Chuyên đề Thực trạng và các giải pháp kiềm chế lạm pháp ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

LỜI MỞ ĐẦU

1.Tên đề tài

2.Lý do chọn đề tài

3.Mục tiêu nghiên cứu

4.Kết cấu đề tài

MỤC LỤC 1

MỤC LỤC BIỂU ĐỒ 2

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3

1.1. Tổng quan về lạm phát 3

1.1.1. Khái niệm về lạm phát 3

1.1.2. Phân loại lạm phát 3

1.2. Cách tính lạm phát 6

1.3. Lạm phát cơ bản 10

1.3.1. Khái niệm lạm phát cơ bản 10

1.3.2. Các phương pháp tính lạm phát cơ bản 12

1.4. Những ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế 15

1.5. Các bài học trên thế giới về kiểm soát lạm phát 16

1.5.1. Hàn Quốc 17

1.5.2. Trung Quốc 17

1.5.3. Các nước khác trên thế giới 19

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 28

2.1. Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế của VN trong thời gian vừa qua. 28

2.2. Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua 30

2.3. Những nguyên nhân dẫn đến lạm phát 33

2.3.1 Việc áp dụng phương pháp tính chỉ số CPI ở Việt Nam 33

2.3.2 Mức cung tiền tăng cao vào năm 2007 35

2.3.3 Thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. 37

2.3.4 Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của các ngân hàng tăng mạnh. 38

2.3.5 Do cầu kéo 41

2.3.6 Do chi phí đẩy. 42

2.3.7 Do công tác dự báo chưa tốt 43

2.3.8 Tỉ giá cố định trong thời gian dài 44

2.3.9 Lúng túng trong điều hành 45

2.4. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam 46

2.4.1. Tác động của lạm phát đến người tiêu dùng 47

2.4.2. Tác động của lạm phát tới người nông dân 47

2.4.3. Tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán 49

2.4.4. Tác động của lạm phát đến tín dụng ngân hàng 50

2.4.5. Tác động của lạm phát tới hoạt động sản xuất kinh doanh 50

2.4.6. Tác động của lạm phát tới tài chính nhà nước 51

2.5. Các chính sách kiềm chế lạm phát của chính phủ trong thời gian qua 51

CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁP Ở VIỆT NAM 58

3.2. Định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam 58

3.3. Các giải pháp cần và đủ . 63

KẾT LUẬN 76

TÀI LIỆU THAM KHẢO 77

 

 

 

Mục lục biểu đồ

Đồ thị 1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2003-2008 28

Đồ thị 2:Lạm phát Việt Nam giai đoạn 2003-2007 30

Đồ thị 3: Thể hiện CPI, USD, Vàng 2007-2008 35

Đồ thị 4 : so sánh mức cung tiền của việt Nam so với Trung Quốc và Thái Lan 36

Đồ thị 5: tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán 39

Đồ thị 6: tăng trưởng dư nợ cho vay ngành ngân hàng 2004-2007 40

 

