Đề tài Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ở Công ty DONIMEX

Trong những năm qua, thị trường thế giới có nhiều biến đổi thất thường, đặc biệt là thị trường hàng nông sản. Trong khi đó, hệ thống cung cấp thông tin của nước ta còn rất kém, chưa kịp thời với xu hướng phát triển của thế giới. Do đó, công tác thu thập và xử lí thông tin của Công ty gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ kinh doanh của Công ty chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cần thiết về nghiên cứu thị trường, chưa có các phương án nghiên cứu mang tính hệ thống. Vì vậy, có nhiều trường hợp Công ty đã gặp những lúng túng về định hướng các thị trường trọng điểm để tiến hành giao dịch xuất khẩu. Còn nữa, do yếu kém về dự đoán xu hướng của cung cầu và giá cả trong tương lai nên Công ty chưa xác định được các chiến lược xuất khẩu hợp lí. Nhiều khi giá cả chưa lên cao đã tiến hành bán ồ ạt hàng hóa, khi giá cả đã lên cao rồi thì không còn hàng hóa để bán. Hoặc có tình trạng chọn sai đối tượng buôn bán, họ không đủ khả năng tài chính để thanh toán Tiền hàng hoặc chây ì thực hiện hợp đồng gây ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu và nhiều khi còn dẫn đến thất thu, thua lỗ. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu ở nước ta.

 

doc52 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1474 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hóa ở Công ty DONIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2,2 2,9 2,2 2,2 Nguồn: tạp chí Thương mại số 3-4/1998 Trong các nước trên, Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Tài chính Nhật Bản, kim ngạch xuất khẩu mậu dịch giữa hai nước năm 1996 đạt 3,4 tỷ USD, tăng 40% so với năm 1997, trong đó Việt Nam xuất sang Nhật Bản 2,2 tỷ USD. Thị trường thứ hai sau Nhật Bản là Singapore. Năm 1998, kim ngạch buôn bán hai chiều đạt 2,2 tỷ USD, năm 1997 là 33,44 tỷ USD. Điều đáng mừng là ngoài các sản phẩm truyền thống như dầu thô, may mặc, hàng nông sản chế biến, năm 1997 ta đã xuất sang Singapore được hàng điệnt ử (tivi), dù giá trị mới ở mức khiêm tốn 5,2 triệu USD. Tuy nhiên, đây sẽ là bước khởi đầu đầy tốt đẹp để hàng công nghiệp cao cấp của ta xâm nhập thị trường này. Sau Nhật Bản và Singapore có thể kể đến các thị trường như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc, Thái Lan, Đức, Pháp, Nga. Qua phân tích trên ta thấy, thị trường xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu là các nước Châu á - Thái Bình Dương (chiếm 80%). Mặc dù đã có hàng dệt sang EU từ năm 1992 nhưng tháng 7/1995 Việt Nam mới ký kết Hiệp định Thương mại và tháng 7/1996 mới ký Hiệp định xuất khẩu hàng dệt sang EU. Tuy đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ, nhưng Việt Nam chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và chưa ký Hiệp định Thương mại với họ nên thị trường Châu Mỹ mới trong quá trình thử nghiệm. Thị trường Châu Phi và Trung Đông do cách biệt về địa lý, nhu cầu nhập khẩu hàng ta chưa lớn nên kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang các nước này còn nhỏ bé. 1. 