Đề án Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở nước ta

Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhận thức mới của Đảng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là chế độ kinh tế, trong đó mọi năng lực sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân, tập thể và cộng đồng dân tộc được khai thác nhằm mục đích là phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại đi liền với tự do, dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội .

 Cần nhận thức rõ rằng, quan hệ hàng hóa-tiền tệ, quan hệ thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà chúng đã có từ lâu trước chủ nghĩa tư bản. Các quan hệ ấy sẽ còn tồn tại, phát triển trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội trong sự tác động qua lại với tất cả các quá trình kinh tế khách quan khác .

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng nền kinh tế và vai trò của chính phủ trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n theo. Thuế còn ảnh hưởng đến việc đầu tư của mỗi doanh nghiệp, nếu thuế cao sẽ không khuyến khích đầu tư, việc giảm các sắc thuế đánh vào các khoản bổ sung cho đầu tư hoặc kinh doanh máy móc thiết bị mới sẽ kích thích đầu tư ở nhiều ngành từ đó làm tăng nguồn vốn của nền kinh tế dẫn đến GDP sẽ tăng lên trong tương lai. Ngoài ra, thuế còn ảnh hưởng đến việc xuất-nhập khẩu ở mỗi nước. Nếu các sắc thuế đánh vào các mặt hàng nhập khẩu cao thì sẽ hạn chế được việc nhập khẩu các mặt hàng đó, tương tự đối với xuất khẩu, từ đó chính phủ điều tiết được lượng hàng hoá nội địa và nhập ngoại. Như vậy, khi chính phủ muốn bảo hộ một loại mặt hàng nào đó ở trong nước thì chỉ cần tăng thuế nhập khẩu của mặt hàng đó lên cao đến mức các doanh nghiệp không muốn nhập khẩu loại mặt hàng đó nữa. Như vậy, để ổn định sản lượng gần với sản lượng tiềm năng thì chính phủ có thể sử dụng chính sách tài khoá bằng cách: Nếu các bộ phận của tổng cầu hạ thấp một cách không bình thường thì chính phủ phải kích thích nhu cầu bằng cách giảm thuế hoặc tăng chi tiêu hoặc là kết hợp cả hai cách. Trong trường hợp các bộ phận của tổng cầu cao hơn mức bình thường thì chính phủ có thể tăng thuế hoặc giảm chi tiêu hoặc kết hợp cả hai cách. Cính sách thuế đúng đắn không chỉ có mục đích tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn khyuến khích sản xuất , xuất khẩu , điều tiết tiêu dùng ,khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực trog nền kinh tế , thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài , khuyến khích việc đầu tư có hiệu quả kinh tế - xã hội cao. c, Chính sách tiền tệ Trong nền kinh tế thị trường , tiền tệ đóng vai trò vô cùng quan trọng Chính sách tiền tệ là một cônh cụ kinh tế vĩ mô được dùng tương đối phổ biến của chính phủ. Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ yếu là lượng cung về tiền và lãi suất. Thực chất của chính sách tiền tệ là chính phủ thông qua ngân hàng trung ương kiểm soát việc cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế. Ngân hàng trung ương kiểm soát bằng cách tăng hoặc giảm lượng cung ứng tiền trong lưu thông thông qua lãi suất hoặc chứng khoán... Thông thường trong những thời kỳ lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng lãi suất lên cao (chính sách thắt chặt tiền tệ)để thu hút một khối lượng lớn tiền vào ngân hàng làm cholượng tiền trong lưu thông giảm. Hay trong thời kỳ nới lỏng tiền tệ,ngân hàng trung ương giảm lãi suất hay mua chứng khoán của dân chúng để tăng khối lượng tiền trong lưu thông. Như vậy, bằng cách thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến đầu tư,từ đó sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì, tuy chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thực tế về mặt ngắn hạn. Song do tác động đến đầu tư, nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến tổng sản phẩm