Một điều đặc biệt khi nghiên cứu 22 trường hợp trẻ bị xâm hại thì tất cả các đối tượng
xâm hại trẻ đều là những người thân, quen biết của trẻ. Không có đối tượng nào là người lạ.
Đối tượng xâm hại tình dục trẻ em có 6 đối tượng là hàng xóm. Họ là những người quen thân
của trẻ. Lợi dụng sự quen biết đó họ đã có những hành vi dụ dỗ, cho kẹo, cho tiền và dọa
dẫm, đe dọa quan hệ trẻ. Có trường hợp ở Long Biên trẻ mới 6 tuổi mà bị đối tượng là hàng
xóm 74 tuổi xâm hại 6 lần gây lại hậu quả nặng nề về thể chất và tinh thần cho trẻ. Có 2 đối
tượng là dựa vào sự tin tưởng là bạn, người yêu của trẻ cũng lợi dụng những niềm tin và sự
yêu mến để có hành vi cưỡng bức và xâm hại trẻ. Đặc biệt có 2 trường hợp đó là bố đẻ và bố
dượng có hành vi xâm hại trẻ, trong đó trường hợp cháu T (14 tuổi) Chương Mỹ, bị bố đẻ ép
xâm hại trẻ nhiều lần dẫn đến trẻ mang và đã sinh một bé trai đến nay hơn 1 tuổi. Em T đã
phải sống trong sợ hãi, lo lắng hoảng loạn trong thời gian dài. Đây là những điều đáng báo
động khi những trường hợp này lại diễn ra ngay tại thủ đô Hà Nội.
Trong khi đó với 13 trường hợp trẻ bị xâm hại thể chất có những trẻ bị cả bố và mẹ
bạo hành, trong đó có bố mẹ đẻ và cả bố dượng và mẹ kế. Có trường hợp trẻ 3 tuổi ở Đống Đa
bị mẹ đánh, bạo hành bằng các vật như dây điện, roi, hoặc dùng tay. Hay trẻ 7 tuổi ở cũng ở
Đống Đa bị mẹ đẻ thường xuyên dùng thanh sắt đánh con. Người dân van xin nhưng người mẹ không dừng hành động bạo hành, chỉ khi công an can thiệp mới dừng lại. Có trẻ 12 tuổi ở
Chương Mỹ bị bố và mẹ bạo hành thường xuyên như dùng roi, dây điện, thanh gỗ, dép cao
gót đánh trẻ để lại nhiều vết sẹo dẫn đến tình trạng trẻ sợ và hoảng loạn. Trường hợp cháu H
(2006) bị hàng xóm đánh nhập viên trật khớp vai, chảy máu mũi, đứt mạch mũi. Em H đã bị
hoảng sợ đêm nào ngủ cũng nằm mơ, hoảng loạn,
9 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 658 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ cho trẻ em bị xâm hại tại Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo vệ bản
thân thì nhân viên Công tác xã hội chưa làm tốt. Do đó, mục đích nghiên cứu của đề tài để
đưa ra những kế hoạch đào tạo cho sinh viên những nhân viên CTXH trong tương lai làm tốt
nhất vai trò của mình khi hỗ trợ cho trẻ bị xâm hại.
Từ khóa: trẻ em, trẻ em bị xâm hại, xâm hại thể chất, xâm hại tinh thần, xâm hại tình
dục và sao nhãng, công tác xã hội, vai trò của nhân viên công tác xã hội.
1. Mở đầu
Ở nước ta hiện nay, trong những năm gần đây, tình trạng trẻ em bị xâm hại ngày càng
gia tăng và trở nên đáng báo động. Theo thống kê của Cục Bảo vệ Chăm sóc trẻ em (Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội), tổng số tính đến năm 2014 trẻ em hiện nay là 26.024.591 trẻ.
Trong giai đoạn từ 2010-2014 các vụ được phát hiện về tình trạng trẻ em bị xâm hại, ngược
đãi, bạo hành gia tăng (Năm 2010: 1143 trường hợp, năm 2011: 1464 trường hợp, năm 2012:
1630 trường hợp, năm 2013: 1816 trường hợp và năm 2014: 2003 trường hợp) [2]. Tuy nhiên,
con số này thực tế còn lớn hơn rất nhiều bởi các vụ xâm hại vẫn còn bị che dấu do sự chưa
hiểu biết của người dân.
Cuộc sống càng hiện đại, nguy cơ trẻ em bị xâm hại trở nên ngày càng cao và hình
thức càng đa dạng, tinh vi. Từ năm 2010 đến 2014 các vụ xâm hại, bạo lực với trẻ em liên tiếp
được phát hiện và phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng gây bức xúc và thu hút
sự quan tâm của toàn xã hội nhờ có sự đưa tin của truyền thông. Sự xâm hại thể hiện dưới
nhiều hình thức như: về thể chất - bố dượng dùng các vật sắc nhọn đánh, đập vào mắt, khuôn
mặt và các bộ phận trên cơ thể hay cô giáo dùng tay để tát khi trẻ phạm lỗi không ăn ở nhà trẻ
ở Bình Dương. Xâm hại về tinh thần là dùng những lời lẽ đe dọa, xúc phạm, chửi bới, lăng mạ
danh dự và nhân phẩm của trẻ em tại Phú Thọ và Tây Ninh. Đặc biệt về xâm hại tình dục đã
có nhiều vụ trẻ em bị bố đẻ, bố dượng, chú, anh, hàng xóm xâm hại, thậm chí có những người
Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần II
Trường Đại học Thăng Long 276
mẹ tiếp tay cho nhân tình bức hại con gái mình dẫn đến trẻ mang thai diễn ra ở Đăk Lắk,
Nghệ An, Hà Nội
Trẻ bị xâm hại ở trong gia đình, trường học và nơi công cộng là môi trường sống quen
thuộc của trẻ ở mức độ nguy hiểm và thủ đoạn tinh vi hơn khó có những dấu hiệu nhận biết.
Nguyên nhân chủ yếu do trẻ yếu hơn (yếu về thể chất, về tinh thần, sự nhận thức, kỹ năng
phòng tránh và đặc biệt là quyền được an toàn và bảo vệ) các đối tượng xâm hại nên không
thể chống đỡ những hình thức xâm hại của họ. Hậu quả để lại là những tổn thất to lớn về thể
chất, tinh thần, tâm lý, tình cảm và giao tiếp của trẻ. Các em thường xuyên cảm thấy hoảng
loạn, sợ hãi, sống mặc cảm và thiếu tự tin trước mọi người. Điều này ảnh hưởng sâu sắc tới
lòng tự trọng của trẻ, cản trở mạnh mẽ tới khả năng giao tiếp và hòa nhập của trẻ vào nhóm
bạn và cộng đồng. Diễn biến phức tạp của tình trạng xâm hại trẻ em và những hậu quả để lại
đã và đang đặt những bài học cho các nhân viên công tác xã hội trong vai trò trợ giúp cho
những trẻ em- nạn nhân của xâm hại. Đây là những vấn đề đã được làm và nghiên cứu nhiều,
tuy nhiên để nghiên cứu sâu và trên thực tế tại Hà Nội nhân viên công tác xã hội chưa phát
huy được hết những vai trò của mình. Nhân viên công tác xã hổi hiện nay chủ yếu hỗ trợ
trường hợp là kết nối các ban ngành, thăm hỏi và hỗ trợ chính sách cho trẻ, trong khi đó vai
trò là người biện hộ, người tham vấn trị liệu tâm lý, người giáo dục chưa được thể hiện rõ
ràng và sâu sắc. Do đó chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Vai trò của nhân viên công tác xã
hội trong việc hỗ trợ cho trẻ em bị xâm hại tại Hà Nội” làm nghiên cứu của mình.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1 Một số khái niệm
* Trẻ em
Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em
Theo (Điều 1) trong Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em
có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi
thành niên sớm hơn”. [3]
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em
Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em số 25/2004/QH11 của Việt Nam. “Trẻ
em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. [4]
Trong Bộ luật Tố tụng Hình sự sử dụng khái niệm “người chưa thành niên” là người
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi”[1]. Từ những khái niệm trên, dưới góc độ pháp lý có thể thống
nhất trẻ em theo pháp luật Việt Nam là: Trẻ em là người chưa thành niên dưới 16 tuổi, là
người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần cũng như xã hội cần được chăm sóc,
bảo vệ, được giáo dục để trở thành những công dân tốt, những người chủ tương lai của đất
nước. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã được Đảng và Nhà nước coi là mối quan
tâm hàng đầu, được xác định, ghi vào luật mà toàn xã hội phải có trách nhiệm thực hiện.
*Xâm hại trẻ em (Xâm hại thân thể, xâm hại tinh thần và xâm hại tình dục trẻ em) và
sao nhãng đối với trẻ em.
