Chuyên đề Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Cổ phần Thiết Bị Thương Mại-Hà Nội

Thị trường là yếu tố quyết định đến việc tiêu thụ sản phẩm của mỗi doanh nghiệp vì chỉ khi nào sản phẩm được chấp nhận và được tiêu thụ thì khi đó công tác tiêu thụ sản phẩm mới được đảm bảo, thị trường sẽ điều tiết và khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Công ty cổ phần Thiết bị thương mại cũng không nằm ngoài môi trường đó. Điều đó có nghĩa là để tồn tại và phát triển, công ty không ngừng đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm, đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mình, cạnh tranh với các doanh nghiệp khác nhằm duy trì sự ổn định trong chiến lược phát triển chung của công ty

Công ty cổ phần Thiết bị thương mại sản xuất sản phẩm kinh doanh chủ yếu trong nước. Các sản phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều tỉnh thành phố trong cả nước như Hải Phòng, Đà Nẵng, Vinh , Thái Nguyên .và đã chiếm được cảm tình của khách hàng bởi uy tín về sản phẩm với mặt hàng độc đáo và chất lượng cao là két bạc các loại, cân treo và tủ văn phòng. Công ty đã giữ chữ tín làm đầu, luôn đảm bảo “Chất lượng là vàng”; luôn luôn đảm bảo với khách hàng về chất lượng sản phẩm mình làm ra nên công ty đã giữ được thị trường khách hàng truyền thống. Khách hàng đến với công ty thông qua hệ thống các cửa hàng đại lý của công ty ở nhiều tỉnh thành phố trong cả nước.

 

doc68 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1222 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Cổ phần Thiết Bị Thương Mại-Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các phương thức, công cụ cũng như dịch vụ cho bán hàng. - Tổ chức hội nghị khách hàng nhắm thu nhận thông tin đóng góp của khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp , về các hoạt động của công tác tiêu thụ sản phẩm, qua đó tháo gỡ những vướng mắc và có biện pháp thúc đẩy tốt hơn cho hoạt động tiêu thụ sản phẩm. 4.3) Tổ chức các dịch vụ sau bán hàng. Ngày nay, trong cơ chế thị trường, việc tổ chức các dịch vụ sau bán hàng luôn được coi là vấn đề quan trọng, nó thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp , sự quan tâm chu đáo của doanh nghiệp đối với khách hàng trong và sau quá trình mua bán. Điều này không chỉ tạo ra sự yên tâm nơi khách hàng mà còn góp phần khẳng định chất lượng sản phẩm và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Các dịch vụ sau bán hàng có thể là: dịch vụ bảo hành sản phẩm , hướng dẫn sử dụng, chuyên chở, đóng gói, sửa chữa miễn phí... 4.4) Một số hoạt động khác hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm . - Tổ chức hiệp hội kinh doanh: có vai trò quan trọng trong kinh doanh, doanh nghiệp có quyền tự do gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội. Hiệp hội có vai trò quan trọng để bảo vệ thị trường, gía cả, giới thiệu và khuyếch trương sản phẩm, phổ biến kinh nghiệm kinh doanh và thông tin thị trường . - Chào hàng: là biện pháp chiêu thị thông qua các nhân viên của doanh nghiệp đi tìm khách hàng để bán hàng. - Hội chợ triển lãm: hội chợ là nơi chưng bày sản phẩm của nhiều doanh nghiệp trong khu vực hoặc trong và ngoài nước. Hội chợ là nơi gặp gỡ của các nhà sản xuất kinh doanh với nhau và với khách hàng. Nó cũng là nơi để doanh nghiệp giới thiệu, quảng cáo, mua bán sản phẩm, thăm quan tìm kiếm mặt hàng mới, ký kết hợp đồng mua bán, tìm kiếm thị trường mới, khách hàng mới. Khi tham gia hội chợ phải chú ý: + Chọn đúng sản phẩm để tham gia hội chợ, đó là những sản phẩm tốt, có thế mạnh về mặt kỹ thuật, chất lượng và có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm của các doanh nghiệp khác. + Tham gia đúng hội chợ: doanh nghiệp cần phải cân nhắc, lựa chọn hội chợ trên cơ sở thu thập, phân tích các thông tin địa điểm của hội chợ uy tín, doanh nghiệp nào tham gia hội chợ, các sản phẩm nào sẽ được đem đến hội chợ? Trên cơ sở đó doanh nghiệp phân tích xem tham gia hội chợ này có ích gì, khó khăn gì để từ đó ra quyết định có nên tham gia hay không. +Tổ chức cửa hàng giới thiệu sản phẩm : loại cửa hàng này vừa có chức năng bán hàng, vừa có chức năng giới thiệu sản phẩm. Yêu cầu giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp không chỉ làm người mua biết sản phẩm đó mà qua đó gợi mở nhu cầu. Do đó, cửa hàng giới thiệu sản phẩm phải làm người mua thấy được nhiều đặc tính có liên quan của sản phẩm đó. Địa điểm cửa hàng phải đảm bảo được yêu cầu của quảng cáo, điều kiện mua hàng đượcthuận tiện. Các nhân viên của cửa hàng giới thiệu sản phẩm phải am hiểu về doanh nghiệp và các sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất cũng như tính năng công dụng của sản phẩm của doanh nghiệp. + Giúp đỡ khách hàng: là việc làm cần thiết. Bởi vì nó sẽ kích thích mạnh mẽ việc thu hút khách hàng về doanh nghiệp, tạo uy tín cho doanh nghiệp, đồng thời nó thể hiện sự buôn bán văn minh, lịch sự. Sự giúp đỡ của doanh nghiệp về mọi mặt: đóng gói sản phẩm, vận chuyển, phương thức thanh toán, thủ tục giao nhận hàng đơn giản thuận tiện, hợp lý....cũng sẽ góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy công tác tiêu thụ bởi vì khách hàng luôn mong muốn được phục vụ tận tình chu đáo, điều này cũng để lại trong lòng khách hàng sự tín nhiêm đối với doanh nghiệp, thúc đẩy mở ra những quan hệ mua bán tiếp sau. III) Các yếu tố ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp 1) Chiến lược sản phẩm Nội dung cơ bản của chiến lược này là quyết định nên đưa ra thị trường sản phẩm nào thì có lãi, trong thời gian bao lâu thì nên đưa sản phẩm mới hoặc thay đổi kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm ... Điều cốt yếu trong chiến lược sản phẩm doanh nghiệp phải đảm bảo là luôn có sản phẩm mới để lúc cần thiết có thể tung ra thị trường và quan trọng hơn cả là bán cái thị trường cần chứ không phải bán thứ doanh nghiệp sản phẩm được. Để xác định mục tiêu chiến lược sản phẩm cần xem xét hai vấn đề cụ thể sau: - Toàn bộ sản phẩm của doanh nghiệp đang sản xuất được thị trường chấp nhận mức độ nào. - Loại nào cần cải tiến để hoàn thiện, loại nào cần giảm số lượng, loại nào cần giảm sản xuất. Triển vọng phát triển của sản phẩm mới, nên sản xuất số lượng bao nhiêu và tung ra thị trường vào lúc nào. Trên cơ sở xem xét hai vấn đề cốt lõi trên, chiến lược tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp bao gồm nội dung sau: ã Phân tích chu kỳ sống của sản phẩm: Chu kỳ sống của sản phẩm là khoảng thời gian kể từ khi sản phẩm xuất hiện cho tới khi biến mất trên thị trường nào đó. Như vậy chu kỳ sống bao giờ cũng gắn bó với một thị trường cụ thể. Một sản phẩm có thể không có chỗ đứng ở thị trường này nhưng lại cần thiết ở một thị trường khác. Như vậy, một sản phẩm bao gồm hai hình thái “sống” và “chết”. Trong các thị trường khác nhau xác định được hình thái của sản phẩm là vấn đề hết sức quan trọng từ đó mà phán đoán đúng tương lai của nó để định hướng