MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA KINH DOANH 4
1.1 Khái niệm về văn hóa kinh doanh 4
1.2 quan hệ giữa kinh doanh và văn hóa 4
1.3 Văn hoá kinh doanh - Yếu tố quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế 5
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VHKD HIỆN NAY CỦA VN VÀ TQ 7
2.1 Đặc điểm VHKD VN và TQ 7
2.1.1 Đặc điểm của Việt Nam 7
2.1.2 Đặc điểm của Trung Quốc 9
2.2 Những thành tựu đạt được 9
2.3 Những hạn chế của VHKD VN với TQ 9
2.3.2 Nhẹ chữ Tín 10
2.3.3 Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện 10
2.3.4 Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn 11
2.3.5 Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt ”, dựa dẫm 11
2.4 nguyên nhân 12
CHƯƠNG 3: NHỮNG BIỆN PHÁP CHO NHỮNG BẤT CẬP HIỆN NAY 13
3.1 Ý nghĩa của việc so sánh 13
3.2 Các biện pháp 13
3.2.1 biện pháp khách quan 13
3.2.2 Biện pháp rút ra từ sự so sánh 15
KẾT LUẬN 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 17
17 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5876 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Văn hoá kinh doanh của Việt Nam và Trung Quốc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do chon đề tài
Thực tế trong bối cảnh hội nhập hiện nay, không ít doanh nghiệp Việt Nam đã trưởng thành, trụ vững và phát triển mạnh mẽ, mà nguyên nhân sâu xa chính là do các doanh nghiệp này đã và đang coi trọng xây dựng văn hoá kinh doanh cho mình. Tuy nhiên, hiện còn không ít cấp lãnh đạo, doanh nghiệp và doanh nhân chưa nhận thức được vai trò, động lực của văn hoá kinh doanh trong hội nhập nên trong quá trình kinh doanh đã bộc lộ những bất cập, ảnh hưởng tiêu cực đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Xây dựng văn hóa kinh doanh vừa là mục tiêu, vừa là thách thức lớn đối với hầu hết các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam trong xu hướng phát triển gia nhập WTO và toàn cầu hóa hiện nay. Thách thức lớn nhất là nguy cơ tụt hậu, là hiệu quả kinh tế và năng lực cạnh tranh thấp. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nhận thức rõ những hạn chế, bất cập trong văn hóa kinh doanh Việt Nam, từ đó tìm ra hướng đi cho các doanh nghiệp, doanh nhân văn hóa kinh doanh Việt Nam, từ đó tìm ra hướng đi cho các doanh nghiệp, doanh nhân kinh doanh Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, làm nền tảng cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ XXI
2. Mục đích nguyên cứu
Nội dung của luận văn này sẽ tìm hiểu về đặc trưng văn hóa kinh doanh của Việt Nam so với người trung quốc
3. Lịch sử vấn đề
Đã có rất nhiều người nghiên cứu về VHKD nhưng chỉ riêng từng quốc gia. Còn về sự so sánh giữa hai quốc gia thì ít gặp hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Là VHKD. Phạm vi nghiên cứu là VN và TQ ở đây cụ thể là người hoa ở tp HCM
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Rút ra bài học cho việc kinh doanh có văn hóa của các doanh nghiệp, sinh viên kinh tế
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Tiểu luận sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, lịch sử, so sánh, tổng hợp, để từ đó đề ra giải pháp thực tiễn. các nguồn tư liệu được chọn lọc trên các bài viết riêng lẻ về VHKD của từng quốc gia
7. Bố cục của tiểu luận
Gồm 3 chương: chương 1 là khái niệm chung và những đặc điểm cơ bản. Chương 2 là thực tiễn , những thành tựu, nhược điểm hiện có. Chương 3 là những biện pháp khách quan và chủ quan
CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN HÓA KINH DOANH
1.1 Khái niệm về văn hóa kinh doanh
Chúng ta đều biết văn hoá là biểu hiện hành vi, tư duy và tình cảm đã ăn sâu hay bị ảnh hưởng qua học hỏi và là điểm đặc thù của một nhóm người chứ không phải của một cá nhân. Hành vi thể hiện ở các hành động, trong khi tư duy và tình cảm thể hiện nội tâm và tri thức của con người. Ở một mức độ nhất định, văn hoá có liên quan đến các quy chuẩn hay phong cách xử sự truyền thống của một nhóm người hình thành qua thời gian. Ở mức độ sâu sắc hơn, văn hoá là những giá trị mặc nhiên được chia sẻ trong một nhóm người, ấn định cái gì quan trọng, cái gì tốt và cái gì xấu. Những giá trị này nhất quán với quy tắc nhóm, nghĩa là các quy tắc xử sự phản ánh các giá trị, và ngược lại, các giá trị phản ánh quy tắc xử sự.