Năm 1999, Hội nghị tham vấn của WHO về Phòng chống xâm hại trẻ em đã đưa định
nghĩa như sau:
“Xâm hại hoặc ngược đãi trẻ em bao gồm tất cả các hình thức ngược đãi về thân thể
và/hoặc tinh thần, xâm hại tình dục, sao nhãng hoặc đối xử một cách sao nhãng hoặc bóc lột
vì mục đích thương mại hay mục đích khác, dẫn đến sự tổn hại hoặc nguy cơ tổn hại đến sức
Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần II
Trường Đại học Thăng Long 277
khoẻ, sự sống còn, phát triển hoặc nhân phẩm của trẻ diễn ra trong bối cảnh giữa trẻ em và
người xâm hại có một mối quan hệ trách nhiệm, niềm tin hoặc quyền hành” [6]
Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm tất cả các hình thức xâm hại trẻ em, Tuy nhiên chưa
đưa ra một định nghĩa chung về xâm hại trẻ em hoặc bạo hành với trẻ em như tại điều 19 của
CRC hay một số công ước quốc tế khác. Hiện tại, Việt Nam mới có thuật ngữ “xâm phạm trẻ
em” với ý nghĩa là “mọi hành vi gây ảnh hưởng tiêu cực hoặc gây tổn hại đến sự phát triển thể
chất, trí tuệ, tinh thần và xã hội của trẻ”.
* Xâm hại thân thể
Việc sử dụng vũ lực như một hình phạt hoặc biện pháp kỷ luật đối với trẻ em còn là
một thực tế ở Việt Nam, thường là dưới dạng đánh bằng tay, gậy, roi, hoặc các công cụ khác.
Các biện pháp khác thường được sử dụng là cốc đầu, phát vào mông, đùi, hoặc bắt nhịn ăn.
Hình thức trừng phạt thân thể này diễn ra cả ở gia đình và nhà trường. Hình phạt này đang
dần bị thay thế do nhiều phương pháp mới trong giáo dục và kỷ luật trẻ em được giới chuyên
môn giới thiệu và thúc đẩy. [5]
Hiện tại Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa cụ thể về xâm hại thân thể trẻ em và
giới chuyên môn thường sử dụng khái niệm gây thương tích được quy định tại điều 104 bộ
luật Hình sự để định nghĩa hành vi này. Theo luật pháp hiện hành, cảnh sát cũng như những
người khác đều không có quyền tách trẻ em khỏi gia đình mà không có sự đồng ý của cha
mẹ. Chỉ duy nhất toà án có quyền thực hiện việc này và cảnh sát có thể bắt và tạm giữ người
có hành vi gây thương tích cho trẻ.
Ngoài ra, việc cấm đối tượng xâm hại trẻ được tiếp xúc với nạn nhân là một biện
pháp can thiệp mới được đưa ra trong Luật Phòng chống bạo lực gia đình. biện pháp này có
thể được áp dụng để bảo vệ trẻ em là nạn nhân của bạo lực gia đình.
* Xâm hại tinh thần và sao nhãng
Hình thức xâm hại này diễn ra dưới nhiều hình thức ví dụ như quát tháo, sỉ nhục và
công khai trách mắng trẻ và thường xảy ra ở cả môi trường gia đình và trường học. bạo lực
gia đình ngày càng trở thành một vấn đề xã hội nghiêm trọng tạo áp lực lớn lên trẻ em.
Sự sao nhãng của cha mẹ cũng là một hình thức xâm hại trẻ em. Theo kết quả Điều
tra gia đình Việt Nam năm 2006, do thiếu hệ thống trường mầm non, mẫu giáo, nhiều bậc
cha mẹ thường gặp khó khăn trong việc chăm sóc con, đặc biệt là với trẻ em dưới hai tuổi.
Các bà mẹ sống ở khu vực nông thôn dành ít thời gian chăm sóc con cái hơn so với các bà
mẹ ở khu vực thành thị, ví dụ tỉ lệ các bà mẹ ở thành thị dành hơn 3 tiếng đồng hồ mỗi ngày
để chăm sóc con là 38% trong khi tỉ lệ này ở nông thôn chỉ là 25%. Đây có thể là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng sao nhãng đối với trẻ em và cần được nghiên cứu sâu
hơn. Trong 22 trường hợp nghiên cứu không có trường hợp nào trẻ bị sao nhãng.
* Xâm hại tình dục
Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa xâm hại tình dục trẻ em như sau:
“Xâm hại tình dục trẻ em là việc lôi kéo trẻ em tham gia vào hoạt động tình dục mà
trẻ em đó không hiểu một cách đầy đủ, không có khả năng quyết định ưng thuận một cách có
hiểu biết, hoặc hành động đó là trái luật pháp hoặc trái quy tắc xã hội. Xâm hại tình dục trẻ
em là hành động diễn ra giữa một trẻ em với một người trưởng thành hoặc với một trẻ em
Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần II
Trường Đại học Thăng Long 278
khác mà do độ tuổi và mức độ phát triển, người này có mối quan hệ trách nhiệm, tin tưởng
hoặc quyền hành với trẻ,và hành động gây ra nhằm thoả mãn nhu cầu của người đó”[4].