4.Những hạn chế khó khăn trong xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Hiệu quả thấp trong hoạt động xuất khẩu của ta thể hiện rõ trên nhiều mặt, đáng chú ý là những mặt sau: Thứ nhất: Hoạt động xuất khẩu của ta diễn ra không đều, chủ yếu tập trung ở một số thành phố lớn như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Các địa phương chỉ chiếm 40% giá trị xuất khẩu cả nước và đang có nguy cơ giảm dần. Một số tỉnh phải thông qua các thành phố lớn mới xuất khẩu được, bởi họ chưa định hình nổi các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, sản lượng thấp, thất thường, vì thế hiệu quả đạt được rất thấp. Thứ hai: Chất lượng của hàng hoá Việt Nam chưa cao, chủ yếu là hàng thô hoăc sơ chế làm cho nguồn hàng giảm 50% giá trị. Đây được coi là hạn chế lớn nhất của hàng xuất khẩu Việt Nam.Do hạn hẹp về vốn, thấp kém về trình độ công nghệ, chúng ta đã bán rẻ tài nguyên thiên nhiên, các loại nông lâm hải sản, không tận dụng hết nguồn lao động rẻ, dồi dào. Thứ ba: Trong hoạt động xuất khẩu , chưa giải quyết mối quan hệ thoả đáng giữa các mặt hàng chủ đạo với các nhóm hàng khác, quá chú trọng và ưu tiên cho một số mặt hàng mà lại không biết tận dụng và bỏ qua nhiều loại hàng hoá khác rất có triển vọng, tiềm năng như: các loại máy động lực, mật ong, và nhiều sản phẩm về rừng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng mặt hàng kim ngạch lớn, chủ đạo thì việc đa dạng hóa các sản phẩm khác phải trở thành nội dung then chốt trong chiến lược xuất khẩu của ta sau này. Thứ tư: Những hạn chế, mất cân đối, bất cập trên thị trường xuất khẩu. Xu hướng chính của Việt Nam là đa dạng hoá hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thế nhưng, cho đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ chủ yếu diễn ra trên Châu á (chiếm 80%) còn ở các châu lục khác thì rất ít và hạn chế. Châu Âu 12 - 15%, Châu Mỹ 3 - 3,5%. Đặc biệt xuất khẩu Việt Nam còn chưa vươn tới các thị trường Châu Phi mênh mông, đầy tiềm năng. Thứ năm: Trong thời gian qua, quan hệ tỷ giá hối đoái chỉ khuyến khích nhập khẩu, các chuyên gia cho rằng Việt Nam mới chỉ lo quản lí người xuất khẩu mà chưa lo quản lý nguồn ngoại tệ, để cho các doanh nghiệp dùng ngoại tệ tràn lan. Dưới tác động của tỷ giá hối đoái, năm 1996 một số doanh nghiệp đã lợi dụng sự giảm giá tỷ giá hối đoái USD - VND để nhập hàng thông qua bảo lãnh L/C trả chậm khiến nhập khẩu tăng vọt. Do vậy cần điều chỉnh lãi suất vay vốn bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ, rút bớt khoảng cách chênh lệch giữa hai loại lãi suất này. Thứ sáu: Đó là vấn đề thông tin thương mại phục vụ xuất khẩu còn rất hạn chế. Đối tác của các doanh nghiệp hiểu rất rõ tình hình xuất khẩu và các nhu cầu của ta. Thậm chí giá cả thu gom hàng, phí mua quota, xuất nhập ủy thác ... họ đều rành. Nhưng chúng ta nắm được rất ít thông tin về bạn hàng. Chưa kể các doanh nghiệp nội địa cùng cạnh tranh lẫn nhau xuất phá giá để hưởng lợi một mình. Cuối cùng chỉ có phía bạn hàng được lợi, cả Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam đều thiệt. Thứ bảy: Cơ chế quản lý kinh tế nói chung và cơ chế quản lí xuất nhập khẩu nói riêng thay đổi thường xuyên làm cho doanh nghiệp khong kịp xoay xở, bị động , lúng túng trong hoạt động kinh doanh. Một số doanh nghiệp chưa thực sự yên tâm đầu tư vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. 