Tương tự như văn hóa thì văn hóa kinh doanh cũng được hiểu theo khía cạnh như vậy: Văn hoá kinh doanh là những giá trị văn hoá gắn liền với hoạt động kinh doanh. Các giá trị văn hóa này được dùng để đánh giá các hành vi, do đó, được chia sẻ và phổ biến rộng rãi giữa các thế hệ thành viên trong doanh nghiệp như một chuẩn mực để nhận thức, tư duy và cảm nhận trong mối quan hệ với các vần đề mà họ phải đối mặt. Văn hoá kinh doanh không chỉ tạo ra tiêu chí cho cách thức kinh doanh hằng ngày mà còn tạo ra những khuôn mẫu chung về quan điểm và động cơ trong kinh doanh
khái niệm: Văn hoá kinh doanh một hệ thốngcác giá trị, các chuẩn mực, các quan niệm và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, được thể hiện trong cách ứng xử của họ với xã hội, tự nhiên ở một cộng đồng hay khu vực nào đó
1.2 quan hệ giữa kinh doanh và văn hóa
Có quan điểm cho rằng: Nói đến kinh doanh là nói đến những hoạt động thu lợi nhuận mà để có lợi nhuận, con người thường có xu hướng xâm hại đến lợi ích của người khác. Còn nói đến văn hóa là nói đến cái tốt, cái đúng, nói đến đạo đức, thẩm mỹ và những gì tốt đẹp nhất. Cho nên cần phải làm thế nào đó để đưa nhân tố văn hóa vào kinh doanh để làm cho hoạt động kinh doanh lành mạnh hơn và ngược lại, đưa các nhân tố kinh doanh vào văn hóa mà không làm tổn hại đến văn hóa.
1.3 Văn hoá kinh doanh - Yếu tố quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc tế
Văn hoá kinh doanh của mỗi dân tộc được hình thành ngay từ khi xuất hiện hoạt động kinh doanh trong đời sống xã hội của dân tộc đó. Vì vậy, tự nó là một nhu cầu của văn minh thị trường và là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là thừa nhận “tính nhiều chiều, nhiều cạnh của sự phát triển”, trong đó cạnh, chiều văn hoá có vai trò quan trọng. Nếu văn hoá là nền tảng tinh thần đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội, thì văn hóa kinh doanh chính là nền tảng tinh thần, là linh hồn cho hoạt động kinh doanh của một quốc gia. Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế như hiện nay, trong một thế giới cạnh tranh đầy sôi động như ngày nay, muốn đảm bảo sự phát triển bền vững cho hoạt động kinh doanh của quốc gia, hơn lúc nào hết, chúng ta phải có khả năng thích ứng, tự hoàn thiện để hợp tác, hội nhập và nắm bắt thời cơ một cách kịp thời. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp nói riêng và cộng đồng các doanh nghiệp nói chung cần phải ý thức tạo dựng cho mình một nền tảng văn hoá kinh doanh. Tham gia hội nhập, mục tiêu của các doanh nghiệp sẽ là đạt được những lợi thế cạnh tranh trên cơ sở khả năng đổi mới và thích ứng nhanh chóng với môi trường kinh doanh và giành được phần thắng trong cạnh tranh. Văn hóa kinh doanh sẽ đóng vai trò then chốt trong việc giúp cho doanh nghiệp, doanh nhân đạt được mục tiêu. Khi hội nhập, chúng ta khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp tầm cỡ về vốn, công nghệ, giá thành, nhân
tài,…Vậy làm thế nào để chúng ta xây dựng được lợi thế cạnh tranh của riêng mình? Làm thế nào để ta nổi bật hẳn lên được so với họ? Chính văn hoá kinh doanh là đầu mối quan trọng làm nên sự khác biệt của doanh nghiệp Việt, tạo uy tín, danh tiếng và sức sống cho doanh nghiệp, phát huy tối đa năng lực của các cá nhân và hướng họ về mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp, giúp chúng ta vươn tới thành công nhờ vào nguồn nội lực của chính mình. Khi đã tham gia hội nhập cạnh tranh thị trường thì sự cạnh tranh của các doanh nghiệp lúc này về thực chất là cạnh tranh về văn hóa kinh doanh. Con đường cải tiến và đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm là rất cần thiết và tất yếu. Song điều quan trọng hơn là việc tạo dựng văn hóa kinh doanh mang sắc thái Việt Nam mới
chính là con đường ngắn, hiệu quả phù hợp với xu thế và phát triển chung trong kinh doanh và cạnh tranh. Các doanh nghiệp của chúng ta cần không chỉ có năng lực cạnh tranh hơn, mà cả có văn hóa hơn Thêm nữa, một nền văn hoá kinh doanh tiên tiến còn là điều kiện tiên quyết để chúng ta xây dựng thành công cộng đồng doanh nhân chuyên nghiệp, hạt nhân của nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Từ đó, các doanh nghiệp mới có thể phát huy được vai trò của mình, đóng góp quan trọng vào quốc sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng đất nước Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế.