Trong trường hợp thủ phạm xâm hại tình dục trẻ em là một thành viên trong gia đình
hoặc có họ hàng với trẻ, thì việc xâm hại tình dục được coi là loạn luân. Xâm hại tình dục trẻ
em cũng có thể xảy ra dưới hình thức bóc lột thông qua văn hóa phẩm khiêu dâm hoặc hoạt
động mại dâm.
Điều 56 Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em năm 2004 quy định trẻ em bị
xâm Nhà nước đã phát động nhiều chương trình tái hoà nhập cho trẻ em bị xâm hại tình dục.
Các chương trình này cũng được lồng ghép vào các chương trình đào tạo nghề, tạo việc làm
và xoá đói giảm nghèo. Các chính sách về khám chữa bệnh và chăm sóc cho trẻ bị xâm hại
nhân phẩm và tình dục cũng đã được đề ra. Hoạt động tham vấn tâm lý-xã hội cùng những
hỗ trợ khác dành cho trẻ em nạn nhân đã được thực hiện. Đối tượng vi phạm bị xử phạt
nghiêm khắc.[5] Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng
Việc thu thập số liệu chính xác về mức độ phổ biến của hành vi xâm hại tình dục trẻ
em ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Có thể có những vụ xâm hại tình dục không bị tố
cáo và số vụ xâm hại tình dục trẻ em xảy ra trong thực tế nhiều hơn số vụ được báo cáo. Tuy
nhiên, theo kết quả điều tra ở trong nước cũng như trên thế giới cho biết, thủ phạm xâm hại
tình dục trẻ em thường là những người có quan hệ gần gũi với trẻ như thành viên trong gia
đình hay hàng xóm. Độ tuổi trung bình của nạn nhân bị xâm hại tình dục là 12 tuổi, với dao
động trong khoảng từ 2 cho đến 17 tuổi.
Khái niệm xâm hại tình dục trẻ em ở Việt Nam được dùng để chỉ các trường hợp khi
một người, dựa trên sự vượt trội về độ tuổi, kinh nghiệm, sức mạnh thể chất hoặc địa vị xã
hội của mình, sử dụng quyền lực của mình để khiến trẻ tham gia vào hoạt động tình dục.
Theo quy định tại bộ luật Hình sự (Điều 122), mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13
tuổi đều bị coi là hiếp dâm trẻ em. Thực tế là luật pháp Việt Nam chưa định nghĩa khái niệm
“xâm hại tình dục trẻ em” và khái niệm này do đó được sử dụng không thống nhất trong các
luật và quy định khác nhau.
Tương tự như ở nhiều quốc gia khác, trẻ em lang thang ở Việt Nam là nhóm có nguy
cơ cao dễ bị xâm hại tình dục. Thường có định kiến cho rằng những trẻ em đã đồng ý tham
gia vào hoạt động tình dục, điều này khiến cho các em rất khó có thể trông cậy rằng cảnh sát
sẽ tiến hành các hoạt động cần thiết hay coi vụ việc là một vụ phạm tội.
Luật pháp hiện hành của Việt Nam chưa quy định một thủ tục khiếu nại riêng để báo
cáo các vụ việc xâm hại trẻ em. Không có phương tiện đặc biệt nào để tố cáo và chưa có thủ
tục “thân thiện với trẻ em” để các em có thể tự thực hiện quyền khiếu nại tố cáo của mình.
Luật cũng chưa quy định nghĩa vụ báo cáo bắt buộc về các vụ xâm hại trẻ em trừ những
trường hợp có dấu hiệu cấu thành tội phạm. Việt Nam cũng chưa có cơ quan chuyên trách và
thủ tục dành riêng để điều tra và kết luận về các khiếu nại liên quan đến xâm hại trẻ em. Do
đó, các trường hợp khi có báo cáo hoặc nghi ngờ về xâm hại trẻ em.
* Công tác xã hội
Công tác xã hội là một chuyên ngành để giúp đỡ cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng tăng
cường hay khôi phục việc thực hiện các chức năng xã hội của họ và tạo những điều kiện thích
hợp nhằm đạt được các mục tiêu đó.
Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần II
Trường Đại học Thăng Long 279
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu 22 trường hợp tại Hà Nội (từ tháng 6/2014 đến tháng 6/2015).