2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty thời gian qua. 2.1. Kết quả hoạt động kinh doanh. Có thể phân tích kết quả kinh doanh của Công ty qua một số chỉ tiêu sau: Bảng 8 : Kim ngạch xuất nhập khẩu (1992 - 1999) Đơn vị:USD Chỉ tiêu 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 1, Kim ngạch XK 6.732.695 11.530.740 20.362.318 24.371.952 26.385.876 20..691.062 25..263.714 28.805.969 2. Kim ngạch NK 1352.805 8.761.395 23.810.420 9.445.024 14.035.098 11..581.257 9.125.401 12.406.483 3.Tổng kim ngạch XNK 8085500 20.292.135 44.172.738 34.116.976 40.420.944 32..272.319 34..389.115 41..212.452 4.Tốc độ tăng(%) kim ngạch XK 250,97 217,68 77,235 118,48 87 103 113 Năm 1992 là năm đánh dấu bước phát triển mới ở Công ty. Đây là thời kỳ mà Công ty từng bước mở rộng thị trường từ các nước Châu á, Đông Âu sang thị trường các nước Tây Âu và sang cả Châu Phi và Châu Mỹ ... Do có những bước đi trong phương án kinh doanh linh động và phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế của nền kinh tế quốc dân nên Công ty đã đẩy mạnh được hoạt động xuất nhập khẩu với những kết quả rất khả quan. Nếu năm 1992, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 6.732.695 USD thì chỉ đến năm 1999, giá trị xuất khẩu của Công ty đã đạt 28.805.969 USD, tăng hơn 4 lần so với năm 1992. Riêng năm 1994 kim ngạch xuất khẩu của Công ty đã đạt con số kỉ lục là 44.172.738 USD gấp 5,46 lần so với năm 1992, đây là một kết quả đáng ghi nhớ. Trong những năm từ 1992 trở lại đây, nhịp độ tăng xuất nhập khẩu của Công ty trung bình là 20 - 35% năm. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu thì hoạt động xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng cao hơn, với mức tăng bình quân hàng năm khá vững chắc là 30 - 35% năm. Trong khi đó, hoạt động nhập khẩu có những biểu hiện bất thường, năm 1993 tăng 6,48 lần so với năm 1992 thì đến năm 1994 kim ngạch nhập khẩu tăng gấp 17,6 lần so với năm 1992. Đến năm 1995 kim ngạch nhập khẩu chỉ tăng gấp 7,2 lần so với năm 1992. Tuy vậy, Công ty đang phấn đấu để giữ vững đẩy mạnh hơn nữa kim ngạch xuất khẩu, còn Kim ngạch nhập khẩu có thể giữ xu hướng của những năm qua. Hiệu quả xuất nhập khẩu được coi là nhân tố quan trọng nhất quyết định kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Trong những năm qua, kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty như sau: Bảng 9: Kết quả kinh doanh của Công ty (1996 - 1999). Đơn vị:VNĐ Năm Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 1, Kết quả HĐSXKD chính 2.767.033.099 622.945.755 3.182.975.477 3.745.213.930 2, Kết quả hoạt động tài chính 222.057.783 122.554.824 375.341.626 3.Kết quả hoạt động SXKD phụ 38.734.904 4.626.240.437 1.712.035.590 1.982.726.557 4, Kết quả khác -17.856.319 -1.135.815.038 -116.164.767 -1.485.279.563 5.Phân phối kết quả (1+2+3+4) 3.009.969.467 4.113.511.151 4.901.401.124 4.609.002.550 6.Thuế lợi tức 1.559.016.030 2.125.922.413 2.543.024.381 2.479.362.101 7. Trích lập quỹ công ty 1.386.316.893 1.987.628.741 2.134.822.813 2.341.799.791 8.Khoản trừ vào lợi nhuận 64.638.544 232.553.930 137.562.310 9. Thu nhập chưa phân phối 0 0 0 0 Từ bảng trên ta thấy, trong 04 năm liên tục từ 1996 đến 1999, lợi nhuận trước thuế của Công ty liên tục tăng. Năm 1996, lợi nhuận trước thuế của Công ty là 3.009.969.476 VNĐ , sang năm 1997 lợi nhuận trước thuế của Công ty là 4.113.511.151VNĐ. Năm 1998 lợi nhuận trước thuế của Công ty đạt 4.901.401.124 VNĐ, năm 1999 lợi nhuận trước thuế của Công ty đạt 4.609.002.550 VNĐ. Có được kết quả như này là do Công ty đã đẩy mạnh được mọi hoạt động kinh doanh, luôn luôn đổi mới phương thức kinh doanh, tìm kiếm cơ hội mới. Trong thời gian này kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chính đã đem lại kết quả khá cao, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận. Năm 1996 con