tiêu thụ chính xác. Qua phân tích chu kỳ sống của sản phẩm, chúng ta thấy mỗi sản phẩm trải qua 5 giai đoạn trong vòng đời của mình là: xuất hiện, phát triển , chín muồi, suy giảm, trì trệ. Người ta thường sử dụng doanh thu và lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh hình thái của vòng đời. Sơ đồ :Đồ thị chu kỳ sống của sản phẩm. 0 T1 T2 T3 T4 T5 +Giai đoạn 1 (0-T1): Gọi là giai đoạn mới thâm nhập vào thị trường. Sản phẩm mới đưa ra trên thị trường, người tiêu dùng chưa biết đến, doanh số bán ra còn ít, chi phí lớn( kể cả sản xuất và các biên pháp chiêu thị ). +Giai đoạn 2 (T1-T2): Gọi là giai đoạn phát triển. Do chiêu thị phát huy hiệu quả, uy tín của sản phẩm tăng dần, người mua nhiều hơn do đó doanh số bán ra tăng nhanh, đạt hiệu quả cao. +Giai đoạn 3 (T2-T3): Giai đoạn chín muồi( hưng thịnh ) uy tín sản phẩm ở mức tối đa, người mua đạt mức tối đa, lợi nhuận hiệu quả thu lại cũng lớn nhất. +Giai đoạn 4 (T3-T4): Giai đoạn suy giảm, việc bán trở nên khó khăn, người tiêu dùng giảm dần, doanh số bán tụt xuống, ít hiệu quả cho dù có tiến hành các biên pháp tiếp thị một cách tích cực chăng nữa. +Giai đoạn 5 (T4-T5): Gọi là giai đoạn trì trệ, doanh số bán hàng giảm nhanh chóng, người tiêu dùng không muốn mua sản phẩm nữa, có tiến hành hoạt động chiêu thị mấy cũng vô ích. Sản phẩm đã bị “đào thải” cần phải được loại bỏ. Nghiên cứu chu kỳ sống của sản phẩm là rất cần thiết giúp ta chủ động trong lập kế hoạch tiêu thụ và các biện pháp kèm theo tương ứng với từng giai đoạn của nó, điều này giúp doanh nghiệp khai thác tốt nhất lợi thế của những giai đoạn có nhiều triển vọng nhất, kéo dài thời gian từng giai đoạn để chủ động “rút lui” khỏi thị trường khi sản phẩm chuẩn bị bước vào giai đoạn suy thoái. Nghiên cứu và phân tích chính xác chu kỳ sống của sản phẩm là khâu rất quan trọng phục vụ cho việc xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp với thực tế kinh doanh và điều kiện của thị trường. ã Phân tích sản phẩm và khả năng thích ứng thị trường Mỗi sản phẩm đều có những đặc tính riêng biệt với các tính năng sử dụng và với các đối tượng khách hàng khác nhau. Mỗi một sản phẩm có những đặc tính riêng nhằm vào những nhu cầu khác nhau của mỗi người tiêu dùng, đều có những nét đặc trưng về vật chất và những nét đặc trưng về tâm lý như: giá trị sử dụng, chất lượng, nhãn hiệu, ký hiệu...Trong khi đó người tiêu dùng tìm kiếm thị trường giá trị sử dụng mà mình cần thoả mãn. Vì vậy, để kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp phải nắm được nhu cầu, tập quán người tiêu dùng, từ đó xem xét sản phẩm của mình đáp ứng nhu cầu khách hàng hay không. Cho nên doanh nghiệp thường xuyên phân tích sản phẩm tìm hiểu xem khả năng của nó thích ứng thị trường đến đâu. Nội dung phân tích gồm: - Đánh giá khả năng và mức độ thành công của sản phẩm trên thị trường. - Phát hiện những khuyết tật về nội dung và hình thức của sản phẩm, cần tiến hành hoàn thiện hơn . - Phát hiện những cơ hội bán hàng và có kế hoạch khai thác triệt để những cơ hội đó. ã Tạo uy tín sản phẩm Một sản phẩm nếu không có uy tín thì không thể tồn tại được trên thị trường. Do vậy tạo uy tín sản phẩm là một vấn đề hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Nó là vũ khí cạnh tranh có nhiều lợi thế nhất. Tâm lý người tiêu dùng là thích sắm những gì mà họ quen sử dụng hoặc sản phẩm chưa quen biết nhưng được dư luân ca ngợi. Doanh nghiệp cần lợi dụng yếu tố tâm lý này để tạo uy tín sản