Trong đó có 9 trường hợp trẻ em bị xâm hại tình dục và 13 trẻ bị xâm hại thể chất là bạo
hành, ngược đãi.
Để nghiên cứu 22 trường hợp trên, tác giả đã làm việc trực tiếp can thiệp, kết nối,
bằng phương pháp phỏng vấn, trò chuyện, điều tra phiếu bảng hỏi.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Thực trạng trẻ bị xâm hại tại Hà Nội
3.1.1 Trẻ bị xâm hại theo giới tính và độ tuổi
Trẻ bị xâm hại Tỉ lệ % theo giới
tính
Tỉ lệ % theo độ tuổi
Nam Nữ Dưới 6 tuổi 6-13 tuổi 13-16 tuổi
Xâm hại tình dục 0 100,0 55,6 11,1 33,3
Xâm hại thể chất 69,0 31,0 38,5 38,5 23,0
Bảng 1 : Tỉ lệ % trẻ bị xâm hại theo giới tính và độ tuổi
Trong 22 trường hợp tiếp cận nghiên cứu từ tháng 6/2014 đến tháng 6/2015 thì có 9
trường hợp trẻ bị xâm hại tình dục và 13 em bị xâm hại thể chất (bạo hành, đánh đập). Trong
khi đó 9 trường hợp trẻ bị xâm hại tình dục đều là trẻ em gái ở những độ tuổi dưới 6 tuổi có 5
em (chiếm 55,6%), từ 6-13 tuổi có 1 em (chiếm 11,1%) và từ 13-16 tuổi (chiếm 33,3%), đặc
biệt có những em chỉ mới 5 tuổi đã bị xâm hại, hậu quả để lại rất nặng nề về thể chất và tâm
lý cho các em. Với 13 trường hợp trẻ bị xâm hại thể chất thì có 9 trẻ em trai (chiếm 69,0%)
và 6 trẻ em gái (31,0%) ở những độ tuổi là dưới 6 tuổi có 5 em, từ 6-13 tuổi 5 em và từ 13-16
tuổi có 3 em. Nhìn tổng quát cho thấy, trẻ bị xâm hại tình dục chủ yếu ở trẻ em gái, còn xâm
hại thể chất thì trẻ em nam bị bạo hành nhiều hơn. Độ tuổi các em bị xâm hại dưới 13 tuổi
nhiều hơn. Đây cũng là độ tuổi mà khả năng tự bảo vệ bản thân của các em còn yếu.
Chị Trần Lê Tr- nhân viên công tác xã hội của Trung tâm công tác xã hội Hà Nội chia
sẻ: « Khi làm việc với trẻ em bị xâm hại, tôi nhận thấy có quá nhiều trẻ em còn nhỏ mà sự
tổn thương rất nhiều khi bị xâm hại. Có những em mới 5 tuổi, các em còn quá nhỏ để biết
bảo vệ bản thân. Nhìn các em, tôi rất xót xa, trong khi đó sự hỗ trợ của chúng tôi chỉ có
hạn ».
3.1.2. Đối tượng xâm hại trẻ tại Hà Nội theo độ tuổi và giới tính
Đối tượng xâm hại Tỉ lệ % theo giới
tính
Tỉ lệ % theo độ tuổi
Nam Nữ Dưới 16
tuổi
16-18
tuổi
Trên 18
tuổi
Xâm hại tình dục 10 0 2 1 7
Xâm hại thể chất 7 9 0 0 16
Bảng 2 : Số lượng đối tượng xâm hại trẻ theo độ tuổi và giới tính
Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần II
Trường Đại học Thăng Long 280
Với 22 trường hợp trẻ bị xâm hại thì có 26 đối tượng. Trong đó có 10 đối tượng là
nam giới xâm hại tình dục 9 trường hợp trẻ em gái. Những đối tượng này ở những độ tuổi trẻ
em có 2 đối tượng, tuổi chưa thành niên có 1 đối tượng, còn lại 7 đối tượng là người lớn trên
18 tuổi. Trong khi đó 13 trẻ bị xâm hại thể chất do 16 đối tượng, cụ thể 7 đối tượng nam giới
và 9 đối tượng nữ giới. Tất cả đều là những người lớn trên 18 tuổi. Nhìn vào bảng số liệu cho
thấy đối tượng xâm hại tình dục trẻ em chủ yếu là nam giới còn xâm hại thể chất có cả nam
giới và nữ giới trong đó nữ giới chiếm số lượng cao hơn. Độ tuổi chủ yếu chiếm phần lớn là
người trên 18 tuổi- độ tuổi chịu trách nhiệm trước pháp luật với khung hình phạt cao hơn. So
sánh bảng 1 và bảng 2 cho thấy mối liên hệ giữa trẻ bị xâm hại với đối tượng xâm hại rất rõ.
