Vì vị trí giải phẫu như vậy nên khi viêm, rất dễ chẩn đoán lầm với viêm ruột thừa
Tất cả các bệnh nhân của chúng tôi đều đau bụng phải, đa số có thời gian đau từ 1-2
ngày (13/15 trường hợp), 14/15 trường hợp có sốt và bạch cầu tăng (93,3%). Như
vậy, hầu như bệnh cảnh lâm sàng và kết quả xét nghiệm rất khó để phân biệt v ới viêm
ruột thừa. Chính vì thế, 14/15 trường hợp của chúng tôi không chẩn đoán được trước
mổ. Siêu âm cũng không thể giúp phân biệt hữu hiệu được 2 bệnh lý này. Một số tác
giả đánh giá cao vai trò của CT scan, tuy nhiên, chúng tôi
không có trường hợp nào được chụp CT scan nên không không bàn luận nhiều. Chụp
đại tràng là phương pháp tốt để chẩn đoán nhưng không được chỉ định trong tình
trạng túi thừa viêm với nguy cơ thủng cao.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1768 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Viêm túi thừa đại tràng phải bằng phẫu thuật nội soi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VIÊM TÚI THỪA ĐẠI TRÀNG PHẢI BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI
TÓM TẮT
Mục tiêu: Trình bày kinh nghiệm điều trị viêm túi thừa đại tràng phải của chúng
tôi bằng phương pháp cắt túi thừa nội soi.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu các trường hợp viêm túi thừa
đại tràng phải được phẫu thuật nội soi cắt túi thừa tại Bệnh viện Nhân Dân Gia
Định từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 9 năm 2008.
Kết quả: có 15 trường hợp, tuổi trung bình là 30 (thay đổi 15-48), nam nữ gần
như nhau (8:7). Tất cả đều đau hố chậu phải, sốt và bạch cầu tăng trong 14/15
trường hợp (93%). Đều được phẫu thuật nội soi cắt túi thừa và cắt ruột thừa. Hậu
phẫu ổn định cho tất cả bệnh nhân.
Kết luận: kinh nghiệm của chúng tôi cho thấy, nội soi cắt túi thừa là phẫu thuật an
toàn để điều trị viêm túi thừa đại tràng phải.
ABSTRACT
LAPAROSCOPIC DIVERTICULECTOMY FOR RIGHT-SIDED COLONIC
DIVERTICULITIS
Le Huy Luu * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 46 –
50
Objective: The aim of this study was to present our experience of the laparoscopic
diverticulectomy for right-sided colonic diverticulitis.
Patients and methods: This is a retrospective review of patients with a diagnosis
of right colonic diverticulitis who received laparoscopic diverticulectomy at the
Gia Dinh people Hospital from June 2006 to September 2008.
Results: There were 15 patients with the mean age of 30 years (range, 15-48).
There were 8 men and 7 women. The chief complaint among all patients was right
lower quadrant pain. The average duration of symptoms was 2 days (range, 1-7
days). An elevated temperature and leukocytosis were present in 14 patients
(93%). All patients were treated by laparoscopic diverticulectomy and
appendectomy. The postoperative course of all patients was uneventful
Conclusion: Our results showed that laparoscopic diverticulectomy could be
considered as a safe and adequate treatment for right-sided colonic diverticulitis
Mở đầu
Túi thừa đại tràng là một cấu trúc hình túi bất thường nhô ra khỏi thành của đại tràng.
Dựa vào cấu trúc, người ta chia túi thừa ra làm 2 loại: túi thừa thật khi thành của túi
có đầy đủ các lớp của thành ruột; túi thừa giả khi không có đầy đủ các lớp của thành
ruột. Dựa vào số lượng, người ta còn chia ra túi thừa đơn độc (có 1 hoặc 2 túi thừa) và
đa túi thừa (trên 3 cái).
