ góa chồng không có con trai
hoặc con trai còn nhỏ trong những dịp lễ tiết,
gia đình có việc quan trọng phải nhờ thầy
cúng hoặc người đàn ông trong họ thực hiện.
Dân tộc Sán Dìu thờ cúng tổ tiên vào những
dịp sau đây:
Ngày mồng 1và 15 rằm hàng tháng: Trong
những ngày này tục lệ của người Sán Dìu ở
Đồng Hỷ cũng giống với một số tộc người
khác, lễ vật chủ yếu là: hương, trà và bánh
trái, hoa quả tùy vào điều kiện và hoàn
cảnh của mỗi gia đình mà có sự khác nhau.
Vào các dịp lễ tiết trong năm: Tết Nguyên
đán, Tết Thanh minh, Tết Mồng tám tháng tư,
Tết Đoan ngọ, Tết Vu Lan, Tết mừng cơm
mới, Tết Trung thu, Tết mồng 10 tháng 10,
Tết Đông chí người Sán Dìu đều làm mâm
cỗ, các loại bánh rất thịnh soạn để cúng tổ
tiên, đặc biệt là dịp tết cổ truyền (tết Nguyên
đán). Gần đến ngày tết, người ta tiến hành lau
dọn bàn thờ gia tiên sạch sẽ và trang trí lại
cho tươm tất. Ngày 30 tết, hầu hết đồng bào
đều gác lại các công việc để chuẩn bị mâm
cơm cúng tổ tiên. Lễ vật được bày lên bàn
thờ, chủ nhà thắp hương và thỉnh các vị tổ
tiên: “Chú công chú phô, song chú công song
chú phô, hạ chú công hạ chú phô; song ốc hạ
ốc; song vọng hạ vọng, ết cạ sọi thong, nghi
cạ sọi thong ” (Thượng tổ ông thượng tổ bà,
trung tổ ông trung tổ bà, hạ tổ ông hạ tổ bà;
nhà trên nhà dưới; vòng trên vòng dưới; một
ở trong bát hương hai ở ngoài bát hương )
về ăn tết cùng con cháu [8]. Sau khi hoàn tất
các nghi thức, mâm lễ được hạ xuống đông đủ
con cháu cùng quây quần bên mâm cơm tất
niên trước sự chứng kiến của tổ tiên. Trong ba
ngày tết, trong gia đình lúc nào cũng phải có
người túc trực đèn nhang, điều đó thể hiện
lòng thành kính sâu sắc của con cháu đối với
gia tiên
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 771 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Tục thờ cúng tổ tiên của người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khăn, trong quá trình 
cộng cư với các dân tộc anh em, họ đã hình thành và bảo tồn những giá trị văn hóa độc đáo của tộc 
người mình, vừa mang nét chung vừa chứa đựng những yếu tố riêng biệt. Thờ cúng tổ tiên là thành 
tố văn hóa gắn bó mật thiết và tồn tại lâu đời trong đời sống đồng bào. Trải qua những biến động 
lịch sử, tác động của các hoàn cảnh xã hội khác nhau, tục thờ cúng tổ tiên của người Sán Dìu ở 
Đồng Hỷ mặc dù có sự biến đổi, song hoạt động tín ngưỡng này vẫn chiếm một vị trí quan trọng 
trong đời sống của người dân, được xem như bệ đỡ tinh thần, phát huy những giá trị cao đẹp trong 
cộng đồng tộc người. 
Từ khóa: Thờ cúng tổ tiên, Tín ngưỡng dân gian, Tôn giáo tín ngưỡng, Văn hóa tinh thần, Đồng Hỷ. 
VÀI NÉT VỀ NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN 
ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN* 
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 
2009, người Sán Dìu ở Đồng Hỷ có 16.223 
người chiếm 15% dân số toàn huyện (106.769 
triệu người). Địa bàn cư trú của họ chủ yếu ở 
chân núi và vùng đồi núi thấp, đông nhất là ở 
các xã: Nam Hòa (5.923 người), Tân Lợi 
(2.835 người), Linh Sơn (2.828 người), Minh 
Lập (1.376 người), Hóa Trung (1.021 người); 
ít nhất là ở Hòa Bình (19 người), Tân Long 
(22 người), Văn Lăng (26 người). So với các 
huyện trên địa bàn tỉnh, Đồng Hỷ là nơi tập 
trung người Sán Dìu cư trú vào loại đông 
nhất, trong đó có duy nhất hai xã Nam Hòa và 
Tân Lợi chiếm trên 40% dân số cư trú của cả 
tỉnh. Họ sống xen kẽ với các cư dân trong 
vùng, kề cạnh người Kinh nên ở họ có hiện 
tượng đa ngữ, đa văn hóa. 