phẩm. Đó là nhãn hiệu hàng hoá, tính thuận tiện cho việc mua sắm của khách hàng. ã Về nhãn hiệu sản phẩm Nhãn hiệu sản phẩm là dấu hiệu biểu thị đặc trưng riêng của một loại hàng hoá nào đó. Nó được biểu hiện bằng hình ảnh hoặc bằng chữ. Nhãn hiệu sản phẩm vừa mang tính độc quyền đối với khách hàng, vừa mang tính cạnh tranh trên thị trường. ã Chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là hệ thống những đặc tính nội tại của sản phẩm được xác định bằng những thông số có thể định lượng được hoặc có thể so sánh được với những chỉ tiêu cụ thể và thoả mãn được những nhu cầu nhất định của người tiêu dùng và xã hội. Chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc và phù hợp với thời đại, ở mỗi dân tộc, mỗi thời điểm lịch sử khác nhau quan điểm về chất lượng sản phẩm cũng khác nhau. Trong thời đại ngày nay, chất lượng sản phẩm không chỉ thể hiện ở đặc tính tiêu dùng của nó mà còn thể hiện ở những nhân tố như: bao bì, nhãn mác , các dịch vụ sau bán...Doanh nghiệp cần phải nắm vững và vận dụng triệt để nhân tố này để tăng khối lượng sản xuất và tiêu thụ. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh về chất lượng sản phẩm là vấn đề hết sức gay gắt giữa các doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm cùng loại và là vấn đề thường được các doanh nghiệp đặt lên vấn đề ưu tiên hàng đầu. Để giữ vững và mở rộng thị trường, nâng cao uy tín sản phẩm cũng như đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp bắt buộc các doanh nghiệp phải luôn tìm cách nâng cao chất lượng bằng nhiều biện pháp khác nhau. Điều đó còn mang lại ý nghĩa thiết thực cho người tiêu dùng và cho cả xã hội. Sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp muốn tiến triển tốt theo mục tiêu của mình trong một thời điểm xác định thì chất lượng sản phẩm cũng phải đạt một mức cao nhất định phù hợp với giai đoạn đó theo xu hướng ngày càng tăng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng và theo nguyên tắc là chất lượng sản phẩm phải đảm bảo mức độ tin cậy trong sử dụng. Do đó, công tác tiêu thụ sản phẩm để phục vụ khách hàng tốt hơn và ngày càng tăng doanh số tiêu thụ. Nếu mỗi doanh nghiệp tạo ra được những sản phẩm hàng hoá với chất lượng sản phẩm hàng hoá cao nên tốc độ tiêu thụ nhanh, tạo ra ấn tượng tốt về nhãn hiệu sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp và tạo được sự tín nhiệm của khách hàng, kích thích người tiêu dùng. - Tạo khả năng sinh lời do giảm được phế phẩm, giảm được thời gian kiểm tra. Góp phần cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp do giảm được thiệt hại do chất lượng sản phẩm yếu kém gây ra. - Do việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm nên tạo điều kiện thuận lợi cho việc kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, đảm bảo sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp, bảo đảm giành thắng lợi trong cạnh tranh và thu hút thêm ngày càng nhiều khách hàng, góp phần phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá sản phẩm. 2) Chính sách giá cả Giá cả là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung và lượng cầu hàng hoá trên thị trường. Giá cả là một công cụ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Vì vậy, nghiên cứu giá cả cho sản phẩm tiêu thụ là vấn đề không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh nói chung. Mức giá của mỗi loại sản phẩm trong suốt chu kỳ sống của nó cần phải được điều chỉnh theo sự biến độngcủa cung cầu