Đề án Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu 1

Phần I: Tổng quan về nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí 2

1. Cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp 2

1.1. Thị trường là gì? 2

1.2. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường 2

1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 3

2. Sản phẩm công nghiệp và thị trường sản phẩm công nghiệp 4

2.1. Sản phẩm công nghiệp 4

2.2. Thị trường sản phẩm công nghiệp 5

3. Những nhân tố tác động tới năng lực cạnh tranh 5

3.1. Nhóm nhân tố thuộc môi trường vĩ mô 5

3.2. Nhóm nhân tố thuộc môi trường ngành 6

3.3. Nhân tố trong doanh nghiệp 6

4. Một số vấn đề liên quan quản trị nâng cao năng lực cạnh tranh 7

4.1. Lĩnh vực sản xuất 7

4.2. Lĩnh vực Marketing 8

4.3. Lĩnh vực nhân sự 8

4.4. Lĩnh vực tài chính 8

Phần II: Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành cơ khí Việt Nam 9

1. Đặc điểm ngành cơ khí Việt Nam 9

1.1. Quá trình hình thành và phát triển ngành cơ khí Việt Nam 9

1.2. Các đặc điểm ngành cơ khí Việt 9

2. Thực trạng năng lực cạnh tranh ngành cơ khí Việt 13

3. Thực trạng hoạt động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 19

4. Tồn tại và nguyên nhân 22

Phần III: Những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh ngành cơ khí 24