Người Sán Dìu từ lâu đã có “tên tự nhận là 
San Déo Nhín, theo âm Hán Việt là Sơn Dao 
Nhân” [2,tr.15]. Nhưng các Dân tộc khác lại 
căn cứ vào một số đặc điểm về: canh tác, loại 
hình nhà ở hoặc một đặc điểm nào đó trong y 
phục để gọi họ theo những tên gọi khác nhau 
như: Trại đất, Trại ruộng, Trại cộc, Mán Quần 
Cộc, Mán váy Xẻ, Sán Nhiêu, Slán DaoTộc 
danh Sán Dìu được ghi trong văn bản Nhà 
*
 ĐT:0982050611; Email:Hongvinh.dhkhtn@gmail.com 
Nước như một tên gọi chính thức vào năm 
1960 khi Tổng Cục Thống Kê Trung ương 
ban hành quyết định “Danh mục thành phần 
các dân tộc Việt Nam”, đến nay tên Sán Dìu 
là tên gọi chính thức trong nhân dân và các 
dân tộc. Ở Thái Nguyên, trước năm 1960 cái 
tên Trại Đất được nhân dân sử dụng phổ biến 
để chỉ người Sán Dìu. Các dân tộc ở Đồng Hỷ 
vẫn quen gọi họ là “người Trại”. 
Dân tộc Sán Dìu di cư sang Việt Nam từ 
khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh vào thế 
kỷ XVII thành từng đợt, từng nhóm và có mặt 
ở Việt Nam cách ngày nay khoảng 300 năm. 
Người Sán Dìu đến sinh sống và định cư ở 
Đồng Hỷ cách ngày nay khoảng 200 năm. 
Theo gia phả của ông Lê Hữu Nhất, người xã 
Dân Chủ, huyện Đồng Hỷ cho biết: “Tổ tiên 
của ông trước đây ở thôn Phong Lưu, xã 
Bách La, huyện Phương Thành, Tỉnh Quảng 
Đông vào Việt Nam từ đời Càn Long (1777 - 
1782)” [2, tr.19]. 
Dân tộc Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và 
huyện Đồng Hỷ nói riêng, là những cư dân 
làm nghề nông trồng lúa nước ở vùng nhiệt 
đới gió mùa. Nền kinh tế tiểu nông theo kiểu 
tự cung tự cấp đã tồn tại lâu dài trong xã hội. 
Mỗi một gia đình là một cơ sở kinh tế độc 
lập, sản xuất và tiêu thụ. Các thành viên trong 
gia đình gắn bó chặt chẽ với nhau trong lao 
động sản xuất và lấy gia đình là trung tâm. 
Ngay từ thời xa xưa, con người ở đây, cũng 
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 161 - 167
162 
như nhiều tộc người khác chịu ảnh hưởng của 
quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ âm – dương 
tương khắc tương sinh, sự giao hòa đầy bí ẩn 
giữa âm dương là nguồn gốc sản sinh ra con 
người và vạn vật của vũ trụ. Họ tin rằng vạn 
vật có linh hồn. Chính vì vậy, con người khi 
chết đi có nghĩa là chuyển sang sinh sống ở 
một thế giới khác, họ luôn có mối quan hệ 
mật thiết, phù giúp, che chở hoặc quở trách 
người sống nếu không thờ cúng chu đáo. Thờ 
cúng tổ tiên xuất hiện và tồn tại cùng với tộc 
người trong quá trình lịch sử. 
Tìm hiểu về tục thờ cúng tổ tiên của tộc người 
Sán Dìu ở Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, tác 
giả muốn góp thêm nguồn tư liệu về đời sống 
tín ngưỡng của người Sán Dìu ở nơi đây. 
TỤC THỜ CÚNG TỔ TIÊN 
Tục thờ cúng tổ tiên là một nét văn hóa cao 
đẹp của hầu hết các dân tộc cư trú trên đất 
nước ta như Phan kế Bính đã từng nhận xét: 
“Xét cái tục phụng sự tổ tiên của ta rất là 
thành kính, ấy cũng là một lòng bất vong bản, 
ấy cũng là nghĩa cử của con người”[4, tr.25]. 
Phong tục ấy không chỉ thể hiện truyền thống 
“uống nước nhớ nguồn” mà còn mang giá trị 
giáo dục sâu sắc cho các thế hệ. Việc cùng 
nhau bày tỏ lòng thành kính trước tổ tiên, các 
thành viên trong gia đình càng thắt chặt thêm 
sợi dây huyết thống. Thờ cúng tổ tiên là hình 
thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ 
cúng nhằm xác lập "mối liên hệ" giữa người 
sống với người chết, giữa người ở thế giới 
hiện tại và thế giới tâm linh; là sự thể hiện 
quan niệm nhân sinh của người Việt Nam: 
"Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn". 