số này là 2.767.033.099,năm 1997 con số này là 622.945.755VNĐ, tới năm 1999 con số này tăng lên 3.754.213.930VNĐ. Cũng trong thời gian này, kết quả hoạt động khác của Công ty đáng được lưu tâm. Từ năm 1996 đến 1999 kết quả hoạt động khác luôn bị âm và đang có xu hướng tăng lên qua các năm. Năm 1996 kết quả hoạt động khác là (-17.856.319) VNĐ, sang năm 1997 con số này là (-1.135.815.038) VNĐ,năm 1998 là (116.164.767) VNĐ và năm 1999 con số này là (-1.485.279.563) VNĐ. Kết quả hoạt động tài chính cũng có biểu hiện thất thường, năm 1996 là 222.057.738 VNĐ nhưng sang năm 1997 hoạt động tài chính không đem lại kết quả, đến năm 1998 con số này là 122.554.824 VNĐ. Qua các kết quả của hoạt động kinh doanh Công ty cần phải xem xét, nghiên cứu kĩ lưỡng để đề ra phương pháp giải quyết vấn đề. Các kết quả cuối cùng từ lợi nhuận sau thuế đã được trích lập các quỹ Công ty và đang có xu hướng tăng lên qua các năm từ 1997 tới nay. Kết quả này đã giúp cải thiện tình hình vốn của Công ty và cơ sở vật chất kĩ thuật. a) Bối cảnh. Hoạt động kinh doanh của Công ty diễn ra trong bối cảnh môi trường kinh doanh có nhiều diễn biến phức tạp. - Có chế độ, chánh sách của Nhà nước và các ngành có liên quan có nhiều thay đổi và chưa được đầy đủ, toàn dIện. - Tình hình thị trường, đặc biệt là thị trường tiêu thụ có những biến động bất ngờ. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Châu á nổ ra vào tháng 7/1997 và kéo dài cho đến bây giờ đã ảnh hưởng tiêu cực tới tình hình hoạt động xuất khẩu của Công ty. - Sự chuẩn bị các mặt của Công ty còn nhiều lúng túng và bất cập, nhiều vấn đề chưa tháo gỡ được, đặc biệt là vấn đề tổ chức và quản lí khi chuyển từ cơ chế bao cấp sang. Bên cạnh những khó khăn trên cũng cần nhận thấy những tiềm năng và cơ hội mới một cách đầy đủ và toàn diện nhằm củng cố và phát triển, đó là tình hình môi trướng pháp lý đã được cải thiện hơn, quan hệ thương mại quốc tế của quốc gia được mở rộng. Đội ngũ cán bộ của Công ty qua các năm kinh doanh đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm. Công ty hoạt động trên địa bàn rộng đã xây dựng được uy tín nhất định đối với nhiều bạn hàng. Hoạt động của Công ty được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các cấp, các ngành, đặc biệt là Sở Thương mại. b) Kết quả. Từ bối cảnh trên, Ban lãnh đạo Công ty đã xác định được phương hướng kinh doanh là tiếp tục đổi mới về tổ chức, về phương thức kinh doanh, không ngừng tìm kiếm cơ hội và mở rộng thị trường. Qua đó đã đạt được một số kết quả nhất định. * Về nhận thức tư tưởng: Mặc dù, còn mang nặng tính chất kinh doanh theo thời vụ và chưa có kế hoạch kinh doanh ổn định trong dài hạn song tập thể cán bộ công nhân viên cũng như Ban lãnh đạo Công ty đã xác nhận những điều kiện kinh doanh hiện nay là rất khó khăn và phức tạp, Công ty đã nhận thất vấn đề bức xúc là phải đổi mới phương pháp tư duy và hành động trong sản xuất kinh doanh. Từ đó tập thể cán bộ công nhân viên đã không ngừng chủ động và sáng tạo trong kinh doanh, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động, lấy chỉ tiêu kinh tế làm tiêu chí hàng động. * Về tổ chức: Trong những năm qua, tổ chức lao động của Công ty đã có nhiều cải cách đáng kể. Một mặt, cùng với việc duy trì và phát triển các cơ sở kinh doanh có hiệu quả, mặt khác là rà soát và giải thể các cơ sở làm ăn kém hiệu quả, Công ty đã thực hiện giảm biên chế và tổ chức lao động theo hướng gọn nhẹ, linh động, với