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG VHKD HIỆN NAY CỦA VN VÀ TQ
2.1 Đặc điểm VHKD VN và TQ
2.1.1 Đặc điểm của Việt Nam
Như các quốc gia đang phát triển, Việt Nam có nền kinh tế vẫn chưa được giải phóng một cách thật sự ra khỏi sự ràng buộc của chính trị. Chính trị vẫn tiếp tục can thiệp đáng kể vào đời sống kinh doanh hàng ngày. Điều này rất dễ tạo ra rủi ro cho nền kinh tế. Nó thường biến đổi liên tục do thay đổi chu kỳ cầm quyền từ những nhà chính trị này sang những nhà chính trị khác. Nếu đời sống kinh doanh lệ thuộc quá nhiều vào chính trị thì mọi hoạt động của đời sống kinh doanh sẽ quay cuồng đến chóng mặt.
ví dụ như: việc lựa chọn mô hình kinh tế. Các mô hình kinh tế hiện nay vẫn được lựa chọn dựa trên tiêu chuẩn chính trị nhiều hơn là các tiêu chuẩn hay đặc thù kinh tế. Sự lựa chọn mô hình kinh tế có ảnh hưởng đến nhiều mặt của cuộc sống, bởi vì chọn mô hình kinh tế nào, người ta sẽ phải đào tạo người lao động theo mô hình ấy. Người ta cũng phải đào tạo các nhà quản lý, xây dựng hệ thống pháp luật và xây dựng môi trường cho đời sống kinh doanh dựa vào các đòi hỏi của mô hình đã chọn.
Bên cạnh đặc điểm chung đã nêu, nền kinh tế Việt Nam còn có một số đặc thù do lịch sử để lại. Trong giai đoạn kiến thiết đất nước sau khi giành được độc lập, nhà nước đã xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất tức là loại bỏ kinh tế tư nhân. Sai lầm này đã để lại hậu quả trên nhiều mặt của đời sống xã hội mà trước tiên là nền kinh tế. Việc loại bỏ sở hữu tư nhân đã kéo theo sự phát triển phi tự nhiên của nền kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân là môi trường thuận lợi cho các khuynh hướng đa dạng của cuộc sống sinh sôi và phát triển. Kinh tế tư nhân Việt Nam tồn tại trong những điều kiện bất lợi như vậy đã không có cơ hội phát triển. Một khi kinh tế cá nhân không có cơ hội để phát triển thì các giá trị cá nhân hầu như tan biến, con người sẽ trở nên mờ nhạt trong mọi khía cạnh của đời sống vật chất cũng như tinh thần. Sự phát triển lệch lạc của nền kinh tế đã tác động không nhỏ đến sự hình thành và phát triển tự nhiên của văn hóa kinh doanh.
Có thể thấy một trong những nhược điểm của văn hóa kinh doanh Việt Nam là chúng ta không có truyền thống kinh doanh, một lợi thế của cộng đồng kinh doanh ở bất kỳ quốc gia nào. Xuất phát từ sự phát triển không liên tục của nền kinh tế do chịu nhiều tác động chủ quan, hoạt động kinh doanh đã không tạo ra được chuỗi thành tựu liên tục để có thể hình thành truyền thống kinh doanh. Các giá trị văn hóa trong kinh doanh do chịu nhiều tác động đã không thể hình thành một cách tự nhiên. Tâm lý kinh doanh cũng chịu nhiều sự tác động và trở thành một thứ tâm lý hỗn hợp. Hiện nay, khi ra phố, chúng ta có thể thấy người Việt Nam buôn bán rất nhộn nhịp, nhưng đấy là tâm lý kiếm lời chứ không phải tâm lý kinh doanh. Nếu chỉ có tâm lý kiếm lời một cách nhanh chóng thì không thể có nền kinh tế chuyên nghiệp được và nền kinh tế đó sẽ giống như một cái chợ mà người ta mang hàng hóa từ chỗ khác đến bán chứ không phải là nơi sản sinh ra các sản phẩm.