quốc dân tiềm năng về mặt dài hạn. d.Chính sách thu nhập: Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các công cụ mà chính phủ sử dụng nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả... để kìm chế lạm pháp. Chính sách này bao gồm nhiều biện pháp cứng rắn như:đồng lương,đồng giá; những quy tắc pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá-lương-tiền..., đến các biện pháp linh hoạt như:việc hướng dẫn, khuyến khích bằng thuế thu nhập... Chính sách thu nhập chỉ đặc biệt có ý nghĩa trong thời kỳ lạm phát cao. Thực chất của chính sách thu nhập là chính sách về giá-lương-tiền. Trong thời kỳ lạm phát cao chính phủ thực hiện chính sách đônh giá và đông tiền lương, tức là cố định giá cả và tiền công trong một thời gian nhất định nhằm giảm bớt lượng tiền. e.Chính sách kinh tế đối ngoại: Trong nền kinh tế mở cửa thì không thể không có chính sách kinh tế đối ngoại để sự trao đổi mua bán giữa các nước được thuận lợi. Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm nhiều loại công cụ như: quản lý tỷ giá hối đoái, chính sách ngoại thương, trợ giá, hàng rào thuế quan, hạn nghạch. Việc tác động đến hàng hoá xuất-nhập khẩu vào giá cả hàng hoá đó đều thông qua các công cụ này.Chẳng hạn như để khuyến khích xuất khẩu thì chính phủ có thể tác động đến tỷ giá bằng cách hạ thấp tỷ giá xuống làm cho giá ngoại tệ giảm,điều đó là rất thuận lợi cho xuất khẩu, hoặc có thể tác động bằng cách hạ thuế suất các mặt hàng xuất khẩu, hoặc trợ giá... làm cho chi phí xuất khẩu hạ xuống từ đó làm giá thành hạ tạo điều kiện thuận lợi cho việc cạnh tranh với các hãng sản xuất cùng loại mặt hàng ở các nước khác. Như vậy, những biện pháp này nhằm duy trì sự cân bằng trên thị trường ngoại hối và giữ cho xuất-nhập khẩu theo như mong muốn của chính phủ . Tóm lại, đây là các công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của chính phủ, ngoài ra còn có các công cụ khác như các kế hoạch, các chương trình phát triển...Việc sử dụng các công cụ kinh tế vĩ mô này trong từng thời kỳ hay ở mỗi quốc gia là không giống nhau. Vì vậy, khi sử dụng chúng cần phải xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở quốc gia mình . Qua nghiên cứu việc điều tiết của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ta có thể thấy được mặt tiến bộ vượt trội hơn hẳn so với trong nền kinh tế chỉ huy : Nền kinh tế chỉ huy là nền kinh tế mà ở đó Chính phủ trực tiếp giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế .Còn trong nền kinh tế thị trường có sj điều tiết của Nhà nước thì cả Chính phủ và thị trường đều tham gia giải quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế . Ba vấn đề đó là : sản xuát cái gì , sản xuất như thế nào , và sản xuất cho ai . Sản xuất cái gì : trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nước sẽ trực tiếp phân bố những nguồn lực ( đất đai , nguyên liệu , vốn kỹ thật , lao động…) cho các ngành , địa phương , các đơn vị kinh tế (công ty, xí nghiệp…); Nhà nước qui định công ty này , xí nhgiệp này sẽ sản xuất cái gì , số lượng là bao nhiêu , nhà nước cấp vốn , nguyên liệu . Còn trong kinh tế thị trường , Chính phủ cho phép các doanh nghiệp sản xuất bất cứ mặt hàng nào đem lại lợi nhuận cho họ trong khuôn khổ của pháp luật . Còn Chính phủ tham gia sản xuất những hàng công cộng hay còn gọi là cơ sở hạ tầng phục vụ cho các quá trình kinh tế . Bên cạnh đó Nhà nước cũng tham gia sản xuất những mặt hàng tư nhân như sắt , thép … Sản xuất như thế nào : trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nước quyết định kỹ thuật , công nghệ , cách thức sản xuất . Còn trong kinh tế thị trường , Nhà nước sẵn sàng nhập những công nghệ kĩ thuật tốt nhất mà Nhà nước có thể và can thiệp tới những công ty nhập những ccông nghệ có hại cho cộnh đồng . Sản xuất cho ai: Trong nền kinh tế chỉ huy , Nhà nước phân chia tổng sản phẩm quốc