Bệnh sinh của túi thừa chưa được biết rõ, giả thuyết được công nhận nhiều nhất đó là
sự gia tăng áp lực trong lòng đại tràng kết hợp với sự khiếm khuyết thành ruột tại vị
trí mạch máu xuyên qua khiến niêm mạc bị thoát vị qua đó tạo túi thừa(Error! Reference
source not found.). Tuy nhiên, thuyết này chỉ đúng đối với túi thừa giả. Do đó, đến nay
người ta vẫn tin rằng, túi thừa thật là do bẩm sinh. Chính vì vậy, ta thường gặp túi
thừa giả thường xuất hiện dưới dạng đa túi thừa và ở bên phần đại tràng thường có áp
lực cao là đại tràng sigma. Điều này cũng lý giải vì sao bệnh lý này phổ biến ở các
nước phương Tây (do thói quen ăn uống ít chất xơ) mà ít gặp hơn ở các nước phương
Đông.
Túi thừa ở bên phải đại tràng ít gặp hơn, thường là túi thừa thật và đơn độc. Khi bị
viêm sẽ có triệu chứng gần giống viêm ruột thừa. Và vì hiếm gặp nên ít khi được chẩn
đoán đúng trước mổ mà thường là chẩn đoán lầm là viêm ruột thừa(Error! Reference source
not found.).
Việc điều trị viêm túi thừa loại này vẫn đang còn bàn cãi giữa điều trị nội khoa và
phẫu thuật. Điều trị nội khoa có nhược điểm hiển nhiên đó là túi thừa vẫn còn tồn tại,
vì vậy sẽ có nguy cơ viêm tái phát hay xuất hiện các biến chứng khác. Về phẫu thuật
thì phẫu thuật được lựa chọn thường là cắt đại tràng phải điều này làm bệnh nhân
ngoài việc phải chịu đựng một cuộc mổ ra còn phải chịu ảnh hưởng của các rối loạn
chức năng do cắt ruột gây nên.
Ngày nay, phẫu thuật nội soi được phổ biến rộng rãi, được áp dụng trong mổ cấp cứu
ngày càng nhiều. Vì vậy, khi gặp tình huống viêm túi thừa được chẩn đoán trong mổ
thì việc xử trí sẽ như thế nào? Cắt túi thừa là một phương pháp có ưu điểm là vừa điều
trị triệt để túi thừa, vừa bảo tồn được đại tràng và cuộc mổ cũng nhẹ nhàng hơn. Tuy
nhiên, phương pháp này chỉ phù hợp khi túi thừa đơn độc. Hơn nữa, sự lành vết
thương trên nền một tình trạng viêm như vậy có đảm an toàn?
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá tính khả thi và an toàn khi lựa chọn
cách giải quyết là cắt túi thừa qua nội soi và khâu kín lại đại tràng. Thực tế là cũng
chưa có nhiều báo cáo trong nước về vấn đề này.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Hồi cứu trong gần 3 năm (từ năm 2006 đến nay) tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Tiêu chuẩn chọn bệnh là tất cả các trường hợp mổ cấp cứu được chẩn đoán trong mổ
là viêm túi thừa đại tràng, được xử trí cắt túi thừa qua nội soi ổ bụng với ghi nhận cấu
trúc này thông với đại tràng.
Thu thập các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng. Tình trạng túi thừa, tình trạng ổ
bụng trong mổ, thời gian mổ và các diễn tiến, biến chứng sau mổ.
Các dữ liệu được lưu trữ và phân tích bằng phần mềm SPSS 13.0
KẾT QUẢ
Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2006 – 9/2008 có 15 trường hợp thỏa điều kiện
nghiên cứu, 8 nam, 7 nữ. Tuổi trung bình là 30,4 (15 - 48).
Tất cả đều nhập viện vì đau hố chậu phải từ 1 đến 7 ngày, trung bình là 2 ngày (1,9
+/- 1,8), đa số là đau 1 ngày. Trường hợp đau 7 ngày là viêm phúc mạc, 5 ngày là áp
xe. Hầu hết các trường hợp được chẩn đoán trước mổ là viêm ruột thừa hoặc biến
chứng của viêm ruột thừa, chỉ có một trường hợp được chẩn đoán trước mổ là viêm
túi thừa do gợi ý của siêu âm và bệnh cảnh lâm sàng không tương xứng với thời gian
đau là 2 ngày.