Theo quan niệm của người Sán Dìu, thực thể 
của con người gồm hai bộ phận: hồn và thể 
xác, khi con người sống khỏe mạnh cũng có 
nghĩa là xác và hồn gắn với nhau, khi hồn lìa 
khỏi xác một thời gian con người sẽ bị ốm 
đau, bệnh tật; nhưng nếu hồn lìa khỏi xác 
vĩnh viễn tức là con người đã chết. Khi con 
người chết đi không còn thể xác cho hồn trú 
ngụ, hồn sẽ chuyển sang hồn ma. Hồn ma 
được phân chia ở ba nơi: phần thứ nhất gọi là 
linh hồn được sự dẫn dắt của thầy cúng siêu 
thoát lên trời; phần thứ hai gọi là thần hồn ở 
trên bàn thờ tổ tiên; phần thứ ba gọi là tâm 
hồn ở nghĩa địa. Người chết từ bỏ thế giới 
trần gian nhưng sẽ tiếp tục sống ở thế giới bên 
kia và họ cũng cần có cuộc sống đầy đủ như 
khi còn sống. Hồn người chết được quan 
niệm là ma “Cúi”. Tổ tiên mà họ có nghĩa vụ 
thờ cúng là ma lành “hén cúi” luôn che chở, 
phù hộ cho con cháu. Tuy nhiên, tổ tiên có thể 
gây ra những tai họa khi không được thờ 
phụng chu đáo. 
1. Vị trí, cách bài trí Bàn thờ và đối tượng 
thờ cúng 
Vị trí, cách bài trí Bàn thờ: Bàn thờ của 
người Sán Dìu được đặt ở trung tâm ngôi nhà 
(gian giữa), bên cạnh là chỗ ngủ của chủ nhà. 
Ở đây chúng tôi không đi miêu tả chi tiết thiết 
chế bàn thờ nói chung mà nhằm khảo tả sự 
khác biệt trong cách bài trí bàn thờ của từng 
đối tượng khác nhau. 
Đối với gia đình bình thường chỉ có hai bát 
hương: bát hương Tổ tiên và bát còn lại thờ 
ông Táo. Trên bàn thờ có treo thêm ảnh thờ tổ 
tiên (chủ yếu từ đời thứ ba hoặc thứ hai trở 
xuống) và trang trí câu đối, tranh bốn mùaở 
hai bên. 
Gia đình làm thầy cúng thường đặt ba bát 
hương ngoài bát hương Tổ tiên và ông Táo 
còn có bát hương của Tổ sư. Trên đó, không 
thể thiếu bộ đồ hành nghề của người thầy 
cúng bao gồm: tù và, ấn tín, án, thẻ xin âm 
dương, não bạt, sách cúng trong dịp tết 
Nguyên đán người ta thường treo tranh Tam 
Thanh (Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thái 
Thanh). 
Với những gia đình có người mất chưa được 
làm ma, người ta lập một bàn thờ đơn giản ở 
cạnh bàn thờ tổ tiên trên đó có đặt một bát 
hương và ảnh người chết. Mỗi ngày ba bữa 
con cháu làm cơm, thắp hương gọi hồn người 
mất về dùng bữa. Sau 100 ngày nếu tang chủ 
chưa có điều kiện làm ma bát hương đó sẽ 
được đặt lên bàn thờ chính nhưng thấp hơn 
bát hương tổ tiên. Nếu theo cách giải thích 
của Toan Ánh: “Sở dĩ lập bàn thờ riêng là 
tiện cho việc cúng bái hàng ngày và hàng 
tuần từ sơ thất đến thất thất” [1, tr.82]. Đối 
với người Sán Dìu, nguyên nhân của việc lập 
bàn thờ riêng không đơn giản là để thuận tiện 
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 161 - 167
163 
cho thờ cúng, tục lệ này liên quan đến quan 
niệm của tộc người trong tang ma. Theo họ: 
“người chết chưa được làm ma,còn rất bẩn vì 
bụi trần không được về cùng với tổ tiên (Cui 
chông cáp chú, ken bọi chú công hị lộ sệch)” 
[3,tr.267] chỉ sau khi làm ma mới được nhập 
chung vào với bát hương của tổ tiên ở trên 
bàn thờ. 
Với trường hợp thờ họ ngoại, bàn thờ được 
ngăn ở giữa bằng một tấm phên một bên là họ 
nội và một bên là họ ngoại, khi cúng tế bao 
giờ cũng có hai mâm lễ vật. Ngày nay, có 
những nơi họ chuyển từ thờ một đời sang thờ 
vĩnh viễn thông qua nghi lễ làm hợp đồng và 
khi đó tấm phên ngăn cách giữa hai họ được 
dỡ bỏ. 