Kết luận 31

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

doc33 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2776 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài: Có quy mô và sản lượng lớn chiếm lĩnh một số ngành hàng công nghiệp trong nước, chủ yếu trong lĩnh vực lắp ráp ô tô, xe máy. Đặc điểm về sản phẩm. Theo quyết định số 186/2002/GĐ-TTg của Chính phủ thì mục tiêu Chuơng trình cơ khí trọng đỉêm đến năm 2010 và tầm nhìn tới năm 2020 là tập trung vào 8 nhóm chuyên ngành cơ khí lớn như: máy động lực, máy kéo và máy nông nghiệp, máy công cụ, thiết bị toàn bộ, cơ khí xây dựng, cơ khí tàu thủy, cơ khí ô tô và cơ khí giao thông vận tải, thiết bị điện… Ngành cơ khí Việt Nam sản xuất và cung cấp một phạm vi sản phẩm khá rộng nhưng hầu hết các sản phẩm này chất lượng chưa cao, chưa có khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và trên thị trường quốc tế. Đặc điểm về thị trường. Ngành cơ khí có một thị trưòng sản phẩm rộng lớn, đa dang. Bao gồm: thị trường máy móc-thiết bị phục vụ cho sản xuất công nghiệp và giao thông vận tải, thị trường máy móc-thiết bị phục vụ sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp, thị trường máy móc-thiết bị phục vụ xây dựng, thị trường máy móc-thiết bị phục vụ tiêu dùng… Theo Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Đô Hữu Hào, hiện nay, ngành cơ khí Việt Nam đã đảm bào được 35% nhu cầu thị trường từ đóng tàu, sản xuất, lắp ráp ô tô đến sản xuất máy công cụ, thiết bị giao thông… Thứ trưởng nhấn mạnh: “Nếu có chinh sách, tạo cú húc ban đầu thì ngành cơ khí còn phát triển mạnh hơn nữa”. Thực tế cho thấy, thị trường cơ khí ở nước ta còn rất nhiều tiềm năng. Mỗi năm, chúng ta nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD thiết bị cơ khí. Do đó, khi ngành cơ khí trong nước phát triển, sẽ tạo được doanh thu lớn và giành được thị phần màu mỡ này. Được biết, ngành cơ khí đang có mức tăng trưởng đột biến, bình quân 40,7%/năm. Dự đoán trong vòng 3 năm nữa, ngành này có thể đáp ứng tối thiểu 45-50% nhu cầu trong nước. Tuy nhiên, các chuyên gia và doanh nghiệp cơ khí cho rằng, hiện nay sản phẩm CK mới chỉ ở mức “bằng bằng”, chưa chiếm được thị phần trong nước, xuất khẩu còn thấp. Nếu không có những chính sách kịp thời, tương lai Việt Nam sẽ trở thành “đại công trường” gia công cơ khí cho các nước. Đặc điểm về công nghệ. Theo Bộ Khoa học-Công nghệ và môi trường, trình độ công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam chỉ tương đương với thòi kỳ cách đây 30-50 năm của các nước trung bình trên thế giới , lạc hậu hơn các nước tiên tiến từ 50-100 năm. Cơ khí tuy là ngành công nghiệp quan trọng, nhưng vốn đầu tư cho ngành tăng không đáng kể, các thiết bị được đầu tư từ thời bao cấp. Phần lớn là các thiết bị nhỏ lẻ, không đồng bộ và đã hết khấu hao. Trong khi đó các doanh nghiệp lại rất khó khăn về vốn đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ. Đặc điểm về nguồn lực. Ngành cơ khí có một lực lượng lao động khá lớn. Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê, chưa kể khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, hiện nay có khoảng 224000 lao động đang làm việc trong ngành cơ khí, trong đó có khoảng 10000 người có trình đôj trên đại học. Tuy nhiên, nhìn chung chất lượng nguồn nhân lực ngành cơ khí không cao. Phần lớn đội ngũ công nhân cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý chưa được trang bị các kiến thức mới để đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất cơ khí có công nghệ cao trong cơ chế thị trường.Mặt khác, ngành cơ khí còn thiếu lực lượng nghiên cứu phát triển, từ lực lượng tư vấn, thiết kế công nghệ và thiết kế chế tạo, đến các chuyên gia đầu ngành. Nguồn vốn cho đầu tư phát triển thiếu, chưa có