Trong quá trình hình thành, ngoài những đặc điểm kinh tế, văn hoá kinh doanh còn chịu sự tác động của các đặc điểm văn hóa. Nền văn hóa khép kín và chưa được giải phóng ra khỏi các định kiến chính trị ấy không được tiếp nhận một cách tự nhiên các yếu tố mới và do đó không thể đóng góp nghĩa vụ của mình trong đời sống hiện tại và cả đời sống phát triển. Văn hóa kinh doanh, chính vì thế, cũng mang trên nó những yếu tố lạc hậu của nền văn hóa.
Tiếp sau những ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, sự chèn ép của đế quốc thực dân, những sai lầm trong thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung đã đẩy tầng lớp doanh nhân đến tình trạng bị xã hội nhìn nhận gần như kẻ xấu - những kẻ ăn bám hoặc trục lợi bất chính. Kết quả là chúng ta có một đội ngũ doanh nhân không chuyên nghiệp, không có chiến lược dài hạn và không có tiêu chuẩn văn hóa. Trong đội ngũ doanh nhân vẫn tồn tại phổ biến lối kinh doanh chụp giật, phi pháp và không thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình với nhà nước và xã hội. Nguy hiểm hơn là hiện tượng doanh nhân trục lợi hay tìm kiếm địa vị chính trị bằng cách liên kết, móc ngoặc với các thế lực chính trị thoái hóa hay tận dụng sơ hở của nhà nước diễn ra một cách phổ biến. Hiện tượng này tạo ra sự liên minh không minh bạch giữa chính trị và kinh tế. Đây là biểu hiện không lành mạnh của xã hội. Liên minh giữa chính trị và kinh doanh thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau đối với từng quốc gia và luôn là liên minh vô cùng nguy hiểm ở bất kỳ quốc gia nào. Đối với một nước đang phát triển như nước ta, liên minh này mới chỉ thể hiện ở mức độ thấp, đó chính là quá trình tham nhũng.
2.1.2 Đặc điểm của Trung Quốc
Cũng có một đặc điểm chính trị giống VN nhưng TQ đã có lợi thế hơn chúng ta về truyền thống kinh doanh của họ được hình thành sớm hơn. Họ cũng dần thoát khỏi sự ràng buộc của chính trị vào kinh doanh.
2.2 Những thành tựu đạt được
Hiện nay các doanh nghiệp VN, một số đã rất thành công , mà nguyên nhân sâu xa chính là do các doanh nghiệp này đã và đang coi trọng xây dựng văn hoá kinh doanh cho mình nhưng các doanh nghiệp đó không giống như doanh nghiệp TQ vì: họ đã vươn ra thị trường thế giới và rất phát triển còn VN thì chưa có nhiều thành công lắm ở thị trường này. Đa số các doanh nghiệp chỉ thành công với thị trường trong nước.
2.3 Những hạn chế của VHKD VN với TQ
2.3.1Thiếu tính liên kết, cộng đồng
Trong khi doanh nghiệp TQ có sức mạnh và tiềm lực rất lớn, lại hơn chúng ta cả trăm năm kinh nghiệm họ còn thông qua các hoạt đọng của hội quán, bản thân của chủ doanh nghiệp cùng hội quán của họ đóng góp khá tốt cho hoạt động của chính quyền địa phương nơi doanh nghiệp trú đóng…, trong khi vốn liếng chưa nhiều, năng lực cạnh tranh chưa cao thì chúng ta lại thiếu sự liên kết, đoàn kết.
Ví dụ như: Một mình cà phê Trung Nguyên với hoài bão xây dựng thương hiệu cho nông sản Việt Nam mà không có sự tiếp sức của những doanh nghiệp cùng ngành nghề thì biết đến chừng nào mới thực hiện được
Hiện nay, không ít doanh nghiệp lại không thể cởi mở, liên kết với nhau, thậm chí có khi còn chơi xấu, cạnh tranh không lành mạnh với nhau. Hệ quả là không những không nâng cao sức cạnh tranh mà còn yếu đi vì sự tranh mua, tranh bán, thậm chí hạ uy tín của nhau.