Đối tượng thờ cúng: Tùy theo từng dòng họ 
mà tổ tiên được thờ từ 7 đời cho tới 10 hoặc 
12 đời, nhưng sự linh ứng thường tính đến đời 
thứ ba (cụ, ông bà, cha mẹ). Chính vì vậy khi 
cầu khấn tổ tiên, người ta thường mời: 
Thượng tổ (cụ), Trung tổ (ông bà), Hạ tổ (cha 
mẹ). Ma từ đời thứ tư trở đi coi như ma gia 
trạch, họ thờ ở cửa chính mà đồng bào gọi là 
thần cửa “sẩn món” để trông nom nhà cửa 
tránh sự xâm nhập của các loại ma quỷ làm 
hại đồng thời có nhiệm vụ trông giữ, bảo vệ 
gia súc trong gia đình. Ma gia trạch chỉ cúng 
vào một số dịp lễ tiết trong năm, chủ yếu là 
dịp tết Nguyên đán... 
Trong hôn nhân người Sán Dìu tồn tại 
nguyên tắc ở rể đời, đồng thời Đồng Hỷ là 
nơi xuất hiện nhiều luồng di cư và nhập cư 
của các tộc người khác nhau, đặc biệt người 
Kinh ở miền xuôi lên, do vậy hiện tượng ở rể 
khá phổ biến. Người đàn ông đến ở rể, nếu 
gia đình bố mẹ vợ không có con trai hoặc 
con trai mất đi, anh ta phải đảm nhận trọng 
trách của người con trưởng trong gia đình 
thờ phụng tổ tiên nhà vợ. 
2. Các nghi lễ thờ cúng: Mối liên hệ bền chặt 
và tôn kính giữa con cháu đối với tổ tiên được 
thể hiện qua các nghi lễ thờ cúng. Người Sán 
Dìu không có tục cúng theo ngày giỗ của 
người chết mà cúng vào các dịp lễ tiết, lúc gia 
đình có việc đại sự hay cần đến sự phù hộ, 
che chở của tổ tiên. 
Nghi thức cúng tế tổ tiên thường do chủ gia 
đình hoặc con trai trưởng chủ trì. Trước đây, 
đối với phụ nữ góa chồng không có con trai 
hoặc con trai còn nhỏ trong những dịp lễ tiết, 
gia đình có việc quan trọng phải nhờ thầy 
cúng hoặc người đàn ông trong họ thực hiện. 
Dân tộc Sán Dìu thờ cúng tổ tiên vào những 
dịp sau đây: 
Ngày mồng 1và 15 rằm hàng tháng: Trong 
những ngày này tục lệ của người Sán Dìu ở 
Đồng Hỷ cũng giống với một số tộc người 
khác, lễ vật chủ yếu là: hương, trà và bánh 
trái, hoa quả tùy vào điều kiện và hoàn 
cảnh của mỗi gia đình mà có sự khác nhau. 
Vào các dịp lễ tiết trong năm: Tết Nguyên 
đán, Tết Thanh minh, Tết Mồng tám tháng tư, 
Tết Đoan ngọ, Tết Vu Lan, Tết mừng cơm 
mới, Tết Trung thu, Tết mồng 10 tháng 10, 
Tết Đông chí người Sán Dìu đều làm mâm 
cỗ, các loại bánh rất thịnh soạn để cúng tổ 
tiên, đặc biệt là dịp tết cổ truyền (tết Nguyên 
đán). Gần đến ngày tết, người ta tiến hành lau 
dọn bàn thờ gia tiên sạch sẽ và trang trí lại 
cho tươm tất. Ngày 30 tết, hầu hết đồng bào 
đều gác lại các công việc để chuẩn bị mâm 
cơm cúng tổ tiên. Lễ vật được bày lên bàn 
thờ, chủ nhà thắp hương và thỉnh các vị tổ 
tiên: “Chú công chú phô, song chú công song 
chú phô, hạ chú công hạ chú phô; song ốc hạ 
ốc; song vọng hạ vọng, ết cạ sọi thong, nghi 
cạ sọi thong” (Thượng tổ ông thượng tổ bà, 
trung tổ ông trung tổ bà, hạ tổ ông hạ tổ bà; 
nhà trên nhà dưới; vòng trên vòng dưới; một 
ở trong bát hương hai ở ngoài bát hương) 
về ăn tết cùng con cháu [8]. Sau khi hoàn tất 
các nghi thức, mâm lễ được hạ xuống đông đủ 
con cháu cùng quây quần bên mâm cơm tất 
niên trước sự chứng kiến của tổ tiên. Trong ba 
ngày tết, trong gia đình lúc nào cũng phải có 
người túc trực đèn nhang, điều đó thể hiện 
lòng thành kính sâu sắc của con cháu đối với 
gia tiên. 