doc77 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1903 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và các giải pháp kiềm chế lạm pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lương thực thực phẩm , nhất là lúa gạo , giá cao su, cà phê , hạt đều , thịt heo, rau hoa quả biến động thất thường. Trong các năm 1997, 1999, 2000, các mặt hàng lương thực thực phẩm giảm thấp, khó tiêu thụ, nên đã làm cho chỉ số CPI ở mức thấp , thậm chí là âm .Nhưng trong năm 2007 nhóm mặt hàng lương thực phẩm tăng…đã tác động làm gia tăng chỉ số CPI nói chung => Do đó nếu loại bớt được sự tăng giá đột biến gây nên những tác động lớn trong tính toán, thì rõ ràng chỉ số lạm phát không cao như đã công bố.Ta có biểu đồ chỉ số giá tiêu dùng , chỉ số giá vàng và USD của các tháng năm 2007-2008 so với kỳ gốc 2005 (%). Đồ thị 3 : Thể hiện CPI, USD, Vàng 2007-2008 Mức cung tiền tăng cao vào năm 2007 Năm 2007 Việt Nam gia nhập WTO gia nhập vào môi trường mới , áp dụng nhiều chính sách mở cửa thương mại quốc tế .Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đẩy lượng cung ngoại tệ lên cao. Để thu hồi số ngoại tệ về ngân hàng trung ương chính quyền đã bỏ tiền Việt Nam ra mua ngoại tệ . Số tiền đó quá lớn dẫn đến tình trạng dư thừa nội tệ trên thị trường và là nguyên nhân dẫn đến lạm phát . Từ năm 2003-2007 số lượng tiền ở Việt Nam tăng quá nhanh so với số lượng hàng hóa và dịch vụ .Số tiền lưu hành tăng khoảng 25% mỗi năm, số tín dụng tức số tiền cho vay tăng khoảng trên 35% .Trong khi đó số lượng hàng hóa dịch vụ mà dân chúng có thể mua chỉ tăng dưới 10 % một năm. Trong năm ngân hàng nhà nước đã bỏ một lượng lớn nội tệ để mua ngoại tệ ( đầu tư trực tiếp và đặc biệt là đầu tư vào thị trường chứng khoán) đã làm cho mức cung tiền tăng cao. Nửa đầu năm 2007 ngân hàng nhà nước đã tung ra 105 ngàn tỷ để mua vào 6.5 tỷ USD làm dự trữ ngoại tệ , do đó đã tung thêm 40 ngàn tỷ để mua thêm 2.5 tỷ ngoại tệ .Như vậy tổng số tiền tung ra mua 9 tỷ ngoại tệ là 145 ngàn tỷ. Số tiền mà ngân hàng nhà nước rút về được là 90 ngàn tỷ như vậy tổng số tiền in thêm cho thị trường vào đầu năm 2007 là 55 ngàn tỷ chỉ để mua ngoại tệ .So với tổng số tiền mặt có trên thị trường vào cuối năm 2006 là 159 ngàn tỷ thì tiền mặt đã tăng 34.6% để mua ngoại tệ. Đồ thị 4 : so sánh mức cung tiền của việt Nam so với Trung Quốc và Thái Lan (Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.) Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan là hầu như không đáng kể. Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan không thể khác nhau nhiều. Thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. Đối với đầu tư công thì đây là một vấn đề lớn tồn tại hàng chục năm chưa giải quyết được. khi nói đến lạm phát người ta thường nhắc đến yếu tố tiền tệ mà không chú ý đến vấn đề đầu tư, đặc biệt là đầu tư công, tức là đầu tư của nhà nước, sử dụng tiền rất lớn nhưng đa số lại không phát huy hiệu quả cũng như làm thất thoát rất nhiều theo số liệu thống kê cho thấy năm 2007 đầu tư công chiếm 200.000 tỷ trong số 461.000 tỷ đồng đầu tư của toàn xã hội. vì vậy một trong những nguyên nhân sâu xa của tình trạng lạm phát hiện nay là sự thất thoát và lãng phí trong đầu tư công, hàng năm các chuyên gia đều có khuyến cáo nhưng những nhà làm chính sách hình như coi nhẹ vấn đề này. Giả định rằng một phần lớn của 30% trong tổng số ngân sách đầu tư cho cơ sở hạ tầng của năm hoăc mười năm qua hiện đang ở đâu đó ngoài thị trường mà không được quay vòng tròn trở lại trong quan hệ tín dụng như vậy tổng lưu