2.3.2 Nhẹ chữ Tín
Giữ chữ tín là điều kiện của thành công, sự thất bại đối với doanh nghiệp, doanh nhân không giữ chữ tín là sự thất bại báo trước, thời gian chỉ có thể là sớm hay muộn mà thôi. Theo nhiều nhà kinh doanh nước ngoài, các nhà kinh doanh Việt Nam không coi trọng chữ tín, hay viện dẫn các lý do khách quan để khước từ việc thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong quan hệ với các đối tác nước ngoài. Từ cá nhân đến cơ chế, phải đau lòng nhận ra là người Việt chưa tin người Việt. trong khi đó người TQ lại rất coi trọng chữ tín
2.3.3 Cung cách làm ăn nhỏ lẻ, thói quen tùy tiện
Các doanh nghiệp Việt Nam vốn bị kém thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế do cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi nhuận trước mắt mà ít nghĩ đến cục diện chung. Việc liên kết để đáp ứng những đơn đặt hàng lớn chỉ thuận lợi trong những bước đầu, sau đó, các doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành riêng hợp đồng cho mình để rồi dẫn đến tình trạng luôn nghi kỵ, đối phó lẫn nhau và sẵn sàng giành giựt quyền lợi riêng cho công ty mình mà không nghĩ đến cục diện chung. Nhiều doanh nghiệp không có khả năng tổ chức thực thi sản xuất và kinh doanh ở qui mô lớn cho cùng loại sản phẩm để đáp ứng nhu cầu thị trường; Theo báo cáo mới nhất của UNDP về 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam thì chúng ta chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam cũng chỉ mới tương đương với những doanh nghiệp vừa và nhỏ của các nước phát triển. Khác với chúng ta TQ đã thành lập những tập đoàn kinh tế hùng mạnh có tiếng trên thế giới…
2.3.4 Tầm nhìn hạn hẹp, tư duy ngắn hạn
Vì không có tầm nhìn dài hạn nên các doanh nhân Việt Nam thường không xây dựng mục tiêu dài hạn và có kế hoạch đầu tư thích hợp. Đa số các doanh nhân khi lập doanh nghiệp chỉ nghĩ đến việc xây dựng một công ty hàng đầu Việt Nam, ít khi nghĩ xa hơn tới việc xây dựng các thương hiệu toàn cầu, tham gia vào giải quyết các bài toán tiêu dùng cho toàn thế giới. Có thể thấy được tầm nhìn của doanh nhân Việt Nam hiện đang ở đâu qua bảng xếp hạng 200 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc(UNDP) vừa công bố: những doanh nghiệp được xem là lớn nhất của Việt Nam chỉ gần tương đương với các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thế giới, và các doanh nghiệp hàng đầu này cũng “phải còn rất lâu nữa mới vươn tới được chuẩn quốc tế”. Cũng vì thiếu tầm nhìn nên doanh nghiệp không đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu dài và lao theo xu hướng “ăn xổi”, đầu tư cả vào những lĩnh vực không thuộc chuyên môn của mình. Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi ích kinh doanh dài hạn tại Việt Nam thì nhiều doanh nghiệp lớn của Việt Nam đang tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư mang tính đầu cơ - như kinh doanh bất động sản, kinh doanh chứng khoán - mà quên đi các lĩnh vực kinh doanh cốt lõi. Việc này TQ cũng khác chúng ta, họ đã có những kế hoạch dài hạn cho kinh doanh
2.3.5 Nặng về “quan hệ”, “chạy chọt ”, dựa dẫm
Ở nước ta đặc tính coi trọng quan hệ cá nhân, xu hướng cá nhân hóa các mối quan hệ kinh doanh, ỷ lại vào bảo hộ của nhà nước vẫn tồn tại khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời gian và tiền bạc cho một hoặc một số nhân vật quan trọng của đối tác, cho các mối quan hệ cá nhân giữa người kinh doanh mà cụ thể hơn là người bán hoặc mua với người có thẩm quyền quyết định của bên đối tác mua hoặc bán Một số lại câu kết với những người xấu trong bộ máy Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào mối quan hệ rộng hơn là nhờ vào năng lực. Xu hướng dựa vào quan hệ rộng như là một chủ bài - mạnh hơn cả năng lực, và xu hướng nhờ vả, chạy chọt hiện đang tồn tại ở mức đáng kể. Lợi ích quá nhiều
từ quan hệ cá nhân, tranh giành đất đai, dùng quan hệ để thắng thầu bất chính, thậm chí dùng cả quyền lực chính sách để bóp méo lực lượng thị trường như phân phối quota xuất nhập khẩu... chính là những hiện tượng phổ biến, gây bức xúc trong toàn xã hội. người TQ rất coi trọng mối quan hệ nhưn họ không dựa dẫm vào nó để chuột lợi mà dựa vào nó để tìm hiểu đói tác, nhân viên, đối thủ… của mình. Song thực tế ở họ cũng tồn tại một số ít trường hợp như VN
2.4 nguyên nhân
vì có các đặc điểm (mục 2.1) nên tình trạng này là điều tất yếu phải sảy ra.