Trẻ bị xâm hại là những trẻ em nhỏ, yếu về mọi mặt và đối tượng xâm hại chủ yếu là người
lớn có sức mạnh, có kinh nghiệm, lợi dụng quyền lực để xâm hại trẻ em.
Khi trao đổi với anh Nguyễn Mạnh H- cán bộ công tác xã hội của Trung tâm Công tác
xã hội Hà Nội, anh chia sẻ: « Có những ông bố bà mẹ đánh con và cho rằng đó là giáo dục
con. Họ không hiểu giáo dục bằng bạo lực là vi phạm về quyền trẻ em và làm ảnh hưởng đến
tinh thân và sự phát triển của trẻ. Chúng tôi phải có những buổi trò chuyện để cho các phụ
huynh hiểu. Còn những trẻ bị xâm hại tình dục, chủ yếu là những người thân quen, những
người mà trẻ tin tưởng và không phòng vệ. Họ lợi dụng sự tin tưởng để xâm hại trẻ. Có những
trẻ bị chính bố đẻ xâm hại, để lại nhiều hậu quả cho trẻ, gia đình và xã hội. Đây là điều mà
chúng tôi cảm thấy trăn trở nhất khi hỗ trợ cho trẻ ».
3.1.3. Mối quan hệ giữa trẻ bị xâm hại và đối tượng xâm hại trẻ (tỉ lệ %)
Mối quan hệ trẻ
với người xâm hại
trẻ
Bố Mẹ Hàng
xóm
Bạn Tổng
Xâm hại tình dục 2 0 6 2 10
Xâm hại thể chất 7 8 1 0 16
Bảng 3 : Mối quan hệ giữa trẻ và đối tượng xâm hại trẻ
Một điều đặc biệt khi nghiên cứu 22 trường hợp trẻ bị xâm hại thì tất cả các đối tượng
xâm hại trẻ đều là những người thân, quen biết của trẻ. Không có đối tượng nào là người lạ.
Đối tượng xâm hại tình dục trẻ em có 6 đối tượng là hàng xóm. Họ là những người quen thân
của trẻ. Lợi dụng sự quen biết đó họ đã có những hành vi dụ dỗ, cho kẹo, cho tiền và dọa
dẫm, đe dọa quan hệ trẻ. Có trường hợp ở Long Biên trẻ mới 6 tuổi mà bị đối tượng là hàng
xóm 74 tuổi xâm hại 6 lần gây lại hậu quả nặng nề về thể chất và tinh thần cho trẻ. Có 2 đối
tượng là dựa vào sự tin tưởng là bạn, người yêu của trẻ cũng lợi dụng những niềm tin và sự
yêu mến để có hành vi cưỡng bức và xâm hại trẻ. Đặc biệt có 2 trường hợp đó là bố đẻ và bố
dượng có hành vi xâm hại trẻ, trong đó trường hợp cháu T (14 tuổi) Chương Mỹ, bị bố đẻ ép
xâm hại trẻ nhiều lần dẫn đến trẻ mang và đã sinh một bé trai đến nay hơn 1 tuổi. Em T đã
phải sống trong sợ hãi, lo lắng hoảng loạn trong thời gian dài. Đây là những điều đáng báo
động khi những trường hợp này lại diễn ra ngay tại thủ đô Hà Nội.
Trong khi đó với 13 trường hợp trẻ bị xâm hại thể chất có những trẻ bị cả bố và mẹ
bạo hành, trong đó có bố mẹ đẻ và cả bố dượng và mẹ kế. Có trường hợp trẻ 3 tuổi ở Đống Đa
bị mẹ đánh, bạo hành bằng các vật như dây điện, roi, hoặc dùng tay. Hay trẻ 7 tuổi ở cũng ở
Đống Đa bị mẹ đẻ thường xuyên dùng thanh sắt đánh con. Người dân van xin nhưng người
Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần II
Trường Đại học Thăng Long 281
mẹ không dừng hành động bạo hành, chỉ khi công an can thiệp mới dừng lại. Có trẻ 12 tuổi ở
Chương Mỹ bị bố và mẹ bạo hành thường xuyên như dùng roi, dây điện, thanh gỗ, dép cao
gót đánh trẻ để lại nhiều vết sẹo dẫn đến tình trạng trẻ sợ và hoảng loạn. Trường hợp cháu H
(2006) bị hàng xóm đánh nhập viên trật khớp vai, chảy máu mũi, đứt mạch mũi. Em H đã bị
hoảng sợ đêm nào ngủ cũng nằm mơ, hoảng loạn, khóc và đái dầm.