lượng tiền trong nền kinh tế bị méo mó và góp phần vào cơn bệnh lạm phát. Nguyên nhân tình trạng nóng và thủng thị trường tiền tệ là bắt đầu từ ba,bốn năm trước, bội chi ngăn sách, đầu tư kém hiệu quả, xảy ra trong thời gian dài.Qua nhiều cuộc hội nghị tổng kết, chính phủ đã thừa nhận thất thoát trong đầu tư công của các doanh nghiệp nhà nước là 30% đến 40% trong 80.000 tỷ được rót từ ngân sách cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Nguyên nhân thứ hai là các khoảng đầu tư không hiệu quả của nhiều công ty quốc doanh lớn hoạt động trên nhiều lĩnh vực. Nếu con số này chính xác thì tronh năm qua đã có 60.000 tỷ đồng lãng phí đang nằm trong lưu thông, làm trầm trọng thêm tình hình lạm phát. Thâm hụt ngân sách là 5,8% GDP trong khi theo kinh nghiệm quốc tế, thâm hụt 3% đã đáng lo ngại. thâm hụt thương mại ước chừng 12 tỷ USD, tức khoảng 16% GDP trong khi mức 5-10% đã là đáng lo ngại đối với quốc tế. Chưa kể những khoản đầu tư nước ngoài được rót vào những dự án mà hiệu suất kinh tế khá thấp.Một nghiên cứu gần đây của các nhà kinh tế học harvard (mỹ) chỉ số ICOP của Việt Nam năm 2007 là 4.7 ; nghĩa là trong nền kinh tế của chúng ta muốn tăng 1% GDP thì phải tăng 4.7% vốn đầu tư. Đó là chỉ số quá cao so với ICOP thông thường của nước, chỉ từ 1.2 đến 2 mà thôi. Việc sử dụng vốn không hiệu quả cũng góp phần làm gia tăng lạm phát như hiện nay. Vì mục tiêu phải duy trì tăng trưởng Việt Nam đã phải đầu tư nhiều hơn nước người ta và tăng cung tiền nhiều hơn.và đương nhiên lạm phát cũng vì đó mà tăng lên. Có thể nói, lạm phát hiện nay là kết quả của chính sách tìm mọi biện pháp ngắn hạn (mà chủ yếu là thông qua gia tăng chi tiêu công và đầu tư) để kích thích tăng trưởng của nhiều năm trước trong khi ICOP không được cải thiện. Tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng của các ngân hàng tăng mạnh. Tổng phương tiện thanh toán tăng 20% - 30% và dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 18-22% so với năm 2006 cùng với nhiều cơ chế, chính sách đi kèm.Tổng phương tiện thanh toán cả năm 2007 tăng cao hơn nhiều năm trước: tăng khoản 37% so với năm 2006, cao hơn mức tăng trung bình của thời kỳ 2001- 2007 (xem đồ thị 2.1.2). Như vậy, nếu so với chỉ tiêu đề ra đầu năm thì tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán năm 2007 quá cao, vượt 80% so với kế hoạch. Đây là con số nói lên lượng cung tiền tệ tăng quá mức cần thiết của nền kinh tế.Tuy nhiên, trong vấn đề này, có thể khẳng định là cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do năm 2007, lượng ngoại tệ vào nhiều thông qua con đường FDI, FII và kiều hối chuyển về, xuất khẩu tăng… về nguyên nhân chủ quan phải thừa nhận chúng ta chưa chú trọng đúng mức việc thắt chặt tiền tệ ngay từ đầu năm mà đôi khi lại áp dụng chính sách có phần nới lỏng như phát hành tiền ra quá mức để mua ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại tệ một cách ồ ạt như trong 6 tháng đầu năm 2007. Theo kinh nghiệm nhiều năm trước đây thì tổng phương tiện thanh toán tăng ở mức 20 – 30% so với năm 2006 Như kế hoạch đề ra là phù hợp. nếu có sự tăng đột biến cung ngoại tệ vào nền hinh tế thì nên có giải pháp khác, không phải phát hành tiền ra mua ngoại tệ thì sẽ tốt hơn. Đồ thị 5 : tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán (nguồn : trang web ngân hàng nhà nước) Bên cạnh đó có thể thấy dư nợ của hệ thống ngân hàng cho vay toàn nền kinh tế năm 2007 cũng tăng khá mạnh, tăng 37,8%; cao đột biến so với nhiều năm trước đây. Tính chung trong cả nước, tính đến hết tháng 