Bảng 1: Chẩn đoán trước mổ và thời gian đau
Chẩn đoán trước
mổ
Số ca Thời gian
đau
Viêm ruột thừa cấp 12 1-2 ngày
Áp xe ruột thừa 1 5 ngày
Viêm phúc mạc ruột
thừa
1 7 ngày
Viêm túi thừa 1 2 ngày
Nhiệt độ trung bình là 38,1oC, có 3 trường hợp không sốt, 2 trường hợp cao nhất là
39 oC. Bạch cầu trung bình là 13.800/mm3, một trường hợp không tăng, 2 trường
hợp tăng cao 19-20.000, trong đó có một trường hợp là viêm phúc mạc.
Về số lượng túi thừa
13 trường hợp chỉ có duy nhất một túi thừa, 2 trường hợp có 2 túi thừa. Về vị trí: 3
trường hợp túi thừa ở đại tràng lên, 1 trường hợp có túi thừa ở manh tràng và đại tràng
lên, các trường hợp còn lại túi thừa ở manh tràng trong đó có một trường hợp túi thừa
nằm ngay tại chổ đổ của hồi tràng.
Hầu hết túi thừa ở tình trạng viêm, 2 trường hợp đã thủng gây viêm phúc mạc và áp
xe. Tất cả đều được phẫu tích bộc lộ rõ lổ thông vào đại tràng, sau đó cắt lọc sạch
mép thành ruột và khâu lại bằng chỉ vicryl 3.0. Mọi thao tác đều được thực hiện qua
nội soi. Tất cả các trường hợp đều được cắt ruột thừa kèm theo.
Giải phẫu bệnh sau mổ ghi nhận được 8 trường hợp có mô túi thừa viêm, các trường
hợp còn lại không xác định được tính chất hoặc chỉ ghi nhận mô viêm. Tất cả các
trường hợp đều có giải phẫu bệnh ruột thừa không viêm hoặc viêm thứ phát.
Thời gian mổ trung bình là 98 phút, nhanh nhất là 60 phút, muộn nhất là 150 phút.
Trung tiện sau mổ 2,7 ngày, cho ăn nhẹ khi đã có trung tiện. Thời gian năm viện
trung bình là 5,7 ngày, nhanh nhất là 4 ngày (2 trường hợp), lâu nhất là 9 ngày. Hầu
hết không có biến chứng, chỉ có một trường hợp tụ dịch ở hố chậu phải được điều trị
nội khoa ổn.
Kháng sinh sử dụng thường là Augmentin hoặc Unasyn hoặc Ceftriaxon kèm với
Metronidazole. Hai trường hợp dùng kèm Gentamycin, 5 trường hợp chỉ sử dụng một
kháng sinh. Thời gian sử dụng trung bình là 4,8 ngày, ít nhất là 2 ngày, nhiều nhất là
7 ngày.
Bảng 2: Danh sách bệnh nhân và một số đặc điểm
1.
Bệnh nhân Tuổi Thời
gian
đau
Nhiệt độ
(oC)
Bạch
cầu
(x103)
Số
lượng
Vị trí Thời
gian mổ
(phút)
Thời
gian
nằm
viện
2.
Lê Hữu Ngh 17 2 ngày 38.2 19.9 1 MT 125 8
3.
Trần Quang T 40 7 38.0 19.1 2 MT 120 5
4.
Nguyễn Bá H 33 2 38.0 11.9 1 MT 85 4
5.
Ng Thị T 16 5 39.0 14.5 1 ĐT lên 110 5
6.
Lương thị M 39 1 37.8 9.6 1 HMT 150 6
7.
Nguyễn Thanh
Ph
25 2 37.8 10.9 1 MT 90 5
8.
Trần Ngọc Mai
Tr
26 2 38.5 14.9 1 MT 80 6
9.