chiến lược thị trường, sản phẩm, trình độ quản lý doanh nghiệp thấp. Quản lý thị trường yếu kém để hàng cơ khí chất lượng thấp, giá rẻ tràn vào thị trường trong nước, gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh cho các doanh nghiệp làm sản phẩm CK chính xác. Đặc điểm về vốn. Theo số liệu thống kê của tổng cục thống kê, hiện nay cả nước có gần 500 doanh nghiệp cơ khí quốc doanh, tuy nhiên bình quân vốn của mỗi doanh nghiệp rất nhỏ chưa đầy 1 triệu USD. Hơn nữa, đầu tư vốn cho ngành cơ khí trong những năm gần đây rất nhỏ, khoảng dưới 2 triệu USD, chỉ chiếm khoảng 0,6% vốn đầu tư. Đây là một khó khăn cho ngành cơ khí nhất là trong việc mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ. Mối quan hệ với các ngành khác. Trong khi bản chất của ngành cơ khí là chuyên môn hóa rộng, hợp tác sâu thì các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam vẫn thiếu sự hợp tác với nhau. Việc tổ chức sản xuất còn khép kín, không sử dụng hết năng lực của thiết bị máy móc hiện có. Một trong những yếu kém của ngành cơ khí là thiếu các ngành công nghiệp liên quan và công nghiệp phụ trợ. Phần lớn các loại nguyện liệu dùng để sản xuất các sản phẩm cơ khí có chất lượng đều phải nhập khẩu. Công nghiệp sản xuất thép trong nước không có khả năng đáp ứng đầu vào cho ngành cơ khí, chưa có công nghiệp luyện nhôm và đồng. Mặt khác, việc cung ứng các loại nguyên liệu khác cũng bị hạn chế và các doanh nghiệp dựa vào các nguồn nhiên liệu sẵn có trong nước đang gặp phải biến động thường xuyên do việc cưng ứng không ổn định. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam. Nhận xét chung về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành cơ khí Việt Nam hiện nay. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, hiện nay, ngành cơ khí có 1599 doanh nghiệp trong nước và gần 30000 hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp cơ khí với giá trị tài sản gần 500 triệu USD, sản xuất khoảng 7000 tỷ đồng giá trị sản lượng với hơn 500 chủng loại sản phẩm như các máy công cụ, động cơ điện, động cơ xăng… Năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam được đánh giá là không cao. Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, các hàng rào bảo hộ bị bãi bỏ thì ngành cơ khí sẽ gặp nhiều khó khăn. Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp cho biết, theo bảng xếp loại về khả năng cạnh tranh, chia làm 3 nhóm gồm: nhóm có khả năng cạnh tranh, nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp, thì ngành cơ khí Việt Nam được xếp vào vị trí thứ 6 trong số 19 ngành hàng thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện. Trong thời gian qua, ngành cơ khí cũng có nhiều khởi sắc, đạt được một số thành tựu lớn. Theo Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Đỗ Hữu Hào, hiện nay, ngành cơ khí Việt Nam mới chỉ đáp ứng được 35% nhu cầu của thị trường. Tốc độ tăng trưởng của ngành cơ khí từ năm 1995 đến 2006 đạt trên 40,7%/năm. Hiện nay ngành cơ khí đã xuất khẩu đạt khoảng 1 tỷ USD/năm. Nhưng có lẽ do đi từ xuất phát điểm quá thấp, có giai đoạn bị thả nổi, được đầu tư quá ít nên khi bước vào hội nhập ngành cơ khí là ngành sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức nhất. 2.1.1. Thị trường trong nước. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, nhu cầu về sản phẩm cơ khí ngày càng tăng nhanh và đa dạng đặc biệt là nhu cầu về thiết bị đồng bộ để cải tạo đầu tư chiều sâu, xây dựng các nhà máy mới và các loại hàng tiêu dùng cao cấp. Các loại hàng này chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng kinh ngạch nhập khẩu của nước ta trong thời kỳ đổi mới. Theo số liệu của các cơ quan thẩm quyền hàng năm nước ta nhập khẩu khoảng 3,5 tỷ thiết bị máy móc, phương tiện vận tải, phụ tùng… trong đó một nửa là thiết bị lẻ, dịch vụ, phụ tùng và một nửa là thiết bị toàn bộ cho các ngành công nghiệp khác nhau. Nếu coi lượng nhập khẩu này cộng với khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong nước là nhu cầu thực tế của thị trường thì nhu cầu hàng năm về sản phẩm cơ khí trong cả nước là vào khoảng 3,8 đến 4 tỷ USD. Đó là một nhu cầu rất lớn, là cơ hội cho các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam. Tuy nhiên, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam rất yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của nên kinh tế quốc dân. Trước hết, phải thừa nhận rằng trong 10 năm đổi mới vừa qua, ngành cơ khí cũng đã có những bước phát triển: Năm 2000 giá trị tổng sản lưọng của toàn ngành cơ khí đạt trên 19115 tỷ đồng, tăng gấp gần 2,26 lần chỉ tiêu này của năm 1995, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong giai đoạn 1996-2000 là 17,7%. Tuy nhiên so với nhu cầu thì con số đó còn quá nhỏ. Năm 1996, ngành cơ khí mới chỉ đáp ứng được khoảng 8% nhu câu trong nước. Còn hiện nay, mặc dù có sự tăng trưởng đáng kể, song ngành cơ khí mới chỉ đáp ứng được khoảng 10% nhu cầu đó. Và giá trị sản lượng của toàn ngành cơ khí chỉ chiếm khoảng 9% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành công nghiệp, trong khi đó vốn đầu tư chiếm hơn 10% và số lao động chiếm khoảng 8,4%. Thị trường sản phẩm cơ khí ở Việt Nam bị sản phẩm của các nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… xâm lấn hay nói một cách khác, các đối thủ chủ yếu của Việt Nam trong ngành cơ khí là Trung Quốc, Hàn Quốc. Nhật Bản. + Về thị phần: các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam chỉ chiếm một phần nhỏ Một số sản phẩm của ngành cơ khí đang bị mất dần thị trường tiêu thụ ngay trong nước, đặc biệt trong việc sản xuất và cung cấp thiết bị toàn bộ. Nhìn chung, ngành cơ khí Việt Nam chỉ đáp ứng được 35% nhu cầu của thị trường. Trên thị trường máy động lực và nông nghiệp: Theo con số thống kê của tổng cục thống kê, thị trường nước ta tiêu thụ khoảng 100000 máy động cơ diesel và 30000 máy kéo hai bánh loại nhỏ. Trong đó, hàng Trung Quốc chiếm khoảng 55% thị phần, 20% của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc…còn lại 15% thị phần là của hàng Việt Nam. Thị trường máy bơm: Theo số liệu điều tra, máy bơm Trung Quốc chiếm tới 48%, Hàn Quốc chiếm 30%, ngoài ra là sản phẩm của Nhật Bản, Italia… Máy bơm Việt Nam chỉ chiếm thị phần nhỏ bé còn lại. +Về doanh thu: Theo số liệu của tổng cục thống kê, năm 2006 giá trị sản xuất toàn ngành cơ khí đạt 91.737 tỷ đồng và năm 2007 đạt 113.317 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng chung về giá trị sản xuất nông nghiệp của toàn ngành cơ khí trong giai đoạn 2001-2007 là 21,9%. Về xuất khẩu, năm 2006 giá trị xuất khẩu toàn ngành cơ khí đạt 1,174 tỷ USD. Trong khi đó, doanh thu của các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc… gấp mấy lần như thế. + Về quy mô vốn: Hầu hết, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ (dưới 1 triệu USD). Phần lớn, các nguồn vốn đầu tư vào ngành cơ khí được huy động từ nước ngoài để đổi mới trang thiết bị, cơ sở hạ tầng. Trong khi đó, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản với các trang thiết bị hiện đại cùng với tổng vốn đầu tư lớn đã cạnh tranh với các sản phẩm cơ khí của nước ta + Về giá thành sản phẩm: Theo số liệu của Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM), thị trường máy nông nghiệp Việt Nam đang bị máy Trung Quốc thao túng. Thông thường, máy nông nghiệp của Trung Quốc rẻ hơn máy Việt Nam từ 15-30%. Ví dụ, động cơ 15 mã lực của Trung Quốc hiện bán trên thị trường Việt Nam là 4,5-4,7 triệu đồng 1 chiếc, Việt Nam bán 500-600 USD 1 chiếc, Nhật Bản bán giá 1300 USD 1 