Khi gia đình có việc đại sự như: cưới xin, ma 
chay, làm nhà mới, lễ Kỳ yên, giải hạn hay 
có thành viên mới chào đời người ta đều bày 
cỗ mời tổ tiên về chứng dám và phù hộ. 
Đám cưới của người Sán Dìu xưa kia diễn ra 
trong nhiều ngày với các nghi lễ khác nhau tất 
cả những nghi lễ đó hầu hết họ đều thắp 
hương, cúng tổ tiên: từ nghi lễ xin cưới, ăn 
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 161 - 167
164 
hỏi, gánh gà, cho đến lễ cưới. Chẳng hạn: Sau 
khi xem lá số xong nhà trai nhờ ông mối 
mang sang nhà gái thông báo, khi đến nơi ông 
mối đặt lễ vật lên bàn thờ để báo cáo với tổ 
tiên việc xem lá số đã thành công; khi rước 
dâu về, việc đầu tiên cô dâu chú rể phải vào 
thắp hương trình báo với ông bà tổ tiên 
Ngày vui của người sống đồng thời cùng là 
ngày vui của người đã khuất, trong đám cưới 
ngoài những câu hát chúc mừng cô dâu chú rể 
và gia chủ, trong làn điệu Soọng cô của 
người Sán Dìu còn thể hiện lời chúc mừng 
đối với tổ tiên: 
“Xin hát bài ca chúc tổ tiên 
Tổ tiên tọa trên bát hương 
Đêm nay nhà ta có đám cưới 
Con cháu hôm nay do tổ tiên truyền” 
 [3,tr.225]. 
Trong trường hợp gia đình có người mất, con 
cháu phải thắp hương thông báo với tổ tiên 
sau đó mới thực hiện các nghi thức đám tang. 
Với những gia đình làm nhà mới, Sau khi 
chọn được ngày đẹp người ta khiêng bàn thờ 
vào trong nhà và từ đó thắp hương liên tục, 
không được để tắt, cứ hết một tuần hương lại 
rót thêm tuần trà, rượu. Gia chủ chuẩn bị 
mâm cơm khấn báo tổ tiên đã hoàn tất ngôi 
nhà mời các vị: thần, tổ tiên về an tọa. Mỗi 
khi con cháu ra ở riêng, tổ tiên cũng được 
phân chia, thờ tại mỗi gia đình. Họ thường lấy 
cát ở sông đãi thật sạch cho vào bát hương, 
ngày nay do ở các dòng sông bị ô nhiễm nên 
thay bằng vỏ đỗ xanh hoặc trấu đốt thành gio 
để dùng. 
Gia đình có thành viên mới chào đời, trong ba 
buổi sáng đầu tiên cúng mụ đồng thời người 
ta cũng thắp hương, bày mâm cỗ cúng nhằm 
cầu mong tổ tiên phù hộ cho đứa trẻ được 
ngoan ngoãn, khỏe mạnh. 
Ngoài ra, cũng giống như các tộc người khác 
với các trường hợp ốm đau bất thường; có 
người đi xa, thi cử người Sán Dìu cũng 
thắp nén nhang cầu khấn sự phù hộ của gia 
tiên. Đặc biệt trước cách mạng tháng tám, ở 
một số nơi khi nhà có con trâu cái đẻ, người 
ta cũng làm mâm cơm cúng tổ tiên để cầu 
mong sự che chở phù hộ [9]. 
Như vậy, trong gia đình bất cứ sự việc gì hầu 
hết người ta đều báo cáo, cầu cứu đến sự phù 
hộ của ông bà tổ tiên, gia tộc. Như thế mới 
thấy được mối liên kết bền chặt giữa người 
sống và người chết, khi nén nhang được thắp 
lên cũng là lúc quá khứ và hiện tại như hòa 
quyện vào nhau, không có sự phân biệt về 
khoảng cách. 
3. Chăm sóc mồ mả tổ tiên: Một trong những 
biểu hiện của việc chăm sóc mồ mả tổ tiên đó 
chính là lễ tảo mộ trong tết thanh minh. Tảo 
mộ theo cách lý giải của Toan Ánh: “Tảo mộ 
chính là sửa sang ngôi mộ cho được sạch sẽ” 
[4, tr.345]. Ngày tết Thanh minh không phải 
là ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch, theo cách 
tính của người Sán Dìu ở Đồng Hỷ tính từ 
ngày Đông Chí của năm trước đến ngày thứ 
106 năm sau, rơi vào ngày nào thì đó chính là 
ngày tết Thanh Minh [8]. Do đó, lễ tảo mộ có 
thể tiến hành vào cuối tháng 2 hoặc tháng 3 
âm lịch hàng năm và trước hoặc sau ngày tết 
Thanh minh phụ thuộc vào từng dòng họ. 