Kiều Thị Đ 48 1 38.5 13.6 1 ĐT lên 110 8
10. Phạm Thị23 1 37.5 14.6 1 MT 65 4
Thanh V
11. Đoàn Văn H 34 1 37.5 10.9 1 ĐT lên 110 6
12. Đoàn Thị L 35 1 39.0 11.6 1 MT 60 4
13. Lương Thị
Kim C
43 1 37.0 12.3 1 MT 110 9
14. Tô Quang Nh 19 1 38.0 15.0 2 MT, ĐT 75 5
15. Nguyễn Thanh
Ph
43 1 38.0 14.0 1 MT 90 5
16. Quách Thanh
Q
15 1 38.0 14.0 1 MT 85 5
BÀN LUẬN
Khác với bệnh túi thừa đại tràng trái, túi thừa đại tràng phải ít gặp hơn nhiều, chiếm
khoảng 5-14% bệnh lý túi thừa đại tràng nói chung(Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.). Theo các báo cáo trước đây thì tần suất viêm túi thừa đại tràng
phải vào khoảng 1/300 – 1/34 các trường hợp cắt ruột thừa(Error! Reference source not found.),
thường gặp ở các nước phương Đông hơn phương Tây (đây là một điểm khác biệt
nữa đối với túi thừa đại tràng trái)(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,
Error! Reference source not found.). Tỉ lệ này phù hợp với số liệu chúng tôi thu thập được trong
nghiên cứu vì với số lượng 15 ca (không tính các trường hợp nghi ngờ túi thừa nhưng
không xử lý gì) trong 3 năm (hàng năm số lượng cắt ruột thừa ở bệnh viện chúng tôi
là khoảng 1500 ca), thì tỉ lệ trong nghiên cứu là khoảng trên 1/300.
Túi thừa đại tràng phải thường là đơn độc và bẩm sinh(Error! Reference source not found.). Các
bệnh nhân của chúng tôi đều khá trẻ, đa số là dưới 40, nhiều trường hợp dưới 20 tuổi,
đây là lứa tuổi mà các yếu tố nguy cơ gây túi thừa đại tràng mắc phải chưa hoặc chưa
kịp ảnh hưởng. Ngược lại, túi thừa đại tràng trái thường gặp ở các bệnh nhân trên
50(Error! Reference source not found.) tuổi.
Vì vị trí giải phẫu như vậy nên khi viêm, rất dễ chẩn đoán lầm với viêm ruột thừa(2).
Tất cả các bệnh nhân của chúng tôi đều đau bụng phải, đa số có thời gian đau từ 1- 2
ngày (13/15 trường hợp), 14/15 trường hợp có sốt và bạch cầu tăng (93,3%). Như
vậy, hầu như bệnh cảnh lâm sàng và kết quả xét nghiệm rất khó để phân biệt với viêm
ruột thừa. Chính vì thế, 14/15 trường hợp của chúng tôi không chẩn đoán được trước
mổ. Siêu âm cũng không thể giúp phân biệt hữu hiệu được 2 bệnh lý này. Một số tác
giả đánh giá cao vai trò của CT scan(Error! Reference source not found.), tuy nhiên, chúng tôi
không có trường hợp nào được chụp CT scan nên không không bàn luận nhiều. Chụp
đại tràng là phương pháp tốt để chẩn đoán nhưng không được chỉ định trong tình
trạng túi thừa viêm với nguy cơ thủng cao.
Việc điều trị vẫn đang còn bàn cãi. Đối với túi thừa viêm chẩn đoán được trước và
chưa có biến chứng, nhiều tác giả chọn giải pháp điều trị nội khoa bảo tồn bằng
cách cho ruột nghỉ ngơi và dùng kháng sinh tĩnh mạch. Kháng sinh được khuyên
nên sử dụng tối thiểu 7-10 ngày, trong trường hợp nhẹ có thể điều trị ngoại trú và
theo dõi sát(Error! Reference source not found.). Có khoảng 50-80% đáp ứng với điều trị nội,
nhưng có tới 15-30% tái phát sau đợt đầu tiên(Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.).