CHƯƠNG 3:NHỮNG BIỆN PHÁP CHO NHỮNG BẤT CẬP HIỆN NAY
3.1 Ý nghĩa của việc so sánh
Chỉ rõ được những sai lầm, cũng như những thói quen không tốt ảnh hưởng đến văn hóa của bản thân doanh nghiệp cũng như văn hóa kinh doanh của VN nói chung. Vì vậy chúng ta càn đưa ra biện pháp nhằm khắc phục những bất cập đó.
3.2 Các biện pháp
3.2.1 biện pháp khách quan
Biểu hiện của VHKD tiêu biểu là văn hoa doanh nghiệp. vì vậy muốn cải thiện VHKD trước hết phải quan tâm đến văn hóa doanh nghiệp, mà chúng ta chưa có đội ngũ doanh nhân với đầy đủ phẩm chất cần có. Vì vậy, khởi điểm của quá trình điều chỉnh văn hóa kinh doanh phải là việc xây dựng một đội ngũ doanh nhân chuyên nghiệp.
Nhà kinh doanh ở khu vực nhà nước do được nhà nước đảm bảo nên trách nhiệm của họ rất hạn chế. Địa vị của những doanh nhân này là địa vị chính trị chứ không phải là địa vị kinh tế. Đã là địa vị chính trị thì có thể khắc phục sự mất mát địa vị bằng những cách thức chính trị chứ không phải bằng cách thức kinh doanh. Chính các giám đốc của những doanh nghiệp tư nhân mới là những người phải đương đầu thực sự với rủi ro và phải cạnh tranh để hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh của mình. Khu vực kinh tế tư nhân là môi trường tốt nhất để rèn luyện một đội ngũ doanh nhân chuyên nghiệp.
Việc xây dựng đội ngũ doanh nhân phải bắt đầu từ các cá thể chứ không phải từ tổ chức, tức là không được cưỡng ép quá trình này bằng những đòi hỏi trái tự nhiên. Đội ngũ doanh nhân hình thành một cách lành mạnh khi và chỉ khi mỗi doanh nghiệp, mỗi cá nhân kinh doanh là những cá thể phát triển hoàn chỉnh. Sở dĩ đến nay chúng ta vẫn chưa có đội ngũ doanh nhân chuyên nghiệp là vì lâu nay chúng ta vẫn chưa nhận thức một cách rõ ràng rằng mỗi người sinh ra đã là một cá thể. Mỗi cá thể không chỉ là một thực thể sinh học mà còn là một thực thể văn hoá. Một cộng đồng doanh nhân đúng nghĩa phải là tập hợp các cá thể hoàn chỉnh cả về kỹ năng, trình độ và các tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh.
thái độ tôn trọng thực sự đối với tầng lớp doanh nhân. Việc báo chí tuyên truyền rầm rộ các giải thưởng sao đỏ, sao vàng chưa hoàn toàn phản ánh thái độ cần có của Đảng và Nhà nước đối với giới doanh nhân. Thậm chí, không ít người còn cho rằng, sự thể hiện ấy là thái quá, giống như sự sám hối đối với sự miệt thị các hoạt động kinh doanh trước kia, hay nói cách khác, đó chỉ là những động thái chính trị nhằm khích lệ doanh nhân. Thực ra, cái mà doanh nhân đi tìm không phải là địa vị chính trị mà là địa vị xã hội. Doanh nhân là những người ý thức đầy đủ và tỉnh táo về sự gia tăng các giá trị thông qua hành vi của mình vì gia tăng các giá trị là mục tiêu của kinh doanh. Xét theo quan điểm kinh tế của Adam Smith, sự gia tăng giá trị kinh doanh đó thậm chí còn mang lại những giá trị xã hội lớn hơn và đó là giá trị xã hội của nhà kinh doanh. Sự thừa nhận giá trị xã hội của nhà kinh doanh, do đó, là động lực vô cùng to lớn cho sự phát triển của kinh tế.
Cần nhận thức lại về chủ nghĩa yêu nước. Nếu như trước đây, yêu nước gắn liền với lòng căm thù giặc sâu sắc hay sự hy sinh để bảo vệ tổ quốc thì trong thời đại hiện nay, khi đất nước đã độc lập và thống nhất, yêu nước cần phải được hiểu là làm cho "dân giầu nước mạnh" như khẩu hiệu mà Đảng ta đã đề ra. Doanh nhân là những con người như thế bởi chính họ đem đến sự giàu có cho dân tộc, lợi ích của họ cũng chính là lợi ích của xã hội. Chúng ta hoàn toàn có thể coi doanh nhân thành đạt là nhân tài của đất nước. Điều đáng mừng là thế hệ trẻ ngày nay đã phần nào hiểu được sự tụt hậu của đất nước, họ khát khao đóng góp và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Cần phải khuyến khích và tạo không gian tự do cho sự phát triển năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân, đặc biệt là những nhân tố như thế.
3.2.2 Biện pháp rút ra từ sự so sánh
Trên đây là những biện pháp bên ngoài tác động vào doanh nghiệp, nhưng quan trọng nhất vẫn là do bản thân của mỗi doanh nhân- chủ thể của kinh doanh. Doanh nhân cần phải học tập những phong cách làm việc chuyên nghiệp của những người di trước ta( doanh nhân TQ). Từ bỏ dần những thói quen xấu ở những bất cập đã nêu.
KẾT LUẬN
Sự thịnh vượng của một quốc gia là kết quả của sự phong phú đời sống tinh thần, đời sống trí tuệ, đời sống tâm hồn của mỗi con người. Để có được sự phong phú ấy thì điểm xuất phát của nó là mỗi cộng đồng được cấu tạo bởi các cá thể có giá trị, mà một cá thể có giá trị phải bắt đầu từ một cá thể lành mạnh. Khi nào con người không nhận ra mình là một cá thể và chứng minh mình là một cá thể quan trọng hơn bất kỳ cái gì còn lại thì không thể có sự thịnh vượng. Cộng đồng doanh nhân cũng vậy, nếu không có tính cá thể hay chất lượng cá thể không trọn vẹn thì cũng không thể trở thành một cộng đồng mạnh và càng không thể góp phần đem lại sự giàu có và thịnh vượng cho quốc gia. Vì vậy, xây dựng một đội ngũ doanh nhân với những cá thể hoàn chỉnh là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Một đội ngũ doanh nhân lành mạnh sẽ là tiền đề của một nền văn hoá văn hoá kinh doanh lành mạnh và nền kinh tế chuyên nghiệp. Nền văn hóa kinh doanh ấy sẽ góp phần đưa cộng đồng kinh doanh Việt Nam cùng cả nước hội nhập vào đời sống kinh tế chính trị toàn cầu.
Cùng với những khuyết điểm rút ra từ việc so sánh hai nền văn hóa kinh doanh của hai quốc gia VN và TQ sẽ là những sự nhắc nhở cho nền văn hóa kinh doanh chưa theo kịp thời đại như nước ta. Và khi những khuyết điểm được sữa chữa thì nền kinh tế của đất nước ta sẽ phat triển bền vững, vươn xa lên tầm cao mới, cạnh tranh được với các đối thủ mạnh trên thị trường toàn cầu như hiện nay
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hội nhập và văn hóa kinh doanh Việt Nam (PGS.TS.Dương Thị Liễu, NCS. Nguyễn Vân Hà)
Văn hóa kinh doanh Trung Quốc (Thu Lê)-việt báo
Bàn về văn hóa kinh doanh( Nguyễn Trần Bạt)
“tín” đặc trưng văn hóa kinh doanh của người Hoa (Trần Thị Anh Vũ)
Các website: www.svhanhchinh.com.vn; www.vietbao.com.vn …
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Văn hoá kinh doanh của Việt Nam và Trung Quốc.doc