chiếc. Hay máy nổ của Trung Quốc công suất 12 mã lực là 4 triệu đồng nhung Việt Nam bán với giá 6,6 triệu đồng. 2.1.2. Thị trường nước ngoài. Khi Việt Nam gia nhập vào WTO, mọi bảo hộ và thuế quan bị dỡ bỏ, chỉ còn lại các rào cản kỹ thuật nhưng đến nay, chúng ta vẫn chưa có các rào cản kỹ thuật đủ mạnh để bảo vệ các sản phẩm cơ khí trọng điểm. Nhiều năm qua, ngành cơ khí đã xuất khẩu nhiều sản phẩm của mình sang các nước Đông Âu, nhưng đó là những sản phẩm có trình độ công nghệ thấp như các loại kìm, cò lê, mỏ lết… theo sự phân công của khối SEV nên giá trị xuất khẩu thấp. Mấy năm gần đây, ngành đã xuất khẩu một số sản phẩm có trình độ cao, tuy nhiên giá trị xuất khẩu rất nhỏ chỉ chiếm khoảng 0,1% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.Gần đây, giá trị xuất khẩu có tăng lên song rât chậm chạp. Qua đó, có thể thấy các sản phẩm cơ khí của nước ta yếu trên thị trường quốc tế. Phân tích về vấn đề này, ông Ngô Văn Trụ - Vụ cơ khí luyện kim và hóa chất Bộ Công Nghiệp cho biết: xét về khía cạnh thương mại thì các nước ASEAN tương đồng như ta về cơ cấu tài nguyên, nhưng họ có điều kiện vốn và công nghệ do đó khă năng cạnh tranh sẽ hơn ta. Các nước ASEAN cũng có chiến lược hướng đến xuất khẩu sớm hơn ta. Hiện nay việc buôn bán giữa các nước ASEAN đã tăng lên. Trong giai đoạn 2000-2005 tỷ trọng buôn bán giữa các nước thành viên đã chiếm tỷ trọng lớn hơn kim ngạch buôn bán. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN chiếm ¼ tổng kim ngạch xuất khẩu, còn nhập khẩu từ ASEAN chiếm 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu. Như vậy với ASEAN Việt Nam ở thế nhập siêu. Nếu ngành công nghiệp cơ khí không nhanh chóng tăng sức cạnh tranh thì các nước ASEAN sẽ lợi dụng CEPT để chiếm lấy thị phần lớn hơn ở Việt Nam. 2.2. Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Về chất lượng sản phẩm. Trước hết, phải khẳng định rằng, trong những năm đổi mới vừa qua ngành cơ khí cũng đã có rất nhiều nỗ lực trong việc đổi mới thiết bị, mở rộng chủng loại sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm để ngày càng đáp ứng nhu cầu thị trường song trên thực tế chất lượng sản phẩm nói chung của cả ngành cơ khí còn chưa phù hợp với yêu cầu của thị trường. Từ đó dẫn đến sản phẩm có khả năng tiêu thụ kém và khó có khả năng xuất khẩu. Đối với thiết bị toàn bộ: Thiết bị toàn bộ được hiểu là một dây chuyền công nghệ hoàn chỉnh liên hoàn nhằm sản xuất ra một hoặc là một số loại sản phẩm nhất định hoặc thực hiện một chức năng nhất định có giá trị lớn. Trong thời gian gần đây, ngành cơ khí Việt Nam đã cung cấp được khá nhiều thiết bị đồng bộ cho các ngành sản xuất vật chất trong nước. Trong lĩnh vực điện khí hóa, ngành cơ khí Việt Nam đã có thể tham gia chế tạo các công trình thủy điện lớn với công suất tổ máy đến 300 MW, có thể chế tạo được các loại kết cấu thép, hệ thống cấp nước, hệ thống ngưng tụ, các máy nghiền than, băng tải, hệ thống lọc bụi… Như vậy, máy móc thiết bị toàn bộ của Việt Nam chưa có đủ khả năng cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm đối với thiết bị ngoại nhập. Chính vì vậy mà nước ta phải nhập hầu hết các thiết bị toàn bộ, chiếm khoảng 1/3 kim ngạch nhập khẩu của toàn ngành cơ khí. Dự đoán kế hoạch 5 năm này sẽ nhập khoảng 9-10 tỷ USD và kế hoach 5 năm tiếp theo sẽ nhập khoảng 15-17 tỷ USD. Lý do chính của tình trạng này là do thiết bị toang bộ của Việt Nam ít về chủng loại, nhỏ bé về khối lượng cung cấp. Hơn nữa, các nhà đầu tư chưa tin tưởng vào chất lượng cuả thiết bị toàn bộ trong nước. Đối với thíêt bị lẻ, dụng cụ, phụ tùng: Đây là các sản phẩm mà sau khi sản xuất xong có thể được sử dụng một cách độc lập hoặc được bán ngay ra thị truờng mà không nhất thiết phải gắn kết với các sản phẩm cơ khí khác. So với thiết bị toàn bộ, nhóm này có khă năng cạnh tranh tốt hơn. Một số sản phẩm đã có thị truờng ổn định ở trong nước, một số sản phẩm đã có thể vươn ra xuất khẩu. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng quát, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam về chất lượng sản phẩm vẫn còn rất yếu kém. Đó chính là nguyên nhân khiến các sản phẩm cơ khí của Trung Quốc chiếm lĩnh hầu hết thị trưòng trong cả nước. Trên thị trường động cơ diesel: Theo những nhà quản lý của VINAPRO thì công ty có thị phần chỉ khoảng 5% trong khi đó động cơ của Đài Loan, Trung Quốc và động cơ cũ nhập khẩu ( chủ yếu của Nhật Bản ) chiếm lĩnh hầu như 95% thị phần còn lại. Nói tóm lại, năng lực cạnh tranh bằng chất lượng của ngành cơ khí hiện nay rất thấp. Bên cạnh một số ít sản phẩm, một số ít doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh trong thị trường nội địa và hướng tới xuất khẩu, còn hầu hết các doanh nghiệp cơ khí không cạnh tranh nổi với sản phẩm ngoại nhập, đánh mất dần thị trường trong nước. Vì vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã là một yêu cầu tất yếu đối với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay. Về giá cả. Các sản phẩm cơ khí của Việt Nam hiện nay, nhìn chung sức cạnh tranh bằng giá cả rất thấp. Hầu hết, các sản phẩm cơ khí Việt Nam đều có giá cao hơn so Trung Quốc-đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường. Theo số liệu của Tổng công ty máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam (VEAM), thị trường máy nông nghiệp Việt Nam đang bị máy Trung Quốc thao túng. Lý do máy Việt Nam phải rút khỏi sân nhà là hàng của ta không đủ sức cạnh tranh về gía so với hàng của Trung Quốc. Thông thường, máy nông nghiệp của Trung Quốc rẻ hơn máy Việt Nam từ 15-30%. Ví dụ, động cơ 15 mã lực của Trung Quốc hiện bán trên thị trường Việt Nam là 4,5-4,7 triệu đồng 1 chiếc, cùng loại động cơ này do Việt Nam sản xuất bán với giá 500-600 USD, trong khi đó động cơ chính hiệu của Nhật Bản có giá 1300 USD.Sở dĩ, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam không có năng lực cạnh tranh về giá cả là do chi phí sản xuất cao. Chi phí sản xuất cao có thể là do Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu, công nghệ lạc hậu cùng với trình độ quản lý yếu kém… Thực trạng hoạt động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay. 3.1. Lực vực sản xuất. Lĩnh vực sản xuất có vai trò rất quan trọng. Tổ chức sản xuất hợp lý sẽ góp phần to lớn vào việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực: nguyên nhiên vật liệu, thiết bị công nghệ và nguồn lực lao động để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ. Từ đó, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, tinh hình sản xuất của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay còn nhiều điểm yếu kém, thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, việc cung ứng nguyên vật liệu chưa đảm bảo yêu cầu: nước ta có một số các tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho việc sản xuất các sản phẩm của ngành cơ khí, đặc biệt là các loại quặng và bôxit. Tuy nhiên, ngành công nghiệp kim loại cơ bản trong nước lại kém phát triển và vì thế phần lớn các vật tư cần thiết cho ngành cơ khí phải nhập khẩu từ nước ngoài. Mặt khác, việc cung ứng các loại nguyên vật liệu khác cũng bị hạn chế và các doanh nghiệp dựa vào nguồn nguyên liệu sẵn có trong nước đang gặp phải biến cố thường xuyên do việc cung ứng không ồn định. Thứ hai, năng lực công nghệ hạn chế: Việc sản xuất trong ngành cơ khí bị hạn chế bởi máy móc cũ kỹ và công nghệ thì lạc hậu. Theo Bộ Khoa học-Công nghệ và môi trường, trình độ công nghệ của ngành cơ khí Việt Nam chỉ tương đương với thời kỳ cách đây 30-50 năm của các nước trung bình trên