Khi nghiên cứu 22 trường, chúng tôi nhận thấy mỗi trường hợp trẻ có những tổn
thương khác nhau về cả thể chất và tinh thần. Những vết thương này không dễ lành, đặc biệt
những trường hợp để lại hậu quả là trẻ phải sinh con và trẻ bị bạo hành để lại những ám ảnh
nặng nề về tâm trí. Điều này cần sự hỗ trợ rất nhiều từ những cơ quan ban ngành, gia đình,
nhà trường và đặc biệt là nhân viên công tác xã hội.
3.2. Vai trò của nhân viên công tác xã hội trong việc hỗ trợ trẻ bị xâm hại
Vai trò
của
NVCTXH
Hỗ trợ
pháp luật
Hỗ trợ y
tế
Hỗ trợ
giáo dục
Tham
vấn tâm
lý
Thăm hỏi Hỗ trợ
tài chính
Kết nối
công an
Xâm hại
tình dục
9 2 2 3 9 6 9
Xâm hai 9 0 0 2 13 0 13
Bảng 4 : Sự hỗ trợ của Nhân viên công tác xã hội dành cho trẻ bị xâm hại
Khi tiếp xúc trực tiếp với 22 trường hợp trẻ bị xâm hại để nhận thấy vai trò của nhân
viên công tác xã hội thì nhận thấy một điều nổi bật là hầu hết nhân viên công tác xã hội khi
tiếp nhận trường hợp trẻ bị xâm hại họ thường kết nối về cán bộ địa phương để xác minh
thông tin và giải quyết. Hầu như khi nhân viên tiếp nhận trường hợp trẻ bị xâm hại tình dục
thì sự việc đã diễn ra, trong khi đó những trường hợp trẻ bị bạo hành thì có 2 trường hợp nhân
viên xuống trực tiếp cùng với công an khi đối tượng xâm hại đang đánh trẻ. Còn lại đều là
những trường hợp đã diễn ra. Do đó sự hỗ trợ trực tiếp tại thời điểm chưa cao. Đây là điều thể
hiện sự chưa nhanh nhạy trong hỗ trợ cho trẻ.
Với 9 trường hợp trẻ bị xâm hại tình dục, vai trò của nhân viên công tác xã hội chủ
yếu là đến thăm hỏi, động viên tinh thần trẻ và gia đinh trẻ, hỗ trợ tài chính theo chính sách
được trích từ quỹ bảo vệ trẻ em của địa phương, hỗ trợ kết nối với công an để điều tra vụ việc,
cung cấp các văn bản pháp luật cho gia đình trẻ. Trong 9 trường hợp chỉ có 3 trường hợp tham
vấn tâm lý cơ bản trong khi đó trẻ bị xâm hại bị ảnh hưởng tâm lý nặng nề thì chưa được hỗ
trợ tâm lý chuyên sâu, đặc biệt những trẻ nhỏ bị đe dọa và xâm hại nhiều lần cần được trị liệu
tâm lý cho trẻ thì nhân viên công tác xã hội chưa có kỹ năng và kỹ thuật. Do đó việc hỗ trợ trẻ
chủ yếu là thăm hỏi. Trường hợp cháu T bị bố đẻ xâm hại, em đã sống trong thời gian dài của
lo lắng, sợ hãi và bất an nhưng nhân viên công tác tại Hà Nội cũng chỉ trao đổi trò chuyện và
động viên mà chưa có những lộ trình hỗ trợ trị liệu cho trẻ. Đây là những hạn chế của nhân
viên công tác xã hội hiện nay cần phải có lộ trình đào tạo và bổ sung kiến thức và kỹ năng
trong việc hỗ trợ cho trẻ em bị xâm hại.
Trong 13 trường hợp trẻ bị xâm hại thể chất thì vai tro của nhân viên công tác xã hội
chủ yếu là thăm hỏi, động viên, phân giải cho gia đình và đối tượng bạo hành trẻ. Ngoài ra có
sự trao đổi với công an để can thiệp, giám sát. Chỉ có 2 trường hợp được hỗ trợ tâm lý cơ bản
còn lại không có trẻ nào được trị liệu và không có trẻ nào được đi khám chữa bệnh và hỗ trợ
Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần II
Trường Đại học Thăng Long 282
tài chính vì không có nguồn hỗ trợ. Bên cạnh đó 13 trường hợp trẻ bị bạo hành đều bị tâm lý
sợ hãi, hoảng loạn nhưng việc hỗ trợ tâm lý của nhân viên công tác xã hội không nhiều và
chưa sâu. Trường hợp em H bị hàng xóm đánh dẫn đến trật khớp vai va đứt mạch mũi. Em rơi
vào tình trạng hoảng loạn, ngủ mơ, đái dầm, khóc nhiều . Việc hỗ trợ tâm lý là rất cần thiết
nhưng nhân viên tư vấn chỉ có 3 buổi đến làm việc trao đổi với gia đình bố mẹ và trò chuyện
với trẻ. Đây là một thiếu hút trong việc hỗ trợ chuyên sâu, triệt để và tận gốc dành cho trẻ bị
xâm hại.