phương châm một nhân viên thực hiện nhiều chức năng. Bên cạnh đó, Công ty chỉ ký hợp đồng ngắn hạn với các nhân viên khác khi công việc yêu cầu. Chính vì vậy, tổ chức lao động của Công ty rất linh hoạt và làm ăn có hiệu quả (ngày càng cao). Phương pháp quản lí lao động Công ty là tự chủ, sáng tạo, nghĩa là cán bộ lãnh đạo chức năng lập kế hoạch kinh doanh và giao cho các nhân viên cấp dưới tự hoàn thành các nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của mình theo các phương án phù hợp. * Kết quả kinh doanh: Những cố gắng về nhận thức cũng như tổ chức đã đưa lại kết quả khả quan cho Công ty như sau: Bảng 12: Kết quả kinh doanh (1996 - 1999) Đơn vị:Tỷ VNĐ Chỉ tiêu Năm 1996 Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 1. Lợi nhuận trước thuế 3,010 4,114 4,901 4,609 2.Doanh thu 553,691 507,540 522,028 576,834 3. Vốn hoạt động 15,729 25,436 29.582 32.388 4. Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu (%) 0,5436 0,811 0,93884 0,8 5.Tỷ suất lợi nhuận/vốn (%) 19,14 16,174 16,568 14,231 6. Số vòng quay vốn/năm 35,2 19,954 17,647 17,81 Từ bảng trên cho thấy, mặc dù số vòng quay của vốn giảm dần qua các năm nhưng doanh thu và lợi nhuận của Công ty liên tục tăng từ năm 1997 cho đến 1999. Dù rằng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vẫn chưa dị hẳn. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn trong 3 năm gần đây đã dần dần đi vào ổn định và tăng lên, cũng như vậy, tỉ suất lợi nhuận trên doanh thu cũng đang từng bước được phục hồi, điều này chứng tỏ Công ty đã nghiên cứu và cân nhắc kĩ các cơ hội kinh doanh, thực hiện tốt các nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả. Mặc dù cơ hội kinh doanh của Công ty không nhiều nhưng hiệu quả của nói là điều đáng mừng. Tuy nhiên số vòng quay vốn có xu hướng giảm, Công ty cần có biện pháp thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, góp phần tăng nhanh vòng quay của vốn hơn. Nhiệm vụ của nghiệp vụ này là lựa chọn nguồn hàng, thị trường và nhà cung cấp, giao dịch, kí kết hợp đồng và tiến hành vận chuyển, bảo quản hàng hóa. Trong những năm gần đây, Công ty đã sử dụng các hình thức tạo nguồn hàng sau: - Mua đứt bán đoạn: đây là hình thức thu mua chủ yếu của Công ty, chiếm gần 80% giá trị hàng hóa thu mua. Sau khi Công ty và người bán đã đạt được thỏa thuận về mặt số lượng, chất lượng mẫu mã, phương thức thanh toán, điều kiện và cơ sở giao hàng ... thì hai bên mới tiến hành kí kết hợp đồng kinh tế. Hợp đồng này là cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thông thường người kí kết hợp đồng là Giám đốc Công ty hoặc Phó Giám đốc được ủy quyền. - Phương thức ủy thác: Là phương thức mà Công ty dùng danh nghĩa của mình để giao dịch với khách hàng nước ngoài nhằm thỏa thuận với họ về các điều khoản: số lượng, chất lượng, mẫu mã, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàng ... và tổ chức bán hộ hàng cho người ủy thác. Phương thức thu mua này chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ trong hoạt động kinh doanh của Công ty. - Phương thức đầu tư, liên doanh liên kết sản xuất hàng xuất khẩu. Theo phương thức này, Công ty sẽ bỏ vốn ra đầu tư vào các đơn vị sản xuất chế biến hàng xuất khẩu theo các hợp đồng ngắn hạn, trong đó Công ty chịu trách nhiệm tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra. Thông thường Công ty chỉ ứng vốn trước cho các cơ sở chức không tham gia trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất. Hình