11/2007, tổng dư nợ cho vay và đầu tư đối với nền kinh tế của hệ thống NH tăng gần 34% và ước tính hết năm 2007 tăng tới 37-38% so với cuối năm 2006 và tăng gấp khoảng 2 lần so với mức dự kiến từ đầu năm là 17-21%. Những lĩnh vực thu hút khối lượng lớn vốn tín dụng NH trong năm 2007 đó là đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng, đầu tư bất động sản mà đặc biệt là các dự án khu nhà ở mới và khu đô thị mới, đầu tư vốn trong lĩnh vực xuất khẩu và dịch vụ, nuôi trồng hải sản… bên cạnh đó, đối tượng đầu tư chứng khoán, vàng,tiêu dung… cũng thu hút một khối lượng rất lớn vốn tín dụng. đây là chỉ tiêu quan trọng đối với kiềm chế lạm phát và phát triển nền kinh tế. đã có ý kiến cho rằng để nền kinh tế tăng trưởng cao cần tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế ( đây là luận điểm đúng ), nhưng nếu tăng trưởng tín dụng quá cao như năm 2007 là trên 452 ngàn tỷ đồng, tronh đó, vốn huy động qua hệ thống ngân hàng chiếm khoảng 50%, tức là cần khoảng 226 ngàn tỷ đồng, trong khi thực tế nguồn vốn mà hệ thống ngân hàng cho vay ra nền kinh tế tăng khoảng 262 ngàn tỷ đồng so với năm 2006, như vậy cao hơn so với nhu cầu cần thiết . Khoảng 36 ngàn tỷ đồng ( đây là côn số cũng không lớn lắm). nhưng vấn đề cần bàn chính là chỗ vòng quay đồng tiền năm 2007 có cao hơn các năm do các nhu cầu vốn cho kinh doanh chứng khoáng, kinh doanh bất động sản và vay vốn cho tiêu dùng. Sự hoạt động sôi động và phát triển mạnh của lĩnh vực chứng khoán, bất động sản và tiêu dùng đã tác động ngược vào hệ thống ngân hàng làm cho nó cũng sôi động theo. Hơn nữa, có lẽ vấn đề chuyển dịch cơ cấu tín dụng còn chưa đúng hướng và có diễn biến phức tạp, thể hiện ở chỗ cho vay đối với lĩnh vực phi sản xuất có xu hướng tăng mạnh, trong khi lĩnh vực sản xuất lại chưa đáp ứng được nhu cầu( xem đồ thị 2.1.3), cụ thể, giá điện tăng 7%, nhiên liệu tăng 7,8%. Tuy nhiên, đây chỉ là hiệu ứng một lần, không phải là liên tục. Đồ thị 6 : tăng trưởng dư nợ cho vay ngành ngân hàng 2004-2007 ( Nguồn : ESP research) Theo tin từ ngân hàng nhà nước chi nhánh TP.HCM , dư nợ bất động sản của các ngân hàng cổ phần trên địa bàn đang được ở mức khá cao, xấp xỉ 10% trên tổng dư nợ, số liệu chưa đầy đủ cho thấy khoảng 40.000 tỉ đồng đã đổ vào thị trường bất động sản trong năm qua vì vậy, nếu không thận trọng nguy cơ “bong bóng” tín dụng bất động sản có thể xảy ra. Do cầu kéo Đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dân cư nhũng nhu cầu mới cao hơn. Tuy nhiên, trong nước hai năm 2006-2007, thiên tai, dịch bệnh gây thiệt hại rất nặng nề (thiệt hại kinh tế khoảng 33.600.000 tỷ đồng) chưa được khắc phục thì đầu năm nay, đợt rét đậm, rét hại lịch sử kéo dài ở miền bắc và bắc trung bộ đã gây tổn thất lớn về vật chất cho nhân dân và tác động bất lợi đến sản xuất nông nghiệp. trong những năm qua, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hàng hoá và dịch vụ trên thị trường trong nước dồi dào, đa dạng và phong phú. Song năm 2007, do ảnh hưởng của dịch bênh trên heo, gia cầm diễn ra trên diện rộng và kéo dài làm chết hàng trăm triệu con gia súc gia cầm, mùa màng mất trắng gây thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng đã làm ảnh hưởng rất lớn đến giá lương thực, thực phẩm. trong khi đó nhu cầu thực phẩm tiếp tục tăng, làm cho mặt bằng giá cả của nước tăng đột biến. mặt khác, do biến động mạnh của bất động sản vào năm 2007, nhu cầu xây dựng tăng cao, dẫn đến giá cả của nguyên vật liệu xây dựng, sắt thép, các mặt hàng trang trí nội thất tăng giá. Một diễn biến khác xét từ nhân tố cầu kéo, có thể thấy do giá xuất khẩu gạo của Việt Nam được cải thiện, khối lượng gạo xuất khẩu gia tăng, thị trường xuất khẩu thuỷ sản ổn định và được mở rộng. Do đó giá cả của các mặt hàng lương thực thuỷ sản tăng lên. Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng theo. Giá lương thực, thưc phẩm cuối năm 2007 tăng 18,92% so với cuối năm 2006. Đây lại là nhóm hàng chiếm tỷ trọng 42,85%, tỉ trọng lớn nhất, trong rổ giá hàng hoá được khảo sát. Ngoài ra do làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng; thu nhập dân cư, kể cả thu nhập do xuất khẩu lao động và người thân từ nước ngoài gửi về không được tính vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng tăng, làm xuất hiện trong một bộ phận dan cư những nhu cầu mới cao hơn. Biểu hiện rõ nhất của lạm phát cầu kéo là nhhu cầu nhập khẩu lương thực trên thị trường thế giớ tăng, làm giá xuất khẩu tăng (giá xuất khẩu gạo bình quân của nước ta năm 2007 tăng lên 15% so với năm 2006) kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất khẩu tăng. Tong khi đó, nguồn cung trong nước do tác động của thiên tai, dịch bênh không thể tăng kịp =>Tất cả các yếu tố nói trên gây ra lạm phát cầu kéo, đẩy giá một số hàng hoá và dịch vụ, nhất là lương thực thực phẩm tăng thêm. Cuối năm 2007, giá lương thực thực phẩm tăng 18,92% so với cuối năm 2006. đây lại là nhóm hàng chiếm tỉ trọng lớn 42,85% trong rổ giá hàng hoá được khảo sát. Do chi phí đẩy. Nhân tố chủ yếu do giá cả các mặt hàng mà Việt Nam nhập khẩu trên thị trường Thế Giới tăng lê, tập trung là giá xăng dầu, phôi thép, phân đạm ure, bột giấy, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế …, giá sắt thép tăng là do ngành xây dựng và cơ khí chế tạo tăng chi phí. Nguyên vật liệu tăng giá nên một loạt sản phẩm phải tăng giá bán lên. Đặc biệt là sự biến động lớn của thị trường bất động sản năm 2007, hệ luỵ của nó là vô cùng lớn. đáng lẽ các nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đặc biệt là trong dân cư phải được tập trung để đầu tư phát triển sản xuất thì nay, mọi người dùng tiền để kinh doanh bất động sản gây rối loạn thị trường, đẩy giá bất động sản tăng cao. Do vậy giá thuê mặt bằng để sản xuất, thuê cửa hàng để kinh doanh tăng lên tương ứng, đẩy chi phí sản xuất lên cao. Bên cạnh đó, dưới tác động của quá trình ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới nên ảnh hưởng từ giá thế giới đến Việt Nam cũng nhanh và rất rõ nét. Việt nam đang nhập khẩu nhiều nguyên liệu đầu vào cho sản xuất như 100% xăng dầu, 70% nguyên liệu dệt may, nhiều vật tư cơ bản khác như phôi thép, phân bón …Đây là những mặt hàng tăng giá mạnh trong thời gain qua. Những năm qua giá xăng dầu trên thế giới tăng cao, làm cho giá xăng trong nước cũng tăng lên. Nhưng khi xăng, dầu và nhiều thứ tăng giá trên thế giới, ảnh hưởng không trừ một nước nào. Vậy thì tại sao việt nam lại có tỉ lệ lạm phát tăng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á hơn cả Trung Quốc. Trong lúc lạm phát ở Việt Nam là 14% thì tại nước đứng thứ nhì về lạm phát là Indonesia, chỉ số giá sinh hoạt tăng 7,4%, nước Thái Lan là nước sử dụng nhiều xăng dầu hơn Việt Nam và không có mỏ dầu như Việt Nam nhưng tỉ lệ lạm phát còn thấp hơn so vối Việt Nam . cho nên tình trạng lạm phát cao tại Việt Nam chỉ một phần do giá xăng dầu mà thôi. Do công tác dự báo chưa tốt Một yêu cầu hêt sức cơ bản của dự báo là sự rạch ròi giữa tính khách quan của công tác này với mục tiêu chủ quan của các chính sách. Thế nhưng, thực tế lại không diễn ra như vậy. rất dễ nhận thấy thời gian qua công tác dự báo trở thành công cụ minh hoạ, lập lại và làm an lòng các giới chức trong quyết tâm hoàn thành kế hoạch kinh tế do chính họ đề ra. Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập trong công tác điều hành. Điều này dẫn tối tình trạng số liệu CPI thự so với số liệu CPI mà tổ này dự báo luôn cao hơn tới 20-30%. Sai số đó mới chỉ được cải thiện trong thời gian gần đây. Dẫn tới hậu quả của việc dự báo không hết, không đúng với các tình huống và độ chính xác không cao là làm giảm sự chủ động trong công tác kiểm soát lạm phát. Sự thiếu rạch ròi này đã trở thành nguyên nhân quan trọng khiến chính phủ liên tục bất ngờ, thậm chí lúng túng trong giải các động thái giá cả thị trường. từ đó làm giảm tính chủ động và hiệu quả của các giải pháp kiềm chế lạm phát được lựa chọn. Một nguyên nhân nữa là chính phủ chưa coi trọng công tác dự báo về tác động hai mặt của những chính sách được đưa ra theo yêu cầu quản lí kinh tế thị trường. Tuy nhiên cũng cần phải nói rằng sự độc quyền cũng ảnh hưởng đến công tác dự báo. Trên thực tế, nếu một cá nhân hoặc tổ chức được phân công thực hiện dự báo có lợi ích gắn liền hoặc bị chi phối bởi các đơn vị kinh doanh độc quyền thì chăc chắn công việc dự báo sẽ không chính xác, khó đảm bảo việc tính đúng, tính đủ và minh bạch. Đặc biệ là mặt trái và hệ luỵ dây chuyền khôn lường do những chính sách và mức giá mà họ đề nghị và mượn tay chính phủ áp đặt cho xã hội. Hiện nay, hệ thống các thông tin và dữ liệu chuyên ngành phục vụ trực tiếp công tác dự báo kinh tế dường như mới hình thành bước đầu, chưa có tính thống nhất, nhiều chỉ số còn thiếu hoặc không được khớp nối với hệ thống thống kê chính thức quốc gia hàng năm. Các quy định về quản lí thông tin dữ liệu còn yếu nên xuất hiện tình trạng mạnh ai người đó đề nghị xin, cấp và xử lí khá tuỳ tiện. Cuối cùng là thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng, công vụ dự báo và các tổ chức thực hiện. Dự báo tốt giúp cơ quan quản lí nhà nước nâng cao hiệu quả điều hành thực tiễn. còn việc bám sát thực tiễn điều hành của các cơ quan quản lí nhà nước sẽ giúp cho công tác dự báo thêm cơ sở tin cậy và mềm dẻo, chính xác hơn… Tỉ giá cố định trong thời gian dài Tỉ giá cố định trong một thời gian quá lâu là một trong những nhân tố được nhiều nhà nghiên cứu đề cập như một nguyên nhân gây lạm phát. Do tỉ giá giữa USD/VND rất ít thay đổi trong nhiều nam (bình quân thay đổi khoảng 1-2%/năm) nên hiệu ứng hấp thụ lạm phát từ bên ngoài vào của tỉ giá hoàn toàn bị mất đi. Ví dụ như khi hàng hoá ở Mỹ tăng, người ta sẽ có nhu cầu mua hàng hoá rẻ ở Việt Nam xuất sang Mỹ. nếu tỉ giá USD/VND linh hoạt thì VND sẽ tăng giá, còn USD/VND không linh hoạt thì đồng VND sẽ tăng giá, còn tỉ giá USD/VND không linh hoạt thì hàng hoá Việt Nam sẽ tăng giá. Và vì vậy, khi tỉ giá không linh hoạt thì lạm phát ở mỹ hay nước khác cao sẽ kéo theo lạm phát ở Việt Nam cao. Vì vậy, nhiều đề xuất cho rằng linh hoạt tỉ giá sẽ giuớ chống lạm phát. Nhưng cũng nên xác định là linh hoạt tỉ giá hoàn toàn không đồng nghĩa với việc cho đồng tiền tăng giá để chống lạm phát. VND càng tăng giá thì dầu tư vào trái phiếu Việt Nam sẽ càng có lợi, như vậy dòng vốn quốc tế đổ vào sẽ càng nhiều.Còn nếu như hạn chế dòng vốn vào thì lấy gì bù đắp cho khoản nhập siêu đang tăng lên, rõ ràng năm nay kinh tế các nước đang suy thoái thì kiều hối có duy trì được mấy tỉ USD nữa không? Mà như thế không nhờ vào dòng vốn vào bù đắp thâm hụt thương mại thì nhờ cái gì? Siết chặt tiền tệ mà không cho