Các công việc chuẩn bị cho lễ tảo mộ: Trước 
ngày tảo mộ, đại diện các gia đình trong dòng 
họ thường tập trung tại nhà tộc trưởng để 
thống nhất kế hoạch, cắt cử các công việc: gia 
đình lo lễ vật đi tảo mộ và chủ trì bữa cơm 
cúng tổ tiên sau khi hoàn thành công việc tảo 
mộ. Gia đình chủ trì thường thay phiên nhau 
hàng năm theo nguyên tắc già làm trước, trẻ 
làm sau, tuy nhiên các gia đình trong họ phải 
có sự đóng góp lễ vật, đối với những cặp vợ 
chồng trẻ mới ra ở riêng năm đầu tiên chưa 
phải góp lễ. Trước đây, khi dân số còn ít mỗi 
một dòng họ chỉ có khoảng 2-3 nóc nhà chủ 
yếu là anh em ruột với nhau; số ngôi mộ 
không nhiều, việc phân chia gia đình chủ trì 
họ tự thỏa thuận theo nguyên tắc anh làm 
trước em làm sau cứ lần lượt theo từng năm. 
Nhưng khi số lượng thành viên dòng họ tăng 
lên với nhiều chi khác nhau thêm vào đó mộ 
của người Sán Dìu không mang tính quy tập, 
họ chôn theo hướng thuận với mệnh của người 
chết và phần đất của mình có. Vì những lý do 
đó, có những dòng họ người ta phân chia các 
thành viên theo từng đội để đi tảo mộ. Chẳng 
hạn dòng họTrương ở xóm Thanh Chữ, xã 
Linh Sơn có: 26 ngôi mộ với 50 hộ sẽ chia 5 
người thành một cặp tiến hành tảo mộ [8]. 
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 161 - 167
165 
Qua đó cho thấy, cách thức tổ chức trong mỗi 
một dòng họ khá chặt chẽ, đồng thời khẳng 
định được mối đoàn kết giữa các thành viên 
trong cùng dòng họ. 
Lễ vật tảo mộ bao gồm lễ vật cúng ở mộ và 
tại gia đình. 
Lễ vật cúng ở mộ gồm có: Xôi đen, với những 
gia đình chưa mạn tang người ta làm xôi 
trắng, cá, thịt lợn, rượu, đối với những dòng 
họ có điều kiện người ta cúng gà. Xôi đen 
được chế biến từ nguyên liệu là xôi và lá cây 
sau sau là loại cây thân gỗ có mùi thơm 
hương nhu. Trước ngày tảo mộ, họ lên rừng 
kiếm lá sau sau, đem về băm nhỏ ngâm với 
nước, bỏ bã, vo gạo nếp để khô rồi ngâm gạo 
với nước lá sau sau đã sôi, sau đó mang gạo 
đó ra đồ xôi, xôi sẽ có màu đen, dẻo thơm. 
Điều đặc biệt, loại xôi này để được trong thời 
gian dài nên dù có đi tảo mộ xa trong nhiều 
ngày cũng không bị hỏng. 
Lễ vật cúng tổ tiên tại nhà (gia đình chủ trì và 
gia đình mỗi nhà), tại gia đình không quy 
định mà tùy từng dòng họ, gia đình thường 
bao gồm: xôi (xôi tùy loại), gà, thịt lợn, các 
loại bánh 
Nghi lễ tảo mộ: Để chuẩn bị cho việc cúng tế 
tiến hành phát quang, dọn sạch cây cỏ, đắp 
đất hoặc quyét lại vôi đối với những mộ xây. 
Thông thường công đoạn này sẽ được tiến 
hành vào buổi sáng, tuy nhiên với những ngôi 
mộ xa người ta có thể kết hợp giữa việc dọn 
dẹp mồ với nghi thức cúng tế. Sau khi các 
ngôi mộ đã được tu chỉnh lại, họ mới tiến 
hành nghi thức cúng, việc đầu tiên là sắp 
mâm cúng, khác với người kinh thường để 
mâm lễ ngay phần đầu ngôi mộ, người Sán 
Dìu đặt ở phần chân. Theo quan niệm của 
đồng bào, đặt ở phần chân là thuận với tư thế 
ngồi của người chết, khi họ ngồi dậy không 
phải quay ngược người lại. Sau đó, người ta 
cắm 5 cái cờ ở bốn góc mộ, ở giữa và trong 
mỗi ngôi mộ các lễ vật cũng được bày theo 
con số 5: 5 nắm xôi, 5 con cá, 5 chén rượu. 