Việc tiếp cận làm việc với trẻ bị xâm hại trực tiếp rất ít. Nhân viên công tác xã hội
chủ yếu làm việc với gia đình trẻ như bố mẹ hoặc người chăm sóc còn việc hỗ trợ trực tiếp thì
rất hạn chế. Do đó, kết quả cuối cùng vẫn chưa hỗ trợ được cho trẻ bị xâm hại một cách trực
tiếp và hiệu quả nhất.
4. Kết luận
Thông qua 22 trường hợp trẻ bị xâm hại cho thấy đối tượng bị xâm hại tinh dục chủ
yếu là trẻ em gái, trẻ em trai bị bạo hành nhiều hơn trẻ em gái. Độ tuổi bị xâm hại trong 22
trường hợp ở độ tuổi dưới 13 tuổi chiếm số lượng nhiều nhất. Đối tượng xâm hại trẻ tất cả đều
là người thân, thân quen của trẻ. Chủ yếu là những đối tượng lớn tuổi. Hậu quả để lại rất nặng
nề về thể chất và tâm lý như: Trẻ mang thai, sinh con với bố đẻ. Trẻ bị bạo hành bởi bố mẹ
đẻ người trực tiếp sinh và nuôi dưỡng trẻ.
Vai trò của nhân viên công tác xã hội hiện nay chủ yếu trợ giúp cho trẻ và gia đình
như: Can thiệp kết nối các ban ngành, tư vấn chính sách, hỗ trợ tài chính cho trẻ xâm hại,
động viên thăm hỏi. Vai trò hỗ trợ tâm lý, trị liệu chuyên sâu, nhân viên công tác xã hội chưa
làm được, do còn hạn chế kiến thức, kỹ năng và kỹ thuật về tham vấn và trị liệu. Đây cũng là
mảng còn yếu đối với nhân viên công tác xã hội hiện nay.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu 22 trường hợp trẻ bị xâm hại, chúng tôi mong
muốn các nhân viên công tác xã hội cần bổ sung kiến thức, kinh nghiệm và những kỹ năng
chuyên sâu hơn, đặc biệt là các kỹ thuật hỗ trợ tham vấn và trị liệu tâm lý cho trẻ. Với những
cơ sở đào tạo nhân viên công tác xã hội cần có những chương trình đào tạo chuyên sâu dành
cho sinh viên công tác xã hội để sinh viên có những kỹ năng và kỹ thuật trợ giúp chuyên sâu
dành cho trẻ bị xâm hại.
5. Tài liệu tham khảo
[1]. Bộ luật hình sự Số: 15/1999/QH10
[2]. Chỉ tiêu trẻ em Việt Nam 2010-2014, Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em, 2014
[3]. Công ước Quốc tế về Quyền Trẻ em 1989
[4]. Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục Trẻ em năm 2004 .
[5]. UBDSGĐ- TE (2006) Báo cáo rà soát đánh giá chính sách pháp luật Việt Nam về
phòng chống lạm dụng xâm hại trẻ em.
[6]. WHO (2002) Báo cáo về bạo lực và y tế
[7]. WHO (1999) Báo cáo tham vấn về phòng ngừa lạm dụng trẻ em.
[8]. Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em (2012) Công tác bảo vệ Chăm sóc trẻ em
[9]. Cục Bảo vệ chăm sóc trẻ em (2014) Báo cáo tổng kết công tác năm 2014
[10]. Cục bảo vệ chăm sóc trẻ em (2013) Tham vấn trẻ em trên điện thoại và internet
Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần II
Trường Đại học Thăng Long 283
SOCIAL WORKERS’S SUPPORTING ROLE FOR ABUSED CHILDREN IN HANOI
Nguyen Thi Hai
Abstract: Child abuse is a complicated problem in every country. In Vietnam, the
number of child abuse cases is increasing and becoming an urgent matter. According to the
2014 statistics of the Department of Child Protection and Care - Ministry of Labour, Invali
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vai_tro_cua_nhan_vien_cong_tac_xa_hoi_trong_viec_ho_tro_cho.pdf