vốn vào sẽ giết mất thị . Trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán không khởi sắc thì vốn vào sẽ giảm => chính vì vậy, để đảm bảo có nguồn ngoại tệ bù đắp thâm hụt thương mại, không nên siết chặt tiền tệ quá mức và hạn chế dòng vốn vào ( trừ vốn ngắn hạn, nhưng dùng biện pháp hạn chế ngắn hạn lại có thể gây ra mất lòng tin cho cả nhà đầu tư dài hạn, khi đó sẽ gây ra hậu quả không mong đợi rất nguy hiểm). Lúng túng trong điều hành Một điều cũng góp phần khiến tình hình lạm phát ngày càng nghiêm trọng là sự lúng túng trong điều hành chính sách chống lạm phát của chính phủ. Nhiều chính sách tỏ ra mang tính tình thế, bí đâu gỡ đấy, ví dụ như cung tiền tăng nhiều quá rồi thắt chặt cung tiền bằng mọi giá, bao gồm cung tiền ra mua USD vào. Điều này giống như làm đổ một bình nước rồi giờ tiết kiệm từng giọt nước một, trong khi cơ thể thì vẫn cần nước để sống. Điều này do việc quy hoạch chính sách của chính phủ còn thiếu tính dự báo, thiếu việc ứng dụng các mô hình định lượng trong ra quyết định nên giờ đề xuất nào cũng không có cơ sở định lượng khoa học. hiện giờ ai đề xuất dùng lý thuyết nào chống lạm phát cũng được, vì cơ sở đánh giá hiệu quả là không hề có. Đây là hệ quả của những yếu kém trong công tác thống kê kinh tế thời gian qua, cũng như có chiến lược đặt hàng nghiên cứu khoa học phục vụ chính sách hiệu quả ( phần lớn là đề tài nói suông không có cơ sở định lượng ). Một mặt nữa không thể không nhắc đến là khi chính phủ lúng túng trong điều hành, các kênh thông tin chính sách đều bị nhieux, lãnh đạo bộ này chỉ ra nhân tố này, lãnh đạo bộ kia chỉ ra nhân tố khác gây lạm phát thì hệ thống truyền thông liên tục cạnh tranh nhau đưa tin và phân tích về lạm phát, làm tràn ngập xã hội với thông tin về lạm phát. Ảnh hưởng của lạm phát đến nền kinh tế Việt Nam Lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ nền kinh tế. Những tác động chủ yếu bao gồm: Giá cả tăng mạnh sẽ làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Lạm phát cao làm giảm giá trị đồng tiền trong nước. Khi các mức giá cả trong tương lai khó dự đoán hơn thì các kế hoạch chi tiêu và tiết kiệm hợp lý sẽ trở nên khó thực hiện hơn. Người dân ngày càng lo ngại về việc sức mua trong tương lai của họ bị giảm xuống và mức sống của họ cũng vì vậy mà kém đi. Lạm phát cao khuyến khích các hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ trục lợi hơn là đầu tư vào các hoạt động sản xuất (ví dụ: khi có lạm phát, nếu ngân hàng không tăng lãi suất tiền gửãi thì dân chúng sẽ không gửi tiền ở ngân hàng mà tìm cách đầu cơ vào đất đai khiến giá cả đất đai tăng cao...). Lạm phát cao đặc biệt ảnh hưởng xấu đến những người có thu nhập không tăng kịp mức tăng của giá cả, đặc biệt là những người sống bằng thu nhập cố định như là những người hưởng lương hưu hay công chức. Phúc lợi và mức sống của họ sẽ bị giảm đi. Lạm phát làm khổ toàn dân, nhưng giới lao động bị đe dọa trực tiếp. Tác động của lạm phát đến người tiêu dùng Trong khu vực tiêu dùng, người tiêu những người hàng ngày thấy được tác động của sự tăng giá. Với mức lương không đổi giá cả các mặt hàng lương thự thực phẩm lại tăng cao đã đẩy những người tiêu dùng rơi vào tình trạng rất khó khăn. Như vậy, lạm phát như một loại thuế vô hình đánh vào người tiêu dùng, và những người phải chịu hậu quả nặng nề nhất của thứ thuế này là những người có thu nhập cố định, không được điều chỉnh theo mức tăng giá, chẳng hạn như người về hưu, những người trong diện chính sách, người hưởng lương cố định theo ngạch lương của nhà nước, sinh