thế giới, lạc hậu hơn các nước tiên tiến từ 50-100 năm. Thứ ba, tổ chức quản lý sản xuất trong ngành cơ khí nhìn chung còn khép kín, thiếu tính chuyên môn hoá và mức độ hiệp tác hóa còn thấp: Cơ cấu sản phẩm không được điều chỉnh, tự phát, sản phẩm đơn giản đua nhau làm đến mức thừa, những sản phẩm yêu cầu kỹ thuật cao thì không đủ sức sản xuất. Thêm vào đó, là công tác quản lý còn yếu kém và bất cập. Có thể nói, cung ứng nguyên vật liệu không đảm bảo, trình độ công nghệ lạc hậu cộng với các biện pháp tổ chức quản lý sản xuất yếu kém đã làm cho tình hình sản xuất ở các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường cạnh tranh khốc liệt 3.2. Lĩnh vực nhân sự. Nguồn nhân lực luôn là một nguồn lực quan trọng đối với mọi ngành sản xuất. Đối với ngành cơ khí, nguồn nhân lực càng có vai trò quan trọng vì lao động trong ngành cơ khí phần lớn đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật, có tay nghề. Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay, công tác quản trị lĩnh vực nhân sự đang có nhiều bất cập từ khâu tuyển chọn nguồn nhân lực cho đến sử dụng cũng như đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Về công tác tuyển chọn nguồn nhân lực: Mặc dù lực lượng lao động nước ta dồi dào, song lao động có trình độ kỹ thuật để đáp ứng đuợc yêu cầu cho ngành cơ khí thì không nhiều. Vì vậy, việc tuyển chọn được một lực lượng lao đông có tay nghề cao là một khó khăn đối với ngành cơ khí. Hơn nữa, số lượng sinh viên theo học các ngành cơ khí ít, sau khi ra trường lại không muốn làm việc cho ngành cơ khí. Mấy năm gần đây, số lượng các học viên theo học các trường công nhân kỹ thuât có tăng đáng kể song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của ngành. Về việc sử dụng nguồn nhân lực:Nguồn nhân lực có chất lưọng không cao nhưng lại được sử dụng không hợp lý. Trong các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, số lượng lao động gián tiếp chiếm tỷ lệ cao gây mất hiệu quả trong quá trình sản xuất và tăng chi phí. Mặt khác, quá trình tổ chức sản xuất không hợp lý dẫn đến năng suất lao động của công nhân ngành cơ khí Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước khác. Về việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Hiện nay, chi phí đào tạo của các công ty thuộc ngành cơ khí đã giảm nghiêm trọng trong thập kỷ vừa qua, nhất là sau khi các chương trình hợp tác kỹ thuật với các nước khối Đông Âu bị ngừng trệ thì ngành cơ khí Việt Nam hầu như mất nguồn đầu vào về bí quyết công nghệ. Mặt khác, trong các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay thì hương trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực hầu như không có hoặc ít được chú trọng. Thực tế đó dẫn đến chất lượng lao động kém, không có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm do đó giảm năng lực canh tranh trên thương trường. 3.3. Lĩnh vực tài chính. Lĩnh vực tài chính luôn là lĩnh vực quan trọng trong hoạt động quản trị của doanh nghiệp. Chất lượng hoạt động của lĩnh vực này có ảnh hưởng lớn đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Đặc điểm của ngành cơ khí là có vốn đầu tư ban đầu lớn, vòng quay vốn chậm, khả năng rủi ro cao, lợi nhuận thấp hơn các ngành khác, do đó việc thu hút vốn đầu tư còn gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp cơ khí nước ta đều là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ ( dưới 1 triệu USD ). Để phát triển mạnh ngành cơ khí nhất là trong điều kiện trang thiết bị cho ngành cơ khí còn lạc hậu thì vốn đầu tư để đổi mới trang thiết bị là một đòi hỏi tất yếu đặt ra với các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam hiện nay. Trong tình hình hiện nay, các nguồn vốn mà các doanh nghiệp cơ khí có thể thu hút được là: ODA, FDI, vốn vay