thức này chỉ được Công ty áp dụng khi đã kí được hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài mà nguồn hàng trong nước chưa có sẵn. Công tác thu mua tạo nguồn hàng của Công ty được thực hiện theo quy trình sau; - Xác định nhu cầu: Căn cứ vào các đơn đặt hàng của nước ngoài và các hợp đồng đã kí kết. - Xây dựng đơn hàng: Dựa trên các điều kiện về số lượng, chất lượng, giá cả ... biến đơn hàng nước ngoài thành đơn hàng của mình. - Lựa chọn khu vực thị trường: Căn cứ vào tính chất yêu cầu của hàng hóa xuất khẩu theo từng hợp đồng. Thông thường, thị trường khai thác hàng của Công ty là các tỉnh phía Nam vì nơi đây tập trung các mặt hàng nông, lâm, thủy hải sản ... là những mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu của Công ty. - Tìm kiếm và lựa chọn người cung cấp: Căn cứ vào khu vực thị trường đã lựa chọn, Công ty tiến hành tìm kiếm người cung cấp. Bước đầu là tập hợp các nhà cung cấp có thể có, sau đó tiến hành phân loại nhà cung cấp theo các chỉ tiêu ưu tiên và dùng phương pháp loại trừ dần để chọn nhà cung cấp có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu của đơn hàng. - Tiếp cận và đàm phán với nhà cung cấp: Trên cơ sở đã xác định được nhà cung cấp, Công ty tiếp cận đàm phán về các điều kiện của đơn hàng, kí kết hợp đồng thu mua nếu đạt được các thỏa thuận với nhà cung cấp. - Tổ chức thực hiện hợp đồng mua bán. Trong khâu này vận chuyển là khâu quan trọng nhất. Công ty đã sử dụng các hình thức tiếp nhận, vận chuyển sau: + Giao hàng tại cảng xuất khẩu. + Giao hàng tại kho của Công ty. + Giao hàng lên phương tiệnvận chuyển của Công ty tại kho người bán. Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà Công ty lựa chọn các điều kiện cơ sở giao hàng phù hợp. Bảng VI: Mô hình tổ chức công tác thu mua tạo nguồn hàng. Xác định nhu cầu Xây dựng đơn hàng Lựa chọn Thị trường Tiếp cận, đàm phán, Ký kết hợp đồng Thanh lý Hợp đồng Tổ chức thực hiện hợp đồng Tìm kiếm Nhà cung Cấp Lựa chọn Nhà cung Cấp Kiểm Tra Hàng Hóa Tiếp Nhận Hàng Hóa Vận Chuyển Hàng Hóa Thanh Toán Bảo Quản Xử lí tranh chấp b) Nghiệp vụ giao hàng xuất khẩu. Nghiệp vụ này bao gồm các khâu sau: - Chuẩn bị hàng: Sau khi Công ty đã đưa hàng về kho thì tiến hành các khâu chuẩn bị như đóng gói hàng hóa, ghi mã kí hiệu để hoàn thiện hàng theo đơn hàng của nước nhập khẩu. - Thuê tàu và kí kết hợp đồng vận chuyển: Thông thường, Công ty sử dụng điều kiện cơ sở giao hàng theo điều kiện FOB trong Incoterm 1990 với nước ngoài do vậy ở khâu này, Công ty chỉ kí kết hợp đồng vận chuyển với các tổ chức vận tải, thuê các tổ chức này đem phương tiện tới tận kho hàng của Công ty để chuyển hàng hóa ra cảng xuất khẩu, sau đó tiến hành bốc dỡ hàng xuống cảng để hải quan kiểm định hàng hóa. - Hoàn thiện thu tục giấy tờ: Làm thủ tục giấy phép xuất khẩu Công ty thường phải chuẩn bị các loại giấy tờ sau: + Hợp đồng thương mại (bản chính và bản sao). + Bản dịch hợp đồng. + Hạn ngạch, quota nếu xuất hàng hạn ngạch. + Giấy chứng nhận xuất xứ. + Giấy kiểm dịch vệ sinh hàng. + Các giấy tờ hải quan. - Tổ chức khai báo và giám định hải quan. Khâu này Công ty có trách nhiệm xuất trình đầy đủ giấy tờ, mở hàng hóa để hải quan kiểm tra. - Giao hàng lên tàu và lập vận đơn. Thông thường, Công ty ủy thác toàn phần cho hãng vận tải. Sau khi giao hàng lên tàu thì đại diện của Công ty và cơ quan bảo hiểm xác nhận hàng vào biên bản để Công ty tiến hành mua bảo