dân cho từng đơn vị , từng gia đình , từng cá nhân . Nghĩa là , các đơn vị sản xuất sau khi hoàn thành chỉ tiêu đã được đặt ra thì nộp lại cho Nhà nước .Nhà nước sẽ phân phối đều những mặt hàng đó đến các ngành , các gia đình thông qua tem phiếu . Trong kinh tế thị trường , cả Nhà nước và thị trường đều tham gia quá trình phân phối sản phẩm. Nhà nước có những chính sách trợ cấp cho người già , người tàn tật , trợ cấp khó khăn . Đối với một số mặt hàng , Nhà nước khyuến khích bằng những chính sách như : giảm thuế , trợ giá … Qua đây ta thấy, nền kinh tế chỉ huy hoạt động kém hiệu quả hơn hẳn so với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của chính phủ do chỉ được điều hành bằng mệnh lệnh, sản xuất không thông qua cung- cầu trên thị trường, bên cạnh đó hệ thống cơ quan nhà nước rất đồ sộ làm cho nhà nước phải có chi phí quá lớn vào hệ thống này. Trên thực tế cơ chế kinh tế chỉ huy này đã được áp dụng ở các nước XHCN trước đây và nó đã bị tan rã . Chính vì vậy việc chuyển đổi cơ cấu cấu kinh tế ở nức ta là một quyết định đúng đắn. Phần II Vị trí kinh tế của chính phủ nước CHXHCV VIệT NAM TRONG GIAI ĐOạN “ CÔNG NGHIệP HOá HIệN ĐạI HOá ĐấT NƯớc ” Đất nước ta đang tự khẳng định mình bằng công cuộc “Công nghiệp hóa và hiện đại hóa “. Mặc dù chúng ta mới đang lẫm chẫm từng bước nhưng có sự điều tiết của chính phủ ở tầm vĩ mô thì cái đích trước mắt nhất định chúng ta sẽ sớm đạt được. Để có được những thành tựu đáng kể của ngày hôm nay, chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã bao phen phải đương đầu với những khó khăn thử thách. Điều đó cho thấy vai trò to lớn của chính phủ Việt Nam trong quản lý nền kinh tế của đất nước nói chung và nhất là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiệh đại hóa “đất nước. Thực tế chứng minh rằng: Chính phủ Việt Nam luôn đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước . I-/ Vị TRí KINH Tế CủA CHíNH PHủ VIệT NAM TRONG ThờI Kì CHUYểN ĐổI CƠ CHế Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2010 được thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định sự lựa chọn phát triển nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa . Sự lựa chọn đó bắt nguồn từ nhận thức rõ những sai lầm trong việc xây dựng thể chế kinh tế theo mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trực tiếp bằng mệnh lệnh hành chính và cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Mô hình này quá đề cao vai trò thúc đẩy và mở đường của quan hệ sản xuất, mà không tính đến quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đem chủ nghĩa xã hội đối lập với thị trường. Kết quả của mô hình đó là nền kinh tế kém phát triển, thị trường hạn hẹp và dẫn đến tình trạng khủng hoảng thiếu . Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nhận thức mới của Đảng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là chế độ kinh tế, trong đó mọi năng lực sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân, tập thể và cộng đồng dân tộc được khai thác nhằm mục đích là phục vụ mục tiêu dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại đi liền với tự do, dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội . Cần nhận thức rõ rằng, quan hệ hàng hóa-tiền tệ, quan hệ thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà chúng đã có từ lâu trước chủ nghĩa tư bản. Các quan hệ ấy sẽ còn tồn tại, phát triển trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội trong sự tác động qua lại với tất cả các quá trình kinh tế khách quan khác . Có thể nói, kinh tế hàng hóa với hình thức phát triển cao của nó là kinhtế thị trường, là loại hình kinh tế- xã hội được tổ chức thông qua thị trường trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội. Nó đã tồn tại với tư cách là hình thái kinh tế mang tính thích ứng rất mạnh, có thể gắn với chế độ tư hữu, và cũng có thể gắn với chế độ công hữu. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chứng minh rằng, cho đến nay chưa có một hình thái kinh tế nào hoạt động có hiệu quả hơn nền kinh tế thị trường, vì thế không có lý do gì mà chủ nghĩa xã hội lại không sử dụng nó nhằm mục đích phục vụ cho mục tiêu phát triển của mình .Trên thế giới hiện nay còn tồn tại nhiều mô hình kinh tế thị trường.Mỗi loại hình đều có những ưu thế và khuyết tật riêng. Vì thế, chúng ta cần khai thác những ưu điểm cũng như hạn chế nhược điểm của các mô hình kinh tế thị trường ,nhưng chắc chắn không có khuôn mẫu vạch sẵn cho mọi nước. Đối với từng nước, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của nước mình, cũng như bối cảnh quốc tế mà vạch ra đường lối cụ thể để phát triển nền kinh tế thị trường có sư quản lý của nhà nước. Chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là bước chuyển biến rất phức tạp và đầy khó khăn. Mấy năm qua, bên cạnh những thành tựu lớn của đổi mới, chúng ta cũng đã thấy được những hậu quả tiêu cực mà kinh tế thị trường mang lại, chúng ta cũng gặp nhiều thiếu xót, phạm nhiều sai lầm, lệch lạc trong các chính sách xã hội.Tuy nhiên , những thiếu sót sai lầm đó đã được Đảng và nhà nước ta kịp thời khắc phục và sửa chữa . Tóm lại, lựa chọn mô hình kinh tế thị trường và phát triển nền kinh tế thị trường không hề làm phương hại đến chủ nghĩa xã hội, mà bằng các chính sách, biện pháp và công cụ quản lý điều tiết, nhà nước phục vụ các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, lợi dụng cơ chế cạnh tranh của thị trường để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất . II-\ Vị TRí KINH Tế CủA CHíNH PHủ VIệT NAM TRONG GIAI ĐOạN “ CÔNG NGHIệP HOá - HIệN ĐạI HOá ’’ĐấT NƯớC ” 1. Công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt nam a, Quan điểm mới về công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Đại hội VIII ĐảngCSVN trên cơ sở phân tích sâu sắc , toàn diện thực trạng đất nước sau 10 năm đổi mới và đặc điểm của thời đại ngày nay , đã quyết định đưa đất nước bước vào thời kì phát triển mới - Đẩy mạnh công ngiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Đại hội cũng xác định những uan điểm cơ bản làm cơ sở định hướng cho việc xây dựng nội dung , phươngg hướng , biện pháp , bước đi cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Những quan điểm đó là : + Trong thời đại hiện nay CNH phải gắn liền với hiện đại hoá . + Xây dựng nền kinh tế mở , hội nhập với khu vực và thế giới , hướng mạnh về xuất khẩu , đồng thời thay thế nhập khẩu. + Công nghiệp hoá , hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân , của mọi thành phần kinh tế , trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo . + Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững , tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ kinh tế và tiến bô xã hội . + Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hoá , hiện đại hoá , kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại , tranh thủ đi nhanh vào hiện đại những khâu quyết định : + Lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển , lựa chọn dự án đầu tư vào công nghệ ; + Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh . b,Khái niệm công nghiệp hoá , hiện đại hoá : Có thể hiểu khái quát : CNH –HĐH là quá trìnhchuyển đổi căn bản, toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh , dịch vụ và quản lý kinh tế , xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính ,sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ , phương tiện và phương pháp tiên tiến , hiện đại , dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ , tạo ra năng suất lao động xã hội cao . Cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH sẽ là nền sản xuất lớn hiện đại có cơ cấu kinh tế hợp lý có trình độ xã hội hoá cao dựa trên trình độ khoa học – công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch chính vì vậy đối với một nước có nền kinh tế còn chưa phát triển , chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp như nước ta hiện nay muốn xây dựng thành công mô hình XHCN thì công nghiệp hoá hiện đại hoá là tất yếu khách quan , một quy luật kinh tế mang tính phổ biến . Đối với những nước có nền kinh tế phát triển quá độ lên CNXH thì những nước này đã có sẵn nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại cho nên vấn đề công nghiệp hoá không cần phải đặt ra . Tuy nhiên , nền đại công nghiệp của chủ nghĩa tư bản dù có hiện đại đến đâu cũng chỉ là tiền đề vật chất cần thiết cho xã hội mới chứ chưa phải là cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội bởi vì nó dựa trên chế độ tư hữu TBCN do đó phải có sự điều chỉnh để có cơ sở vật chất kĩ thuật của xã hội mới. Đối với những nước này, thực hiện quy luật chung nói trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về mặt quan hệ sản xuất và vận dụng những thành tựu khoa học-công nghệ mới của cách mạng khoa học-kỹ thuật, biến tiền đề vật chất của chủ nghĩa tư bản tạo thành cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phân bố lại một cách đồng đều trong cả nướcvà tiếp tục hiện đại hoá ở trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản. Còn đối với những nước đi lên CNXH chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa thì những nước này thường có nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân vì vậy muốn có cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất lớn hiiện đại thì tất yếu phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá . Công nghiệp hóa và xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật có quan hệ chặt chẽ với nhau , song không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Công nghiệp hoá chỉ là cách thức tiến hành, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật là mục đích phải đạt, công nghiệp hoá hiểu theo nghĩa hẹp nó mang tính lịch sử, còn xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật lại là mục tiêu và công việc phải tiếp tục qua các giai đoạn phát triển của phương thức sản xuất mới-cộng sản chủ nghĩa. Thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá mang lại rất nhiều tác dụng : - Tạo điều kiện để biến đổi về chất của lực lượng sản xuất , tăng năng suất lao động , tăng sự chế ngự của con người đối với tư nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân , góp phần quyết định thắng lợi của CNXH . - Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước , nâng cao năng lực tích luỹ ,tăng công ăn việc làm nhờ đó mà tăng sự tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người , nhân tố trung tâm của nền sản xuất xã hội . - Tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường củng cố an ninh quốc phòng . - Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc – tự chủ , đủ sức thực hiện việc phân công hợp tác quốc tế . Do đó Đảng ta đã xác định “ Phát triển lực lượng sản xuất , công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay ”. c, Mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại , cơ cấu kinh tế hợp lý ,quan hệ sản xuất tiến bộ , phù hợp với quá trình đã phát triển của lực lượng sản xuất , đời sống vật chất và tinh thần cao ,quốc phòng an ninh vững chắc ,dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng dân chủ văn minh ”. Và dự báo “ từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp ”. Và để thực hiện những mục tiêu nói trên , Đảng ta đã đề ra những tư tưởng để chỉ đạo việc thực hiện : + Một là , thực hiện đồng thời ba mục tiêu : tăng trưởng cao , bbền vững và có hiệu quả ; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô ; chuẩn bị các tiền đề cho những bước phát triển cao hơn sau năm 2000 , chủ yếu là phát triẻn nguồn nhân lực ,khoa học công nghệ ,kết cấu hạ tầng ,hoàn thiện thể chất . + Hai là , thực hiện nhaats quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản ký của nhà nước theo định hướng XHCN ,phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất ,đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá .Đổi mới căn bản tổ chức và quản lý ,nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế Nhà nước để phát huy vai trò chủ đạo. + Ba là ,kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá - xã hội ,tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhằm tạo được sự chuyển biến rõ nét về thực hiện công bằng và tiến bộ xẫ hội . + Bốn là ,kết hợp chặt chẽ với quốc phòng an ninh ,nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực vừa phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế ,vừa phục vụ quốc phòng an ninh. + Năm là kết hợp phát triển các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác ,tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển ,phát huy được lợi thế của mỗi vùng , tránh chênh lệch quá xa về nhịp độ tăng trưởng giữa các vùng . 2. Vai trò của Chính phủ trong quá trình “Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá” ở Việt Nam. Trong nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây, chính phủ quyết định tất cả. Có người đã lầm tưởng rằng trong một nền kinh tế thị trường, chính phủ không có vai trò đáng kể, mọi hoạt động sẽ chỉ do thị trường quyết định. Đúng là đã từng có những nền kinh tế thị trường như vậy, nhưng đó là những nền kinh tế thị trường tồn tại cách đây nhiều thế kỷ trước khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện. Kể từ khi chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện, thì chính các độc quyền đã tham gia điều tiết các hoạt động kinh tế. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính hpủ tham gia điều tiết các hoạt động và mức độ tham gia ngày càng nhiều tới mức ngày nay ở nhiều nước phương Tây người ta phải chủ trương giảm bớt sự điều tiết của chính phủ, phi nhà nước hóa. Như vậy, cho đến nay tồn tại song hành hai cơ chế, cơ chế thị trường (bàn tay vô hình), và cơ chế điều tiết của chính phủ (bàn tay hữu hình). Gọi là hai cơ chế nếu chúng ta muốn tách để xem xét chúng một cách tương đối độc lập. Trên thực tế, chúng có quuan hệ với nhau rất chặt chẽ. Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh và độc quyền là hai yếu tố chủ yếu chi phối. Cạnh tranh là một động lực phát triển của kinh tế thị trường nhưng cũng có những khuynh hướng cạnh tranh phi kinh tế, dùng những thủ đoạn bẩn thỉu để bóp chết lẫn nhau. Những khuynh hướng cạnh tranh không lành mạnh như vậy phải được ngăn chặn. Độc quyền đã có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, nhưng độc quyền có mặt thối nát của nó là bóp chết các sáng kiến. Nếu để cho thị trường tự do tác động, thì các khuynh hướng tích cực và tiêu cực cùng tác động, do vậy đã gây ra các tác động không tốt cho sự phát triển của nền kinh tế. Những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng và đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh thế giới diễn ra vào năm 1929-1933 là một ví dụ nổi bật. Sự can thiệp của chính phủ chính là nhằm hạn chế những tác động tiêu cực đó và hướng nền kinh phát triển có hiệu quả.Từ đó liên hệ tới vai trò của chính phủ Việt Nam đặc biệt là trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “. Ai cũng thấy số nước đạt được các thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế không nhiều. Đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự “thần kỳ kinh tế “của Nhật Bản, về các thành tựu kinh tế của NIEs. Có người đã nhấn mạnh đến yếu tố về sự kết hợp giữa công nghệ phương Tây và truyền thống của Nhật Bản.Có người nhấn mạnh đến tinh thần lao động cần cù, miệt mài, sáng tạo của người Nhật. Cũng có người đã nhấn mạnh tới tài ba của những nhà quản lý