nước ngoài, vốn từ ngân sách nhà nước và nguồn vốn huy động trong nước. 3.4. Lĩnh vực Marketing. Hiện nay, hầu như các doanh nghiệp cơ khí ít quan tâm đến lĩnh vực Marketing. Điều này đã gây ra nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam. Người tiêu dùng do thiếu các thông tin cần thiết nên nhiều khi không biết các sản phẩm để mua. Nhất là các sản phẩm cơ khí Việt Nam thường có giá cao hơn các sản phẩm của Trung Quốc nhưng có chất lượng tốt hơn, nhiều tính năng tác dụng hơn song hầu hết người tiêu dùng không được biết các thông tin đó. Mặt khác, hệ thống phân phối bán hàng không rộng khắp. Do đó, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường. Về chính sách hỗ trợ tiêu thụ: gồm các hoạt động hỗ trợ trong quá trình mua hàng và các dịch vụ sau khi bán. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp cơ khí Việt Nam đã có chú trọng đến hoạt động này và đã đạt được một số thành công nhất định. 4. Tồn tại và nguyên nhân. Trong những năm vừa qua, ngành cơ khí Việt Nam cũng đạt được một số thành tựu nhất định. Một số doanh nghiệp đã vươn lên tìm kiếm nguồn vốn, đầu tư thêm công nghệ-thiết bị mới, mở rộng mặt hàng, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Như vậy, so với tiềm năng và cơ sở vật chất còn quá nhỏ bé thì sự phát triển và thành quả của ngành cơ khí là đáng khịch lệ; tuy nhiên vẫn nhỏ bé trước nhu cầu to lớn của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Nhìn chung, năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam còn yếu kém. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên bao gồm những nguyên nhân chủ quan và khách quan. - Nguyên nhân chủ quan: + Do quy mô nhà máy không hợp lý. + Trình độ công nghệ và máy móc thiết bị cũ kĩ, lạc hậu. + Sử dụng lãng phí nguyên liệu và năng lượng. + Tổ chức sản xuất không hợp lý. + Ít quan tâm đến quản lý chất lượng. + Thiếu những kỹ năng tiếp thị và quản lý. + Quản lý tài chính còn yếu kém. - Nguyên nhân khách quan: + Thứ nhất, do cơ cấu ngành không hợp lý: Cơ cấu ngành thay đổi rất chậm. Ngành cơ khí chủ yếu dựa trên cơ sở các doanh nghiệp hướng vào mục tiêu có tỷ lệ tự cung tự cấp cao, sản xuất khép kín các loại phụ tụng và linh kiện cần thiết để lắp ráp sản phẩm cuối cũng. Kết quả là có ít các hợp đồng gia công, không hiệu quả kinh tế theo quy mô, và ít các nhà chế tạo chuyên môn hóa và có công nghệ tiên tiến. Vì tổ chức ngành có xu hướng chú trọng theo những quan hệ dọc, từ những nhà cung cấp nguyên liệu thô đến lắp ráp hoàn chỉnh, nên ít tồn tại những quan hệ ngang, ngoại trừ giữa nhưng doanh nghiệp đã được nhóm lại với nhau trong các tổng công ty hoặc các liên hiệp. + Thứ hai, do hệ thống quản lý phối hợp giữa các doanh nghiệp trong ngành cơ khí yếu kém. Vì thế, các doanh nghiệp cơ khí thiếu sự phối kết hợp với nhau. Kết quả là không đủ năng lực sản xuất các sản phẩm có giá trị lớn, còn các sản phẩm nhỏ thì trùng lặp và cạnh tranh với nhau. Điều này đã làm suy yếu năng lực cạnh tranh của ngành so với các đối thủ trên thương trường. + Thứ ba, do thiếu các chính sách và quyết định kịp thời và đủ sức mạnh để bảo hộ và tạo thị trường cho ngành cơ khí trong nước. PHẦN III NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH CƠ KHÍ VIỆT NAM HIỆN NAY 1.Phương hướng nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam hiện nay. Như vậy, qua các phần phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rõ thực trạng năng lực canh tranh của ngành cơ khí, những điểm đã đạt được cũng như những tồn tại và nguyên nhân của chúng. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay, đặc biệt là khi đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế với

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cơ khí Việt Nam.DOC
Tài liệu liên quan