Một số lựa chọn khi phát hiện tổn thương nghi ngờ viêm túi thừa là: cắt ruột thừa và
điều trị nội khoa túi thừa; cắt túi thừa và ruột thừa, cắt đại tràng phải, cắt hồi manh
tràng(Error! Reference source not found.). Phương pháp phẫu thuật chuẩn được lựa chọn khi
phát hiện một khối ở đại tràng phải trong khi mổ là cắt đại tràng phải và nối hồi đại
tràng ngang(Error! Reference source not found.), việc này giúp điều trị triệt để đồng thời cũng
giúp tránh bỏ sót một số bệnh khác như ung thư. Một số tác giả thì chọn giải pháp
không làm gì nếu túi thừa viêm không biến chứng(Error! Reference source not found.). Cả 2 thái
độ này đều có những nhược điểm nhất định. Túi thừa đại tràng phải thường gặp ở
người trẻ, việc cắt ruột ít nhiều cũng gây ảnh hưởng đến chức năng sinh lý của ruột,
còn không can thiệp gì thì hầu như bệnh nhân sẽ bị tái phát trong tương lai, 55% sau
thời gian theo dõi trung bình là 5,72 năm(Error! Reference source not found.).
Cắt túi thừa là một lựa chọn hợp lý, theo tác giả Ngoi, đây là phẫu thuật an toàn và
vừa đủ, chia sẻ quan điểm này còn có Papaziogas(Error! Reference source not found.). Tuy
nhiên, theo Yang, phẫu thuật không dễ vì sẽ rất khó khăn khi phẫu tích mô viêm xung
quanh túi thừa, chính vì vậy ông chỉ thực hiện được 8 trong số 113 trường hợp ông đã
gặp(Error! Reference source not found.). Tất cả các trường hợp của chúng tôi đều được phẫu
thuật cắt túi thừa kèm ruột thừa, chúng tôi cũng ghi nhận được những khó khăn khi
phẫu tích. Tuy nhiên, với việc phẫu tích tỉ mỉ, bám sát thành đại tràng, chúng tôi luôn
tìm được vị trí túi thừa đổ vô đại tràng và đảm bảo được mép ruột an toàn để khâu
kín. Có những trường hợp khó khăn như áp xe và viêm phúc mạc, chúng tôi cũng cắt
lọc sạch mô hoại tử, bộc lộ bờ cắt an toàn để khâu. Một trường hợp túi thừa nằm ngay
chổ đổ của hồi tràng, chúng tôi cắt túi thừa theo chiều cùa van Bauhin và khâu mặt
trước hồi tràng vào đại tràng ngang. Tất cả 15 trường hợp đều được thực hiện hoàn
toàn qua nội soi.
Hậu phẫu không gặp vấn đề gì trong hầu hết các trường hợp, một trường hợp tụ dịch
ở hố chậu phải khi siêu âm ở ngày hậu phẫu thứ 3, được sử dụng kháng sinh đủ 7
ngày thì ổn định, đây là trường hợp viêm phúc mạc. Như vậy, chúng tôi chưa gặp bất
cứ vấn đề gì liên quan tới việc khâu đại tràng, thời gian điều trị sau mồ cũng không
kéo dài, có trường hợp xuất viện sau mổ 2 ngày. Kháng sinh cũng chỉ sử dụng nhiều
nhất là 7 ngày, thậm chí không dài ngày hơn việc khuyến cáo khi điều trị nội khoa
không mổ, nhiều trường hợp chỉ sử dụng một kháng sinh.
Tóm lại, việc cắt túi thừa qua nội soi ổ bụng vừa đảm bảo được điều trị triệt để, vừa
không kéo dài hơn thời gian điều trị, vừa giữ được toàn vẹn giải phẫu cũng như sinh
lý của đại tràng và cuộc mổ cũng không quá lớn, vẫn đảm bảo được các ưu điểm của
phẫu thuật nội soi.
KẾT LUẬN
Với kết quả trên, chúng tôi rút ra được một số nhận xét sau: viêm túi thừa đại tràng
phải không phải là quá hiếm; thường xuất hiện đơn độc; dễ chẩn đoán lầm với viêm
ruột thừa; phẫu thuật nội soi cắt túi thừa là một phương pháp an toàn và hiệu quả.
Trong thời gian tới, chúng tôi tiếp tục thực hiện và theo dõi kết quả lâu dài trên những
bệnh nhân này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 122_1845.pdf