Nhật Bản. Nhưng trong đó, nguyên nhân của những thành công về kinh tế của các quốc gia trước hết phải nói tới vai trò của chính phủ với tư cách là người lãnh đạo quản lý nền kinh tế quốc dân. Nếu chính phủ không mạnh, nghĩa là không có khả năng vạch ra được các chiến lược phát triển, các chính sách kinh tế, luật pháp đúng đắn, không có khả năng thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả các chiến lược, chính sách và luật pháp đó, thì nền kinh tế không thể nào phát triển có hiệu quả và thu được những thành tựu nổi bật được. Một nhà kinh tế học nổi tiếng đã nhận xét: “Chính phủ tồi đã làm tàn lụi cả một châu lục “. Một ví dụ thực tế: Sự suy giảm của nền kinh tế Ghana ở châu Phi da đen trong hai thập kỷ 60 và 70. Năm 1957 Ghana được xem là nước giầu nhất châu Phi da đen với bình quân đầu người 490 đô la Mỹ, nhưng đến đầu những năm 80 thu nhập quốc dân đầu người đã giảm xuống còn 400 đôla Mỹ, hầu hết các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm. Các quốc gia châu Phi da đen khác cũng ở trong tình trạng tương tự. Cả một châu lục tàn lụi. Lý do chính là sự lãnh đạo yếu kém của các chính phủ ở các quốc gia này. Những yếu kém này đã thể hiện ở chỗ xác định chiến lược, chính sách, pháp luật không đúng; họ càng thực thi các chính sách sai lầm đó tích cực và nghiêm túc thì tai hoạ suy thoái càng lớn. Do vậy đã có câu “Nền kinh tế chỉ tăng trưởng vào ban đêm khi chính phủ ngủ say “. Các quốc gia như Nhật Bản và các NIEs, sự thành công của họ gắn chặt với vai trò to lớn của chính phủ. Nhật Bản đã tạo dựng được một nhà nước mạnh, nhà nước này đã kết hợp được kỹ thuật phương Tây và truyền thống Nhật Bản, khuyến khích và phát triển được tài năng quản lý của các xí nghiệp, động viên được nhân dân Nhật Bản làm việc hết mình. Đó chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vai trò quan trọng nhất của chính phủ là vai trò định hướng nền kinh tế thông qua việc hoạch định các chiến lược, chính sách, luật pháp,v.v... Thực tế ở Việt Nam cho thẩy trong nhiều năm trước Đại hội VI Đảng cộng sản Việt Nam, chính phủ đã định hướng nền kinh tế không đúng, dường như chỉ phát triển hướng nội xem nhẹ các ngành hướng vào xuất khẩu; ưu tiên phát triển công nghiệp nặng kém hiệu quả, không chú trọng tới các ngành có khả năng tăng trưởng nhanh, hiệu quả lớn; chỉ chú trọng phát triển mở rộng khu vực kinh tế nhà nước, tập thể, xoá bỏ kinh tế tư nhân, cá thể; phát triển kinh tế kế hoạch, xoá bỏ kinh tế thị trường,v.v...Với một hướng đi lệch lạc như vậy, kinh tế Việt Nam đã hoạt động kém hiệu quả và rơi vào tình trạng lạm phát phi mã và khủng hoảng sâu sắc. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam mới bước đầu nắn lại hướng đi của nền kinh tế: Chuyển hướng thực hiện 3 chương trình kinh tế: sản xuất lương thực-thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; chuyển mạnh sang kinh tế thị trường trên cơ sở đa dạng hóa hình thức sở hữu, xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp,v.v...Nền kinh tế mới bước đầu chuyển sang một hướng đúng, ta đã thấy xuất hiện các yếu tố năng động tích cực và thấy rõ hướng đi lênthoát khỏi khủng hoảng của nền kinh tế. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, vai trò của chính phủ đặc biệt quan trọng.Chính phủ không đơn thuần là người trọng tài, người định hướng, định luật chơi mà mức độ can thiệp, mức độ tác động trực tiếp của chính phủ là mạnh, và rộng hơn. Trong giai đoạn “từng bước công nghiệp hóa và hiện đại hóa “này, điều kiện quan trọng cho những thành công kinh tế của Việt Nam là Việt Nam phải có một chính phủ mạnh về trí tuệ có khả năng định hướng đúng đắn sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Vấn đề đặt ra là trong khi nhấn mạnh vai trò tất yếu và hết sức quan trọng của ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35239.doc
Tài liệu liên quan