Theo cách giải thích của các cụ cao niên số 5 
tượng trưng cho 5 phương trời: đông, tây, 
nam, bắc, trung [8], [9],[10]. Tất cả đã được 
chuẩn bị xong, người thầy cúng (hoặc người 
có tuổi trong họ biết cúng) trực tiếp thực hiện 
việc cúng khấn. Nội dung cơ bản của bài khấn 
là: hôm nay, ở tại xã xóm.con cháu 
dòng họ có lễ vật gồm dâng lên các vị 
long thần và (tên người chết nằm ở dưới mộ 
ngôi mộ đó) thỉnh tổ tiên, các thần về hưởng 
lễ giữ bình yên cho phần mộ và phù hộ cho 
con cháu khỏe mạnh, tránh được mọi tai 
họa[9] sau đó xin âm dương đánh dấu sự 
hoàn tất nghi lễ. Lễ vật sau khi cúng xong, họ 
thường ít khi mang về nhà mà chia cho những 
gia đình ở quanh mộ, trẻ chăn trâu, những 
người làm ruộng quanh đấy cùng hưởng lộc. 
Việc tảo mộ cho tổ tiên đã hoàn thành, các 
thành viên tập trung ở gia đình chủ trì để cùng 
dùng bữa cơm chung. Sau khi mâm lễ được 
đặt lên, người đại diện dòng họ thắp hương 
báo cáo tổ tiên việc con cháu đã hoàn thành 
nghi thức tảo mộ, nhân dịp tết thanh minh 
mời tổ tiên về hưởng lễ chung vui trong ngày 
tết. Đây là dịp để thắt chặt mối đoàn kết gắn 
bó anh em họ hàng với nhau, giữa người sống 
với người chết, giữa con cháu với tổ tiên. Tại 
mỗi gia đình con cháu cùng làm mâm cơm, 
các loại bánh: bánh ngải, bánh trứng kiến 
đặt lên bàn thờ để thắp hương cúng tổ tiên tại 
nhà mình. 
Lòng thành kính của con cháu đối với ông bà 
tổ tiên không chỉ là các nghi lễ thờ cúng ngay 
trên bàn thờ tổ tiên mà còn là sự chăm sóc 
phần mộ - nơi an nghỉ của người đã khuất. 
Tục tảo mộ thể hiện khá sâu sắc tâm đức của 
người sống đối với người chết. 
4. Những kiêng kỵ liên quan đến thờ cúng tổ 
tiên: Bàn thờ là nơi linh thiêng nhất trong 
ngôi nhà, họ có những kiêng kỵ bắt buộc đối 
với các thành viên trong gia đình như: không 
được phơi quần áo trước bàn thờ tổ tiên; phụ 
nữ trong thời gian ở cữ không được đi lại khu 
vực thờ tổ tiên. Ngay cạnh bàn thờ thường có 
giường ngủ của chủ nhà, khi ngủ tránh quay 
chân về phía bàn thờ. Đặc biệt người phụ nữ 
bất kỳ là khách hay chủ cũng không được ngủ 
ở đó. Tranh ảnh con cháu phải treo thấp hơn 
ảnh của ông bà ở trên bàn thờ. Khi vác cuốc 
xẻng đi qua nơi thờ tự phải hạ xuống nếu 
không sẽ bị động đến tổ tiên. 
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 161 - 167
166 
Người ta kiêng cúng các loại thịt: trâu, chó, 
ngan, vịt (chỉ cúng vịt khi làm lễ giải hạn). 
Chó là con vật gắn với sự tích cứu sách Kinh 
của Đường Tăng khỏi cơn hỏa hoạn [8]. Phật 
giáo không ảnh hưởng đậm nét trong đời sống 
của người dân Sán Dìu ở Đồng Hỷ nói chung 
song đối với những gia đình làm thầy cúng 
Phật có vị trí khá quan trọng do đó người ta 
rất kiêng kỵ cúng thịt chó. Nông nghiệp là 
hoạt động kinh tế chủ đạo trong đời sống của 
đồng bào, sản xuất dựa vào sức kéo của trâu 
bò là chính, người Sán Dìu thường nói: “trâu 
ăn cỏ giả, mình ăn cỏ thật” cỏ giả là cỏ tự 
nhiên, cỏ thật chính là thóc gạo do sức kéo 
cày của trâu mà có. Con người ăn thịt trâu có 
nghĩa là “phản lại nó, là có tội”[6]. Trước 
cách mạng tháng tám (1945), ở một số nơi 
gia đình có con trâu cái đẻ người ta làm mâm 
cơm báo cáo với tổ tiên cầu mong cho nghé 
con được khỏe mạnh. Lễ vật cúng tổ tiên bao 
giờ cũng phải tinh khiết; cỗ bàn nấu xong 
cúng gia tiên trước, con cháu mới được ăn 
sau. 