hiểm. Cũng trong khâu này, đại diện của Công ty phải lấy xác nhận thuyền phó và sau đó đổi lấy vận đơn thuyền trưởng. c) Nghiệp vụ thanh toán bao gồm các khâu vay vốn thanh toán nguồn hàng và nhận tiền thanh toán của bên nhập khẩu: Đối với thanh toán đầu vào, các phòng hoặc đơn vị thực hiện nhiệm vụ trực tiếp thì được Công ty ủy quyền giao vốn để thanh toán. Sau khi nhận được tiền hàng bên nhập khẩu thanh toán, đơn vị sẽ giao lại Công ty toàn bộ doanh thu và các chi phí hợp lí. Hình thức thanh toán nguồn hàng chủ yếu bằng Tiền mặt. Nguồn vốn để thanh toán đầu vào của Công ty một phần là vốn tự có, nhưng do điều kiện còn rất thiếu vốn nên Công ty thường chủ động vay ngắn hạn Ngân hàng. Việc thanh toán của đơn vị nhập khẩu là khâu ấn định kết quả cuối cùng cả quá trình nghiệp vụ xuất khẩu hàng hóa. Số tiền thanh toán căn cứ vào trị giá hàng hóa và thời hạn thanh toán đã được quy định trong hợp đồng. Phương thức thanh toán trong xuất khẩu của Công ty rất nhiều, chẳng hạn, thanh toán bằng thư tín dụng (L/C), thanh toán bằng phương thức nhờ thu, thanh toán hàng đổi hàng, thanh toán trao tay tiền mặt. Ngoại trừ phương pháp mở L/C, còn các phương pháp khác rủi ro là khá lớn, vì vậy, Công ty chủ trương tạo điều kiện để bên đối tác mở L/C. d) Nghiệp vụ xử lí thông tin thị trường hàng xuất khẩu. Trên cơ sở thông tin thu thập được qua niên giám thống kê Việt Nam, qua các bản tin nhanh về thị trường, giá cả, Tạp chí Thương mại, qua các cơ quan Nhà nước có liên quan, qua tiếp xúc trực tiếp với bạn hàng trong và ngoài nước ... Cán bộ Phòng Kinh doanh xác định từng thị trường phù hợp với những mặt hàng nào, số lượng, chất lượng, giá cả có thể đáp ứng. Phương pháp nghiên cứu được áp dụng chủ yếu là thống kê kinh nghiệm. Trong những năm qua, thị trường thế giới có nhiều biến đổi thất thường, đặc biệt là thị trường hàng nông sản. Trong khi đó, hệ thống cung cấp thông tin của nước ta còn rất kém, chưa kịp thời với xu hướng phát triển của thế giới. Do đó, công tác thu thập và xử lí thông tin của Công ty gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ kinh doanh của Công ty chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cần thiết về nghiên cứu thị trường, chưa có các phương án nghiên cứu mang tính hệ thống. Vì vậy, có nhiều trường hợp Công ty đã gặp những lúng túng về định hướng các thị trường trọng điểm để tiến hành giao dịch xuất khẩu. Còn nữa, do yếu kém về dự đoán xu hướng của cung cầu và giá cả trong tương lai nên Công ty chưa xác định được các chiến lược xuất khẩu hợp lí. Nhiều khi giá cả chưa lên cao đã tiến hành bán ồ ạt hàng hóa, khi giá cả đã lên cao rồi thì không còn hàng hóa để bán. Hoặc có tình trạng chọn sai đối tượng buôn bán, họ không đủ khả năng tài chính để thanh toán Tiền hàng hoặc chây ì thực hiện hợp đồng gây ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu và nhiều khi còn dẫn đến thất thu, thua lỗ. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu ở nước ta. Có thể nói nghiệp vụ xử lí thông tin là cực kì quan trọng, nhất là đối với mặt hàng xuất khẩu của Công ty đa dạng và phong phú về chủng loại, chất lượng, giá cả. Công ty phải rất linh hoạt và tính toán kịp thời mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu thị trường, đảm bảo làm ăn lâu dài, tránh được lối hoạt động kinh tế theo kiểu "phi vụ" hiện vẫn còn phổ biến ở các doanh nghiệp thương mại của nước ta. II. Tổng quát kết quả xuất khẩu của Công ty. 