và của môi trường kinh doanh. Giá cả trong nhiều trường hợp phải được sử dụng như một công cụ cạnh tranh đắc lực của doanh nghiệp. Vì vậy, việc xác lập chính sách giá cả đúng đắn là điều kiện quan trọng đamt bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao và tăng khả năng chiếm lĩnh thị trường , tuy nhiên việc xác lập chính sách giá cả phải đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện mục tiêu của mình về lợi nhuận hoặc tỷ phần thị trường chiếm lĩnh trong một khoảng thời gian nhất định. Nghĩa là giá cả của mỗi đơn vị hàng hoá phải lấy chi phí sản xuất kinh doanh làm cơ sở. Vì vậy để xác định được giá cả hợp lý đòi hỏi công tác hạch toán cho phí và tính giá thành phải được thực hiện đúng nguyên tắc hạch toán. Điều quan trọng ở đây là các doanh nghiệp phải trả lời được câu hỏi: bán hàng với mức gía bao nhiêu là hợp lý đồng thời mang lại hiệu quả lớn nhất cho doanh nghiệp. Giá cả cao hay thấp ảnh hưởng quyết định đến khối lượng tiêu thụ và lợi nhuận mà doanh nghiệp sẽ đạt được. Do đó, để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp, vấn đề quan trọng là xây dựng một chíng xác giá cả hợp lý. 3) Mức độ cạnh tranh trên thị trường Thị trường là môi trường trong đó diễn ra quá trình người bán và người mua tác động qua lại lẫn nhau để xác định gía cả và số lượng hàng hoá tiêu thụ. Mức độ cạnh tranh cũng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hoạt động tiêu thụ sản phẩm nói riêng. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở thực lực và lợi thế của doanh nghiệp trong việc có thể thoả mãn tốt nhất đòi hỏi của khách hàng về sản lượng, chất lượng, phương thức phục vụ và giá cả. Sự cạnh tranh càng gay gắt đòi hỏi doanh nghiệp càng phải có những tính toán và cân nhắc kỹ lưỡng về chất lượng của sản phẩm, chính sách giá cả, phương thức phục vụ, số lượng sản xuất. Mức độ cạnh tranh trên thị trường sản phẩm của doanh nghiệp phụ thuộc vào số lượng doanh nghiệp có sản phẩm cùng cạnh tranh trên thị trường, quy mô và thế lực của các doanh nghiệp đó. Doanh nghiệp nào có sức cạnh tranh cao trên thị trường thì sản phẩm của doanh nghiệp đó được thị trường chấp nhận. 4) Công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp Có ảnh hưởng rất lớn đến công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Công tác tiêu thụ sản phẩm thực sự hoạt động tốt và có hiệu quả. Công tác tổ chức không tốt sẽ làm cho công tác tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng dư thừa và tồn đọng sản phẩm làm cho công tác tiêu thụ sản phẩm hoạt động không hiệu quả, không đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp có sản phẩm tiêu thụ trên thị trường. Vì vậy công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm phải được tiến hành một cách khoa học có sự nghiên cứu tỉ mỉ về sản phẩm, thị trường vể hình thức bán hàng, hình thức thanh toán và các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ. Có làm tốt công tác tổ chức tiêu thụ này thì công tác tiêu thụ sản phẩm mới thực sự đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. 5) Các yếu tố kinh tế – Xã hội 5.1) Quan hệ cung cầu. Ta đã biết cung là lượng một mặt hàng mà người bán muốn bán ở mức giá chấp nhận được. Còn cầu là lượng mặt hàng mà người mua muốn mua ở mức giá có thể chấp nhận được. Trong kinh doanh giá cả thị trường do quan hệ cung cầu quyết định. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả sẽ cao và ngược lại. Do đó giá cả hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ với cung-cầu. Hay nói cách khác, nói tới cung cầu là nói tới giá cả, cung cầu chỉ có nghĩa khi gắn với mặt hàng cụ thể xuất hiện trên thị trường người sản xuất sẽ cố gắng tìm cách để đáp ứng nhu cầu đó. Việc cung ứng hàng hoá đó vừa đủ để thoả mãn nhu cầu hàng hoá đó trong một thời kỳ nhất định gọi là trạng thái cân bằng cung cầu trên thị trường. Bất cứ một sự biến động nào ảnh hưởng đến cung cầu trên như: giá cả các yếu tố đầu vào giảm, năng suất lao động cao, sản phẩm làm ra càng nhiều, những biến động khác làm ảnh hưởng đến thu nhập của dân cư, những vấn đề chính tri, xã hội, lạm phát, thất nghiệp, những thiên tai dịch họa khác... đều làm ảnh hưởng đến sản lượng hàng hoá sản xuất ra và tiêu thụ. Nếu chúng tác động đến cung thì sẽ làm cho lượng cung tăng hoặc giảm và do đó tạo nên sự thiếu hụt hay dư thừa sản phẩm sản xuất ra và ngược lại nếu chúng tác động đến yếu tố cầu thì vấn đề tương tự xảy ra. Và như vậy công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp của hai yếu tố này. Đặc biệt là trong trường hợp dư thừa sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra quá nhiều, vấn đề tiêu thụ trở nên vô cùng phức tạp. Do đó doanh nghiệp cần phải nắm bắt được những biến động này của quy luật cung cầu để có những đối sác hợp lý và hiệu quả. 5.2) Thị hiếu của người tiêu dùng. Thị hiếu là nhân tố mà nhà sản xuất phải quan tâm không chỉ khi định giá bán tung ra thị trường mà phải xác định ngay từ khi xây dựng chiến lược kinh doanh, quyết định phương án sản phẩm đảm bảo tiêu thụ nhanh, nhiều và có lãi. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay nếu sản phẩm sản xuất không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng thì khó có thể tiêu thụ được và nếu cứ tiếp tục sản xuất thì vấn đề giải thể hay phá sản là không thể tránh khỏi. Ngược lại nếu sản phẩm sản xuất ra đáp ứng được nhu cầu thị trường, phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng thì sản phẩm sẽ rấ dễ tiêu thụ, khách hàng sẽ tìm đến và lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp. Do đó, thị hiếu là nhân tố kích thích tiêu thụ mạnh mẽ và cũng là nhân tố có tính quyết định đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 5.3) Chính sách vĩ mô của Nhà nước Ta biết rằng trong thời đại ngày nay, ở bất kỳ một quốc gia nào, Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước đó. Nhà nước tác động đến các chủ thể kinh tế thông qua các chính sách, chủ trương và biện pháp cụ thể nhằm đạt được sự phát triển toàn diện theo định hướng. Song mức độ tác động phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước, đặc biệt là chế độ chính trị của nước đó. Điều mà các chủ thể kinh tế hay các doanh nghiệp quan tâm là việc những chính sách vĩ mô của Nhà nước đưa ra có ảnh hưởng như thế nào đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Có thể nói các chính sách vĩ mô của Nhà nước đều có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Sự tác động này đương nhiên có thể là tác động tích cực hay tác động tiêu cực đến các hoạt động sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp đang thực hiện. Chẳng hạn như các chính sách hạ thấp tỷ lệ vốn vay, hạn chế nhập khẩu, tăng cường công tác chống buôn lậu,...sẽ có tác động tốt đến các doanh nghiệp và ngược lại các chính sách như tăng thuế, tăng giá xăng dầu, tăng giá điện, hạn chế thương mại.. sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Chương 2 tình hình