Những kiêng kỵ trong thờ cúng như một thiết 
chế xã hội chặt chẽ mà các thành viên trong 
gia đình truyền lại cho nhau qua các thế hệ 
tuân thủ một cách nghiêm ngặt. Những điều 
kiêng kỵ đó còn quan trọng hơn cả luật lệ bởi 
nó không chỉ xuất phát từ lòng thành kính, 
quy định chung mà còn chịu sự chi phối của 
yếu tố tâm linh. 
KẾT LUẬN 
Thông qua việc khảo tả tín ngưỡng thờ cúng 
tổ tiên của người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ, 
tỉnh Thái Nguyên cho thấy đây là hoạt động 
văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống 
của đồng bào ở địa phương. 
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình 
tín ngưỡng dân gian, gắn liền với tập tục văn 
hoá, đạo đức trên cơ sở của niềm tin cho rằng, 
tổ tiên đã chết sẽ che chở, phù hộ cho con 
cháu, được thể hiện thông qua nghi lễ thờ 
cúng theo quan niệm, phong tục, tập quán của 
mỗi con người, của từng gia đình và cộng 
đồng xã hội. Trong nghi lễ thờ cúng tổ tiên 
của người Sán Dìu bên cạnh những nét chung 
còn chứa đựng những yếu tố mang tính tộc 
người được thể hiện rõ nét ở một số điểm 
như: cách thức lập bàn thờ đối với người chết 
trước và sau khi được làm ma; cúng xôi đen 
trong dịp tảo mộ (tết Thanh Minh); làm lễ hợp 
đồng khi thờ họ ngoại dài hạn trong trường 
hợp ở rể; cách tính ngày của tết Thanh minh. 
Tục thờ cúng tổ tiên của người Sán Dìu thể 
hiện nghĩa cử cao đẹp, tính nhân văn sâu sắc 
cần phải có những biện pháp thiết thực để 
phát huy, song cũng có những điều thiếu cơ 
sở khoa học cần phải chọn lọc và loại bỏ. Đặc 
biệt trước sự biến đổi của tình hình kinh tế xã 
hội, tác động của quá trình đô thị hóa ngày 
càng mạnh mẽ tới khu vực nông thôn trong đó 
có Đồng Hỷ, tục thờ cúng tổ tiên ngày càng 
chuyển biến mạnh mẽ, không còn nguyên vẹn 
như xưa, trong sự biến đổi đó vừa chứa đựng 
những yếu tố tích cực vừa tồn tại những mặt 
hạn chế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Toan Ánh (2005), Nếp cũ Tín ngưỡng Việt 
Nam, Quyển thượng, Nxb Trẻ. 
[2]. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở 
Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
[3]. Diệp Trung Bình (2005), Phong tục và lễ 
nghi chu kỳ đời người của người Sán Dìu ở 
Việt Nam, NxbVăn hóa Dân tộc. 
[4]. Phan Kế Bính (1917), Việt Nam phong tục, 
Nxb Văn học. 
[5]. Phạm Đức Lữ (2000), Góp phần tìm hiểu tín 
ngưỡng dân gian ở Việt Nam, Nxb Học viện 
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 
Tư liệu điền dã 
[6]. Lý Văn Hòa, 71 tuổi, xóm Cầu Đất, xã 
Nam Hòa, làm ruộng. 
[7]. Lý Văn Chuyền, 57 tuổi, xóm Ao Lang, xã 
Linh Sơn, thầy cúng. 
[8]. Trương Văn Nguyệt, 60 tuổi, xóm Thanh 
Chử, xã Linh Sơn, thầy cúng 
[9]. Đặng Văn Tiến, 80 tuổi, xóm Ao Lang, xã 
Linh Sơn, thầy cúng. 
[10]. Mạc Văn Sâm, 80 tuổi xóm Thông Nhãn, xã 
Linh Sơn, thầy cúng. 
Mai Thị Hồng Vĩnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 161 - 167
167 
SUMMARY 
CUSTOMS OF ANCESTOR WORSHIP OF THE SAN DIU ETHNIC 
MINORITY PEOPLE IN DONG HY DISTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE 
Mai Thi Hong Vinh*, Luong Thi Hanh, Nguyen Van Tien 
College of Siences – TNU 
The San Diu ethnic minority people support themselves through agriculture, and they have many 
difficulties in their life. During the coexistence process with other ethnic minorities, they have 
formed and preserved their unique cultural values which have both similarities and differences 
with the remaining. Ancestor worship is a cultural component which long existed and become fond 
of in their life. Experiencing the historical volatilities and being affected by many different social 
contexts, the worship of ancestor of the San Diu people in Dong Hy also has changed, but this 
religious activity still plays an 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tuc_tho_cung_to_tien_cua_nguoi_san_diu_o_huyen_dong_hy_tinh.pdf tuc_tho_cung_to_tien_cua_nguoi_san_diu_o_huyen_dong_hy_tinh.pdf