1- Tình hình kinh doanh theo mặt hàng. Bảng 13: Kết quả xuất khẩu theo mặt hàng (1996 - 1999). Đơn vị:USD Mặt hàng 1996 1997 1998 1999 Cà phê 16.436.633 14.711.011 16.634.111 17.532.749 Tiêu đen 2.198.222 3.362.961 177.756 2.602.220 Cao su 2.429.000 2.493.754 1.397.000 2.671.000 Ngô 3.136.725 Gốm mỹ nghệ 117.177 40.570 Dụng cụ thể thao 9817 10.723 Phụ tùng máy NN 33.738 44.121 áo thun 9.312 áo sơ mi nam 15.252 Đệm bố thắng 27.922 54.847 Qua bảng trên cho thấy, đa số các mặt hàng xuất khẩu của Công ty là hàng nông - lâm - thổ sản. Đặc điểm của mặt hàng này là tình hình sản xuất phù hợp với điều kiện nước ta, có nguồn cung cấp khá dồi dào, được Nhà nước khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện thuận lợi. Tuy nhiên mặt hàng này đang gặp khó khăn trên thị trường thế giới do giá cả biến động thất thường và là mặt hàng tương đồng với hàng hóa các nước trong khu vực. Vì vậy, để đẩy mạnh được kim ngạch xuất khẩu đòi hỏi Công ty phải nỗ lực rất nhiều. Trong các mặt hàng trên thì mặt hàng chủ lực của Công ty có giá trị xuất khẩu mỗi năm trên 6 triệu USD đó là: cà phê. Mặt hàng này chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 1996, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trên chiếm tỉ trọng bằng 61% tổng giá trị hàng xuất khẩu. Năm 1997 chiếm 83%, năm 1998 chiếm 46,51%, năm 1999 chiếm 45%.Con số này cho thấy mặt hàng cà phê là mặt hàng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù vậy, mặt hàng cà phê đang có xu hướng giảm là do trong hai năm gần đây giá cả cà phê trên thị trường thế giới diễn biến thất thường, khách hàng lớn nhất mua cà phê là Mỹ đã giảm nhu cầu vì cà phê dự trữ của Mỹ khá lớn, do đó đã làm cho giá cà phê tụt xuống một cách thảm hại, mặt nữa là sản lượng cà phê của Brazin trong mấy vụ qua luôn đạt sản lượng lớn. Hai nguyên nhân đó dẫn tới cung cà phê tăng nhưng cầu cà phê giảm dẫn đến giảm giá. Tương tự như cà phê mặt hàng cao su cũng liên tục giảm giá ... Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, Công ty đã không ngừng mở rộng và tăng cường xuất khẩu các mặt hàng khác. Có thể kể đến một số mặt hàng như trang thiết bị thể thao, quần áo, ngô, đậu, lạc ... Các mặt hàng này tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng nó đã phản ánh được sự cố gắng vươn lên của cán bộ Công ty và đây sẽ là tiền đề của sự phát triển trong các năm sắp tới. Trong những năm qua, Công ty cũng chú trọng đầu tư phát triển mặt hàng theo chiều sâu, thông qua các hoạt động liên doanh, liên kết, khai thác các nguồn hàng chế biến cao. Tỉ trọng xuất khẩu hàng thô qua các năm đã giảm dần và hàng chế biến tinh đang có xu hướng tăng lên. Năm 1996 tỉ trọng chế biến của các mặt hàng xuất khâu là 30%, năm 1997 là 32%, năm 1998 là 34%, năm 1999 là 35%. Mặt hàng có tỉ trọng chế biến cao nhất phải kể đến là cà phê, năm 1991 và 1992 Công ty chỉ xuất khẩu cà phê thô, các năm 1994 trở đi Công ty chủ yếu xuất khẩu cà phê nhân, cà phê thành phẩm. Đây là hướng kinh doanh rất đúng đắn, góp phần tạo công ăn việc làm, tăng giá trị hàng xuất khẩu. Để phát huy điều này, Công ty cần thiết phải thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ với các nguồn hàng, có phương án kinh doanh rõ ràng, đặc biệt là tăng cường đầu tư, hỗ trợ cho các đơn vị sản xuất, chế biến để nâng cao chất lượng hàng hóa. 2- Tình hình kinh doanh xuất khẩu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTM041.doc
Tài liệu liên quan