công tác tiêu thụ sản phẩm tại công ty cổ phần Thiết bị thương mại I ) Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần Thiết bị thương mại 1 ) Quá trình hình thành. Công ty cổ phần Thiết bị thương mại tiền thân là Nhà máy Cơ khí nội thương được thành lập ngày 14 tháng 12 năm 1971 trên cơ sở sáp nhập Nhà máy Cơ Khí Nội Thương và xí nghiệp sửa chữa ô tô Quyết Thắng theo quyết định số 74/NT-QĐ, dưới sự quản lý của cục kiến thiết, rồi nhiều cục khác và tới năm 1982 trực thuộc Bộ thương nghiệp, nay là bộ Thương mại. Đến năm 1993 chính thức đổi tên thành công ty Thiết bị thương mại theo giấy phép số 802/TM/TCCB ngày 16/7/1993 của Bộ Thương Mại. Đến năm 1999 do chuyển đổi hình thức công ty đổi tên thành công ty cổ phần Thiết bị thương mại. Việc hình thành và phát triển của công ty gắn liền với mỗi hình thái kinh tế. Phụ thuộc và chịu ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế –xã hội. * Giai đoạn từ 1972-1986: Nhiệm vụ của công ty là sửa chữa ôtô cho ngành vận tải, vận chuyển hàng hoá nhất là trong thời kỳ chiến tranh, đồng thời sản xuất các loại dụng cụ cho ngành thương nghiệp, từ khay đựng bánh phở, khay làm bánh, khay kho lạnh, thùng đựng kem đá, các loại stéc...trong thời kỳ này số lượng công nhân viên còn ít, máy móc thiết bị cũ từ thời Pháp thuộc, trình độ chuyên môn thấp. * Giai đoạn từ 1986-1998: Giai đoạn này nền kinh tế nước ta có những biến đổi không ngừng. Đầu năm 1987 Bộ thương nghiệp được nhà nước đổi tên thành Bộ thương mại và nhà máy cơ khí nội thương cũng đổi tên thành nhà máy Thiết bị thương mại. Nhiệm vụ của nhà máy vẫn như giai đoạn đầu và còn mở rộng thêm sản xuất phục vụ cho các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt là sản phẩm mới mặt hàng két bạc và tủ két rất có tiềm năng phát triển mạnh. * Giai đoạn từ 1998 trở đi xuất phát từ nhu cầu mở rộng nền kinh tế ngày càng cao và để đáp ứng với những thay đổi của nền kinh tế nước ta cho nên ngày 28 tháng 12 năm 1998 theo Quyết định 1673/1998/QĐ-BTM của Bộ thương mại Công ty Thiết bị thương mại được chính thức đổi tên thành Công ty cổ phần thiết bị thương mại. Công ty là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ về tài chính có tư cách pháp nhân, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ thương mại và chịu sự quản lý của nhà nước. Công ty cổ phần Thiết bị thương mại có tên giao dịch đối ngoại là: HOLDING COMMERCIAL EQUIPMENT-COMPANY Chữ viết tắt là: COMECO Công ty có trụ sở chính tại khu công nghiệp Giáp Bát - km số 6 đường Giải Phóng- phường Phương Liệt- quận Thanh Xuân- Hà Nội. Là doanh nghiệp được hình thành dưới hình thức chuyển từ DNNN thành công ty cổ phần Công ty được xây dựng trên khu đất rộng 14600 m2 với tổng diện tích nhà xưởng kho bãi khoảng 7000 m2 . Vốn điều lệ: 2.498.586.858đ Tỷ lệ cổ phần của các cổ đông: -Người lao động trong Doanh nghiệp: 70% tổng vốn. -Ngoài Doanh nghiệp : 30% tổng vốn 2 ) Quá trình phát triển (Từ năm1999-2001) Công ty cổ phần Thiết bị thương mại là DNNN cổ phần hoá theo tinh thần nghị định 44-1998/NĐ-cổ phần ngày 29/6/1998. Kể từ ngày 1-1-1999 công ty chính thức đi vào hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Công ty Thiết bị thương mại có giấy phép đăng ký hành nghề và giấy phép đăng ký kinh doanh do trọng tài kinh tế Nhà nước thành phố Hà nội cấp trong đó quy định rõ ngành nghề kinh doanh của công ty là sản xuất những mặt hàng truyền thống chủ yếu như: két bạc các loại tủ két văn phòng, cân treo, tủ sắt, khoá số và các loại sản phẩm cơ khí khác. Nhiệm vụ lớn lao của công ty là đáp ứng đầy đủ những nhu cầu của thị trường, đảm bảo ổn định đời sống của công nhân viên toàn công ty, làm ăn có hiệu quả, có lãi, đóng góp đầy đủ vào ngân sách Nhà nước. Từ khi chuyển sang công ty cổ phần công ty Thiết bị thương mại làm ăn có hiệu quả rõ rệt, các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định, đời sống người lao động được nâng cao, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước, được thể hiện trong bảng dưới đây: Bảng số 1: Các chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng trưởng của công ty. ĐVT: đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1.Vốn cố định 635.216.985 959.840.217 804.635.217 2.Vốn lưu động 1.094.791.000 1.538.746.641 1.693.964.783 3.Doanh thu 11.196.214.000 13.214.322.000 13.892.125.000 4.Nộp ngân sách 635.742.960 527.426.142 934.714.215 5.Lợi nhuận sau thuế 1.014.986.534 1.664.718.226 2.764.716.112 6.Thu nhập bình quân 1.232.615 1.436.124 1.736.216 7.Tỷ lệ cổ tức 16.2% 18.7% 22.95% Từ bảng trên ta thấy rằng doanh thu qua các năm tại công ty đều tăng: năm 2000 so với năm 1999 doanh thu tăng 2.018 triệu đồng tức 18%; năm 2001 so với năm 2000 tăng 677,8 triệu đồng tức 5.13%. Nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước. Ngân sách nộp năm 2000 thấp hơn năm 1999 trong khi lợi nhuận cao hơn là do năm 1999 và năm 2000 công ty đang ở trong giai đoạn được hưởng ưu đãi cổ phần hóa ( theo K3 đ13 NĐ44/1998/CP) được giảm 50% thuế thu nhập doanh nghiệp. Năm 2000 công ty được giảm thuế suất VAT từ 10% xuống 5% của mặt hàng két bạc, là mặt hàng chính ( theo công văn số5592 TCT). Qua bảng trên ta thấy công ty cổ phần Thiết bị thương mại chỉ mới cổ phần hóa được 3 năm nhưng làm ăn có hiệu quả, tỷ lệ cổ tức cao và tăng đều qua các năm, thu nhập của người lao động được đảm bảo với mức thu nhập bình quân cao, tăng từ 1.200.000 đ năm 1999 đến 1.700.000 đ năm 2001. II) Những đặc điểm công nghệ-kinh tế chủ yếu ảnh hưởng tới công tác tiêu thụ tại công ty cổ phần Thiết bị thương mại. 1) Đặc điểm về sản phẩm và thị trường. 1.1 Đặc điểm về sản phẩm. Sản phẩm truyền thống của công ty chủ yếu là các loại két bạc (KB 90E; KB 42E; KB 35H..), cân treo các loại.Từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường công ty đã mở rộng ra nhiều danh mục sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh như tủ văn phòng các loại, máy trộn muối Iốt,thiết bị dạy học …. Sản phẩm của công ty là sản phẩm gia dụng có tính năng kỹ thuật cao như két bạc phải đảm bảo có độ an toàn cao, tiện dụng, phù hợp với thẩm mỹ và nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng, tủ văn phòng phải tiện lợi, có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, máy trộn muối đòi hỏi độ chính xác cao trong quá trình sản xuất. Các sản phẩm sau khi xuất bán còn có chế độ bảo hành, hướng dẫn sử dụng tỉ mỉ . Công ty đã tạo được uy tín sản phẩm trên thị trường từ nhiều năm về mặt hàng két bạc và cân treo các loại nhưng bước sang các lĩnh vực mới khác như tủ văn phòng, máy móc, thiết bị ytế, thiết bị dạy học thì công ty cần phải lỗ lực nhiều hơn nữa để cạnh tranh với các sản phẩm có sẵn trên thị trường. Mặt khác trên thị trường hiện nay có nhiều cơ sở sản xuất két bạc cạnh tranh với công ty, bên cạnh đó có nhiều sản phẩm nhập ngoại: mẫu mã phong phú, công nghệ mớ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34357.doc
Tài liệu liên quan