viên v.v. Tác động của lạm phát tới người nông dân Nói nông dân và lạm phát là nói về ba vấn đề: những sản phẩm do nông dân làm ra đang có tốc độ tăng giá cao nhất; nông dân là lực lượng đông nhất, nghèo nhất, nên tác động của lạm phát lên lực lượng này là lớn nhất; nông dân cũng sẽ là lực lượng chống lạm phát có hiệu quả. Về vấn đề thứ nhất : giá lương thực - thực phẩm do nông dân làm ra tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng khác và cao gấp rưỡi tốc độ tăng chung (năm 2007 tăng 18,92% so với tăng 12,63%, 2 tháng đầu năm 2008 tăng 10,17% so với tăng 6,02%). Nhóm hàng này hiện còn chiếm tới 42,85% tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của dân cư, nên tốc độ tăng giá của nó trở thành bộ phận quyết định đến tốc độ tăng giá chung. Ngoài các nguyên nhân do tác động xấu của thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng và gia súc, do tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho diện tích đất canh tác bị thu hẹp... còn do nguyên nhân toàn cầu hóa. Nông sản của các nước tư bản phát triển trong nhiều năm đã được trợ cấp lớn, đã ép giá nông sản của các nước đang phát triển xuống thấp hơn giá trị thực, làm cho người nông dân các nước đang phát triển làm việc quần quật suốt ngày nhưng chỉ "lấy công làm lãi". Nay do toàn cầu hóa, việc trợ cấp giá nông sản của các nước tư bản phát triển, một mặt bị các nước đang phát triển liên tục đấu tranh đòi cắt giảm, mặt khác do "cánh kéo tỷ giá" giữa tỷ giá hối đoái và tỷ giá sức mua tương đương của các nước đang phát triển có xu hướng thu hẹp dần làm cho mặt bằng giá nông sản trên thế giới tăng nhanh. Về vấn đề thứ hai : nông dân hiện chiếm gần ba phần tư dân số cả nước, cũng tức là chiếm gần ba phần tư tổng số người tiêu dùng cả nước. Trong thời kỳ bao cấp, quá nửa dân số sống dưới mức đói nghèo, nên lạm phát cao đã làm cho mọi người cùng bị khổ. Bây giờ chênh lệch giàu/nghèo lớn (lên đến 8,43 lần), trong khi tỷ trọng chi tiêu cho lương thực, thực phẩm của người nghèo cao gấp đôi của người giàu, thì lạm phát cao sẽ làm cho người nghèo bị khổ hơn, trong khi người nghèo sống ở nông thôn chiếm tới trên 90% tổng số người nghèo của cả nước. Như vậy, xét về cả hai mặt (người tiêu dùng và người tiêu dùng nghèo) thì nông dân đều chiếm tỷ trọng lớn nhất, nên lạm phát cao đã làm cho nông dân, nhất là nông dân nghèo càng bị khổ. Ở đây xuất hiện một câu hỏi: giá lương thực, thực phẩm tăng thì nông dân sẽ được lợi chứ sao lại bị thiệt? Đó là xét về đầu ra, nhưng ở đầu vào giá vật tư nông nghiệp còn tăng cao hơn (năm 2007 giá lương thực tăng 15%, giá thực phẩm tăng 10%, thì giá nhập khẩu phân bón tăng 19,2%, giá thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu lên đến 30- 40%, giá thuốc trừ sâu tăng gần 20%; hai tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước, giá lương thực tăng 17,4%, giá thực phẩm tăng 26,8%, thì giá nhập khẩu phân bón tăng tới 71,3%, giá thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu tăng trên 40%, giá thuốc trừ sâu tăng trên 50%,...). Giá đầu ra tăng như thế, nhưng đó là giá cuối cùng, bởi người nông dân không trực tiếp bán cho người tiêu dùng mà còn phải chia cho thương lái, người nông dân chỉ được một phần nhỏ trong số đó. Nếu vừa được mùa, vừa được giá thì mới có lợi, còn nếu được giá nhưng mất mùa thì có khi nhiều nông dân còn khổ hơn. Về vấn đề thứ ba : trước hết cần ngược lại lịch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và các giải pháp kiềm chế lạm pháp ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan