Đề tài Các giải pháp kinh tế đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ

MỤC LỤC

 LỜI MỞ ĐẦU

 PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG

A: DOANH NGHIỆP VÀ VẤN ĐỀ LÀM ĂN THUA LỖ CỦA DOANH NGHIỆP

I. Doanh nghiệp

1. Khái niệm doanh nghiệp

a. Theo khái niệm của kinh tế vĩ mô

b. Theo luật doanh nghiệp

2. Phân loại doanh nghiệp

II.Vấn đề thua lỗ của doanh nghiệp

1. Vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp

2. Các biểu hiện của tình trạng thua lỗ

 a Doanh nghiệp có lãi

 b Doanh nghiệp thua lỗ

 + Trong sản xuất ngắn hạn

B: NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG THUA LỖ

 

I. Nguyên nhân khách quan

II. Nguyên nhân chủ quan

III. Các nguyên nhân khác

PHẦN II:TÌNH TRẠNG THUA LỖ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

 A:TÌNH HÌNH THUA LỖ HIỆN NAY CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

1. Tình hình thua lỗ của các doanh nghiệp tư nhân

 2. Tình hình thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước

 3.Tình hình thua lỗ của các doanh nghiệp khác

B:NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THUA LỖ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

1. Nguyên nhân khách quan

a. Do nhà nước

b. Do cơ chế hoạt động của thị trường

2. Nguyên nhân chủ quan

C:CÁC BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC TRONG THỜI GIAN QUA

1. Của nhà nước

2. Của doanh nghiệp

PHẦN III:CÁC GIẢI PHÁP KINH TẾ ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP LÀM ĂN THUA LỖ

 A: GIẢI PHÁP CỦA DOANH NGHIỆP

I. Chiến lược của doanh nghiệp

II. Kế hoạch hoá quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

B: GIẢI PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC

I. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp thế nào

II. Các chính sách cụ thể của nhà nước

 

doc47 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1383 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp kinh tế đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, tốc độ tăng trưởng không đều, chưa tạo ra được sự liên kết tăng trưởng bền vững. Đây thực là nỗi lo của kinh tế Việt Nam khi Việt Nam hội nhập AFTA và các hiệp định thương mại song phương khác nhất là hiệp định thương mại Việt- Mỹ . Từ năm 1980, đặt biệt là từ năm 1986 sau một thời gian dài đạt mức tăng trưởng cao. Song những năm gần đây sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước có xu hướng giảm sút, nhịp độ tăng trưởng củng giảm đáng kể, sản phẩm còn tồn đọng nhiều, sức cạnh tranh kém . Ví dụ: các doanh nghiệp thuộc ngành mía đường Cho tới nay, số doanh nghiệp nhà nước có mức vốn dưới 1tỉ đồng vẫn chiếm 1/4 số doanh nghiệp nhà nước. Hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp nhà nước thấp, số doanh nghiệp làm ăn có lãi giảm dần, mức lãi thấp. Trong ngành ngoại thương tình trạng cũng tương tự . Theo điều tra chọn mẫu ớ 1070 đơn vị kinh doanh thương mại trong năm 1990 có tới 658 đơn vị kinh doanh thương mại (chiếm 61,3%đơn vị kinh doanh) có lãi hay hoà vốn, còn 412 đơn vị (chiếm 38,7%) bị thua lỗ . Theo điều tra của tổng cục thống kê đối với 2.292 xí nghiệp sản xuất ổn định ,38,2% các xí nghiệp sản xuất không ổn định, 2,8% các xí nghiệp không còn khả năng tồn tại. Theo số liệu kiểm kê ngày 1/1/2000 tổng số nợ của doanh nghiệp là 358.000 tỷ đồng tương đương với hơn 2 lần vốn nhà nước tại doanh nghiệp . Trong những năm qua, các doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng thua lỗ ngày càng gia tăng. Số doanh nghiệp nhà nước thua lỗ nặng và đang có nguy cơ rơi vào bờ vực phá sản cũng không ít. Điển hình như công ty xuất nhập khẩu Gia Lai: là một doanh nghiệp nhà nước được thành lập ngày 6/10/1992. Với chức năng kinh doanh các mặt hàng nông lâm sản, hàng thủ công mỹ nghệ…Doanh nghiệp này gần đây thua lỗ nặng. Theo kết quả điều tra cho thấy, tính đến ngày 21/6/2002 công nợ phải trả của doanh nghiệp này là 114,4 tỉ đồng.Trong đó nợ vay chi nhánh ngân hàng công thương Gia Lai là 24,4 tỷ đồng,ngân hàng Nông nghiệp – phát triển nông thôn là 27,9 tỉ đồng, chi nhánh quỹ hỗ trợ đầu tư Bình Định là 9,3 tỉ đồng, chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Gia Lai 38,8 tỉ đồng, Ngân hàng đầu tư phát triển Gia Lai 4 tỉ đồng và 10 tỉ đồng thuộc các công nợ khác. Từ thực trạng này cho thấy khả năng chi trả cũng như tồn tại của công ty là không thể. Hiện nay vấn đề doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ có nợ vốn nhà nước rất cao .Theo thống kê: năm 1999 tổng số nợ của hệ thống doanh nghiệp nhà nước là 174.797 tỷ đồng, năm 2000 là 288.900 tỷ đồng, tăng 65%. Nhìn lại kết quả sản xuất năm 2001, vẫn còn tới 60% số doanh nghiệp nhà nước làm ăn bếp bênh, trong đó có 29% doanh nghiệp lỗ liên tục. Đây là những doanh nghiệp laọi nhỏ thường do địa phương quản lý . Tồn tại và yếu kém đặc trưng của các doanh nghiệp nhà nước theo đánh giá của cục tài chính doanh nghiệp là hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, sức cạnh tranh kém, tốc độ phát triển chậm. Điều đáng lo ngại nhất là rất nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn còn trông chờ vào sự bảo hộ, bao cấp của nhà nước . Theo kết quả phân tích từ số liệu năm 1997, Bộ tài chính cho thấy trong số 5.800 doanh nghiệp có tới 2.700 doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ hợac yếu kém về hiệu quả sản xuất, chiếm tới 46% tổng số các doanh nghiệp nhà nước trong đó các doanh nghiệp có tỷ lệ nợ vốn nhà nước ở mức nguy hiểm là 100%. Trong tổng số nợ của các doanh nghiệp ước tính có tới 50% là nợ quá hạn không có khả năng chi trả. Tỷ trọng xuất khẩu trong tổng doanh thu của khu vực doanh nghiệp nhà nước thấp hơn khu vực đầu tư nước ngoaì (FDI) và khu vực ngoài quốc doanh với tỷ lệ tương ứng là 17,2%, 46,2% và 46,6%. Các chỉ tiêu hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước ngày càng suy giảm . Theo báo cáo của bộ thương mại năm 2002 thì trong 8 tháng đầu năm nhiều mặt hàng xuất khẩu khó hoàn thành chỉ tiêu như: gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản…Với mặt hàng gạo, đến hết tháng 8, sản lượng xuất khẩu gạo đạt 2,272 triệu tấn bằng 75,5% so với cùng kỳ .Ngoài ra, theo nhận định của các chuyên gia thì từ nay đến cuối năm nguồn gạo cho xuất khẩu không còn nhiều, có khả năng kim nghạch xuất khẩu sẽ không đạt chỉ tiêu năm 2002 đề ra là 640 triệu USD. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của các doanh nghiệp nhà nước giảm từ 14,6% năm 1996 xuống còn 4,8% . Xu hướng giảm này đang diễn ra hiện nay. Tình hình thua lỗ của các doanh nghiệp khác. Trong thành kinh tế nước ta hiện nay, ngoài hai loại hình doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, còn tồn tại một số loại hình doanh nghiệp khác như: công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp cổ phần ….Các loại hình doanh nghiệp này đang được phát triển và ngày càng được mở rộng cả về quy mô lẫn số lượng. Theo ước tính đến năm 2002 số doanh nghiệp cổ phần hoá là 529 doanh nghiệp. Tuy chỉ có số liệu chính thức về số công ty trách nhiệm hữu hạn song loại hình này đang được thành lập và phát triển rộng rãi khắp cả nước . Tuy do hạn chế của kinh tế thị trường và những khó khăn vốn có ban đầu loại hình doanh nghiệp này cũng đang lâm vào tình trạng làm ăn thua lỗ .Trong trhời gian qua theo báo cáo của 24 bộ ngành thì số doanh nghiệp cổ phần bị thua lỗ là 42 trong đó tổng số nợ của các doanh nghiệp này đã xác định phải thu và trả là trên 6.000tỷ đồng .Tiến độ cổ phần hoá chậm trễ, khi đã cổ phần hoá thì lâm vào tình trạng làm ăn thua lỗ . Với công ty trách nhiệm hữu hạn thì trong những năm gần đây tốc độ phát triển loại hình này rất cao, bên cạnh những công ty có lãi như công ty trách hữu hạn Kinh Đô (Hưng Yên ), Hoà Phát… còn tồn tại song song những công ty làm ăn thua thua lỗ hoặc trong tình trạng cầm chừng. Kết luận: Tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn thua lỗ hiện nay ngày một gia tăng. Nó báo hiệu trước cho nền kinh tế nước ta một tương lai ảm đạm. Và để phát triển kinh tế đưa nước ta thoát khỏi tình trạng lạc hậu thì chúng ta phải có những biện pháp giải quyết đúng đắn, phù hợp khi mà tiến trình hội nhập đang đến gần. Tình trạng phá sản của các doanh nghiệp nước ta hiện Theo những số liệu và thống kê đã phân tích ở trên, tình trạng các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hiện nay là rất cao. Song trong thực tế số doanh nghiệp phá sản hiện nay là rất ít. Báo cáo tổng kết của toà án nhân dân tối cao cho biết: Kể từ khi luật phá sản doanh nghiệp có hiệu lực đến nay trung bình mỗi năm số vụ mà toà án thụ lí không quá 30. Trong thực tế số vụ toà án tuyên bố phá sản còn ít hơn nhiều trong gần 8 năm qua, trung bình mỗi năm cả nước chỉ xử lí khoảng 7 vụ phá sản doanh nghiệp. Đây là con số thể hiện tính đồng nhất, tính kém hiệu quả của luật phá sản doanh nghiệp . Cũng theo tiến sĩ Dương Đăng Huệ, phó vụ trưởng vụ pháp luật dân sự kinh tế bộ tư pháp cho biết: Báo cáo tổng kết của toà án nhân dân tối cao năm 2001 cũng nhận định các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản cũng không ít so yêu cầu tuyên bố phá sản tại toà án càng ít đi. Vậy câu hỏi đặt ra là tại sao tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nguy cơ phá sản càng cao thì số doanh nghiệp tuyên bố phá sản lại ít đến mức phi lí. Nguyên nhân là do: Thứ nhất: Số lượng các vụ việc yêu cầu tuyên bố phá sản là rất ít cũng phản ánh đúng thực tế hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, tỷ lệ doanh nghiệp phá sản là quá ít so với số doanh nghiệp đã thành lập và nó phản ánh đúng tình hình kinh doanh của doanh nghiệp vì nhiều lí do khác nhau mà các chủ doanh nghiệp mắc nợ không muốn nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Các đối tượng nộp đơn tuyên bố phá sản theo luật phá sản doanh nghiệp có 3 đối tượng được nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp là chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần doanh nghiệp mắc nợ đại diện công đoàn và đại diện người lao động với tư cách pháp nhân còn thiếu hiểu biết về pháp luật. Ví dụ: 21 trường hợp nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản ở thành phố Hồ Chí Minh, song đến 11 trường hợp không đủ hồ sơ theo luật định của luật phá sản doanh nghiệp. Thứ ba: Nhiều vụ việc phá sản bị tạm đình chỉ do hoà giải được hoặc do phát hiện các hành vi lợi dụng việc tuyên bố phá sản để trốn tránh nghĩa vụ hình sự: như trường hợp doanh nghiệp Kim Thoại (ở Cần Thơ). Thứ tư: Các doanh nghiệp tuyên bố phá sản chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, chỉ có khoảng 1/10 số doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản là doanh nghiệp nhà nước. Thứ năm: Thời gian giải quết vụ phá sản bị vi phạm khá nhiều, theo thông lệ thời gian để giải quyết một vụ việc là 5-8 tháng song có trường hợp kéo dài đến 2 thậm chí 3 năm như công ty Tamexco. Thứ sáu: Nhiều vụ phá sản có liên quan đến các vụ án hình sự do vậy còn cản trở đến việc tuyên bố phá sản của doanh nghiệp đó. Thứ bẩy: Các doanh nghiệp tuyên bố phá sản có số nợ vượt quá nhiều so với giá trị tài sản của doanh nghiệp. Ví dụ: Công ty Tamexco nợ phải trả là105,3 tỷđồng, do vậy muốn phá sản cũng không được, và nếu để tình trạng này càng làm cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ. B. Nguyên nhân dẫn đến thua lỗ của doanh nghiệp Việt Nam. Trong những năm qua, hàng loạt các doanh nghiệp Việt Nam ra đời và hoạt động trên mọi lĩnh vực, ở mọi thành phần kinh tế. Các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tuy nhiên tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn thua lỗ ngày càng ra tăng ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế nước ta. Sau đây là những nguyên nhân chính dẫn đến sự thua lỗ của doanh nghiệp Việt Nam. Nguyên nhân chủ quan. Về nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp chủ yếu là do doanh nghiệp chưa giải quyết tốt 3 vấn đề kinh tế cơ bản của doanh nghiệp : tức là doanh nghiệp đã sai lầm trong các quyết định : Sản xuất cái gì Sản xuất như thế nào Sản xuất cho ai + Quyết định sản xuất cái gì. Doanh nghiệp không nghiên cứu kĩ thị trường, do vậy đã sai lầm khi đưa ra quyết đinh sản xuất cái gì, sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất ra không thoả mãn thị hiếu của người tiêu dùng, không có khả năng cạnh tranh trên thị trường, không tạo ưu thế trên thị trường so với các sản phẩm cạnh tranh. Ví du: Hãng sản xuất bánh kẹo Kinh Đô, do giá thành quá cao so với mặt bằng thu nhập của người dân do vậy sản phẩm không được tiêu thụ rộng rãi trong nước. + Quyết định sản xuất như thế nào. Sau khi đã nghiên cứu thị trường và đưa ra được quyết định sản xuất cái gì, doanh nghiệp phải đưa ra quyết đinh sản xuất như thế nào: Sai lầm trong khâu này chủ yếu là do các nguyên nhân sau: Sai lầm trong lựa chọn các yếu tố đầu vào dẫn đến giá thành của sản phẩm cao, giá cả mà cao khi đó khó được chấp nhận trên thị trường trong khi các sản phẩm cùng loại giá laị rẻ hơn nhiều. Ví dụ: Mặt hàng Giá trong nước( USD/tấn) Giá nhập khẩu Xi măng 50-60 40-45 Phân lân 160-180 115-125 Thép 300-400 260-300 Sai lầm trong việc lựa chọn công nghệ sản xuất. Các doanh nghiệp không tự đổi mới công nghệ sản xuất, sản xuất còn lạc hậu, lao động thủ công dẫn đến năng suất lao động không cao, mẫu mã, hình thức không đa dạng, khó được ưa chuộng. Ví dụ: Các hãng sản xuất phân bón trong nước. Nhà máy phân lân Văn Điển: 1,1triệu đồng/tấn Nhà máy hoá chất Vinh: 1,25 triệu đồng/tấn Công ty phân bón Miền Nam: 1,536 triệu đồng/tấn Công ty phân bón Cần Thơ: 1,46 triệu đồng/tấn Cùng một loại sản phẩm như nhau nhưng giá lại khác nhau: giá của nhà máy phân lân Văn Điển rẻ nhất, giá của công ty phân bón Miền Nam là cao nhất, do vậy sản phẩm của công ty phân bón Miền Nam sẽ không được chấp nhận trên thị trường. Sai lầm trong công tác quản lí: Đây là sai lầm thường thấy ở các doanh nghiệp nhà nước trước đây. Do đội ngũ quản lí còn yếu kém, trình độ thấp, do vậy ảnh hưởng rất nhiều tới hiệu quả sản xuất. - Sai lầm trong công tác quản lí là nguyên nhân dẫn đến sự thua lỗ hiện nay của các doanh nghiệp. Cụ thể như: Dự án nhà máy xi măng Hoàng Mai, tại Nghệ An. Mọi thành viên của công ty trước khi trở thành doanh nghiệp, thành viên của tổng công ty xi măng Việt Nam chưa qua công tác quản lí, đầu tư xây dựng các dự án lớn và do chưa hoạt động trong ngành xi măng. Do vậy quá trình thực hiện còn tỏ ra vụng về, lúng túng là nguyên nhân gây ra thất thoát, lãng phí. Trình độ của những người quản lí, nhất là những người trực tiếp việc xây dựng … có nhiều mặt yếu kém cần phải khắc phục triệt để. + Quyết định sản xuất cho ai Sai lầm của doanh nghiệp là chưa tìm hiểu rõ : Sau khi sản xuất, những ai, đơn vị, tổ chức nào sẽ được hưởng hàng hoá, dịch vụ do mình sản xuất ra. Sản phẩm được tiêu thụ và phân bố ở đâu. Nguyên nhân khách quan. a. Do cơ chế quản lí của nhà nước. Trước khi nước ta đổi mới, thực hiện chính sách mở cửa để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cơ chế quản lí kinh tế nước ta còn trong tình trạng tập trung, quan liêu bao cấp. Khi đó nhà nước quản lí doanh nghiệp bằng các chỉ tiêu pháp lệnh. Gồm 9 chỉ tiêu: Giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện, sản lượng chủ yếu bằng hiện vật, tổng qũy tiền lương, lãi và các khoản nộp ngân sách. Bên cạnh các chỉ tiêu pháp lệnh, nhà nước còn đưa ra một loạt các chỉ tiêu như năng suất lao động, tổng số công nhân viên chức, lương bình quân… nhằm hướng dẫn giám đốc DNNN làm và báo cáo lên bộ chủ quản. Nhà nước thực hiện chế độ bao cấp và giao nộp. Về mặt tài chính DNNN thực hiện theo nguyên tắc thu đủ, lãi thì nhà nước thu, lỗ thì nhà nước chịu. Là doanh nghiệp nhưng mục tiêu lợi nhuận không được đặt ra. Nhiều DNNN mở rộng sản xuất chỉ vì mục tiêu giải quyết tình trạng thất nghiệp trong xã hội… Nhà nước sử dụng công cụ giá trị một cách hình thức, dùng để tính toán. Giá cả hàng hoá không phản ánh được sự khan hiếm của mặt hàng đó. Tiền lương không phản ánh giá cả của sức lao động. Sự khan hiếm nguồn vốn được điều chỉnh bằng cách in thêm tiền chứ không phải bằng cách điều chỉnh lãi suất tín dụng. Nhà nước xem nhẹ yếu tố thị trường, nơi quyết định sản xuất cái gì, cho ai và như thế nào bằng tín hiệu giá cả. Nhà nước quyết định tất cả một cách chủ quan. Bên cạnh đó môi trường hoạt động mà trong đó khu vực kinh tế tư nhân tồn tại rất khiêm tốn, hoàn toàn không mang tính cạnh tranh. Các doanh nghiệp nhà nước hoạt động cạnh tranh thuần hợp tác và thực hiện chế độ thi đua XHCN. Với cơ chế quản lí kinh tế như vậy đã gây nên sự ỷ lại, kém năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN, dẫn đến tình trạng nhiều DNNN bị thua lỗ và phá sản là không tránh khỏi. Cơ chế quản lí trực tiếp bằng các chỉ tiêu pháp lệnh tạo cho các DNNN làm việc theo mệnh lệnh. Cơ chế cấp phát giao nộp sản phẩm trong mối quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp yêu cầu nhà nước cấp phát cho các yếu tố đầu vào ở mức tối đa thậm chí còn khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng lãng phí các nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn khan hiếm của nhà nước. Là doanh nghiệp mà hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận thì không thể có hiệu quả cao được. Do vậy hậu quả của cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp là có nhiều DNNN ở trong tình trạng làm ăn thua lỗ, hay “lãi giả, lỗ thật” do giá của các yếu tố đầu vào thấp hơn giá thực tế rất nhiều. Trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, một bộ phận lớn công sức không được sử dụng. Ví dụ: Riêng DNNN trong ngành công nghiệp mới huy động khoảng 60% công suất. Đối với thành phần kinh tế tư nhân, do môi trường hoạt động khiêm tốn không mang tính cạnh tranh nên hoạt động kém hiệu quả. Quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ bé, việc không chú trọng đầu tư, lao động ít, là hạn chế trong việc mở rộng sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ, hiện đại hoá, nâng cao chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh của hàng hoá. Doanh nghiệp tư nhân còn chưa được đối sử bình đẳng như các doanh nghiệp khác (đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ). Với những khó khăn như vậy về môi trường kinh doanh đã góp phần dẫn đến tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp tư nhân. Năm 1986, Việt Nam thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch sang cơ chế của nền kinh tế thị trường. Vào thời điểm này kinh tế nước ta rơi vào tình trạng khó khăn do cơ chế quản lí yếu kém, khủng hoảng kinh tế trong nước kéo dài. Tình trạng này càng trở trầm trọng hơn, khi Mỹ theo đuổi chính sách cấm vận đối với việt Nam. Thời kì này tăng trưởng kinh tế thấp, tình trạng doanh nghiệp sản xuất ở mức báo động, hiệu quả kinh tế kém. + Từ năm1985 đến năm 1998. Nền kinh tế chững lại do cuộc cải cách cơ chế lần thứ nhất. Những bất hợp lí về cơ cấu chính sách thể hiện rõ trong việc phân bổ nguồn lực thiếu hiệu quả. Do khả năng đầu tư tập trung chủ yếu trong những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu, mang tính bảo hộ cao và có tính độc quyền trong một nền kinh tế vào các doanh nghiệp DNNN kém hiệu quả, mang tính bảo hộ cao và có tính độc quyền trong một nền tài chính còn mang nặng tính bao cấp, thiếu lành mạnh và hiệu quả. + Năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tác động xấu tới nền kinh tế nước ta.Tỉ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FOI) giảm và cán cân thương mại mất cân bằng.Thị trường bị co hẹp, bên cạnh đó các loại hàng hoá tràn ngập tại thị trường Việt Nam gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước. + Năm 1999 kinh tế nước ta khủng hoảng nhất từ năm 1995 trở lại đây. Nền sản xuất đình trệ, các doanh nghiệp nhà nước thiếu tập trung, quản lý còn lỏng lẻo. Do thiếu sự quản lý cúa nhà nước nên các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, thất thoát caovà mất khẳ năng thanh toán. Đặc biệt vấn đề tham nhũng nổi cộm trong những năm gần đây như vụ án EFCO Minh Phụng gây thất thoát của nhà nước hàng trăm tỷ đồng. + Với những điều kiện phát triển kinh tế còn thấp và không ổn định như vậy làm cho môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước trở lên hết sức khó khăn. Đó là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp . b. Do cơ chế hoạt động của thị trường. Trước năm 1986: Nền kinh tế nước ta trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.Toàn bộ tư liệu sản xuất tập trung vào tay nhà nước, các doanh nghiệp đều được quốc hữu hoá, do đó nó hạn chế rất nhiều tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp .Trong khi đó các doanh nghiệp sản xuất hoàn toàn trong sự bảo hộ của nhà nước. Lãi nhà nước hưởng, lỗ nhà nước chịu do vậy các doanh nghiệp khi đó rất yếu kém về hiệu quả sản xuất cũng như trình độ quản lý. Hạn chế khả năng phản ứng của doanh nghiệp với những biến đổi của môi trtường. Khi môi trường kinh doanh thay đổi, các doanh nghiệp nắm bắt thông tin rất chậm và chậm trễ đưa ra các quyết định thay đổi quá trình sản xuất. Sau năm 1986: Nước ta thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù sự quản lý của nhà nước phần nào đã khắc phục được những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Nhưng do cơ chế hoạt động của thị trường, các doanh nghiệp Việt Nam chưa thích ứng được với những yêu cầu ngày càng cao của nó và là nguyên nhân dẫn tới tình trạng thua lỗ. Một trong những khía cạnh quan trọng của nền kinh tế thị trường đó là cạnh tranh, đây là đặc điểm nổi bật nhất.Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp phải có khả năng thích ứng nhanh mới có cơ hội tồn tại trên thị trường nhưng các doanh nghiệp, nước ta mới thoát khỏi cái bóng của nhà nước chưa lâu do vậy khả năng thích ứng còn kém. Do vậy tình trạng thua lỗ là không tránh khỏi. Có thể nói cơ chế hoạt động của thị trường ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng rủi ro trong kinh doanh rất lớn. Do vậy với khả năng tổ chức, quản lý và điều hành sản xuất của các doanh nghiệp thì việc sản phẩm không tiêu thụ được, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả sẽ dẫn đến tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp . Các nguyên nhân khác. Ngoài nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến thua lỗ của các doanh nghiệp. Hiện nay còn tồn tại rất nhiều nguyên nhân khác ảnh hưởng rất lớn tới tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp. Một vấn đề nổi cộm nhất hiện nay cho thấy: “Nợ là một trong những nguyên nhân dẫn đến thua lỗ của doanh nghiệp”. Trong những năm qua, nhà nước đã nhiều lần tập trung chỉ đạo nợ tồn đọng của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Nhưng sau mỗi lần giải quyết tình hình nợ của doanh nghiệp lại có chiều hướng ra tăng, không những làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp xấu đi mà còn tác động rất lớn đến hoạt động của hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Thực trạng nợ của doanh nghiệp là con số đáng báo động. Riêng các doanh nghiệp nhà nước tổng số nợ đã lên đến hơn 353 nghìn tỷ đồng. Đó là con số phản ánh đến thực trạng của doanh nghiệp hiện nay nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng nợ của doanh nghiệp nhà nước như vậy ? Thứ nhất : Do công tác đầu tư nhiều công trình, đầu tư không được xem xét kỹ tính hiệu quả, mang nặng tính chủ quan theo kiểu phong trào như chủ trương xây dựng các nhà máy Thuốc lá ,Bia… Ngoài ra việc lựa chọn các công trình chưa phù hợp và còn lạc hậu, cơ cấu đầu tư chưa phù hợp dẫn đến nguyên nhân là nhiều công trình chưa phát huy hết công suất, chất lượng sản phẩm thấp giá thành cao, không có khả năng cạnh tranh và khó tiêu thụ. Thứ hai: Cơ chế chính sách chưa phù hợp, chậm đổi mới, sửa đổi bổ sung cơ chế quản lý còn mang nặng dáng dấp của thời kỳ bao cấp… Thứ ba: Vấn đề vốn của doanh nghiệp bao gồm nhà nước đầu tư và tích luỹ của doanh nghiệp còn hạn chế làm cho mức vay vốn của doanh nghiệp xấu đi… Thứ tư: Có sự can thiệp vào sản suất kinh doanh của Nhà nước, do vậy doanh nghiệp nhà nước còn ỷ lại vào nhà nước và coi nhà nước phải chịu một phần trách nhiệm ... Kết luận: Vấn đề tồn đọng đối với các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay là tình trạng nợ vốn Nhà nước, để giải quyết tốt khâu này, các doanh nghiệp phải có những biện pháp khắc phục nhằm hạn chế tối thiểu các nguyên nhân thua lỗ do nợ nần gây ra. * Ngoài ra còn tồn tại các nguyên nhân như: a, Do chính sách của nhà nước b, Do hệ thống pháp luật c, Do chính sách tài chính tiền tệ d, Do chính sách xuất nhập khẩu e, Do cạnh tranh d, Các chính sách bất hợp lệ khác Để làm rõ các nguyên nhân này người ta nghiên cứu cụ thể từng trường hợp tính bất hợp lý của việc tồn tại nhiều thủ tục hành chính phức tạp. Chính sách của Nhà nước: có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước ban hành các luật định, các điều khoản cụ thể buộc các doanh nghiệp phải thực hiện theo. Một trong các nguyên nhân làm cho doanh nghiệp làm ăn thua lỗ là do nhà nước đối xử không bình đẳng giữa các doanh nghiệp, ưu tiên cho doanh nghiệp này hay đầu tư chú trọng phát triển doanh nghiệp đó . Theo ông Trần Công Hoàng Quốc Trang, chủ tịch hiệp hội nhựa TP Hồ Chí Minh thì hiện nay trong ngành nhựa Việt Nam đang có sự đối xử bất bình đẳng về mức thuế thu nhập doanh nghiệp giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Cụ thể các doanh nghiệp nhựa trong nước phải chịu mức thuế thu nhập là 32% trong khi đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ nộp ở mức 25%. Do vậy làm giảm năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Nhìn chung hệ thống thuế nước ta rất phức tạp, ít khuyến khích sản xuất vừa có nhiều chỗ sơ hở dễ lợi dụng. Các chính sách luật lệ hiện nay đang là trở ngại lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính sách thuế không rõ ràng, thiếu đồng bộ tạo cơ hội cho những cán bộ nhũng nhiễu, gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp. Thuế cao cùng với chính sách hạn chế nhập khẩu mặt hàng nào thì mặt hàng buôn lậu ở mặt hàng đó tăng, làm cho mặt hàng trong nước ứ đọng, không tiêu thụ được, chẳng hạn: Chúng ta ra lệnh cấm nhập khẩu thuốc lá làm cho tình trạng buôn lậu thuốc lá ngày càng ra tăng và đè bẹp ngành sản xuất thuốc lá trong nước. Do hệ thống pháp luật: Pháp luật tạo ra hành lang và giới hạn tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo công bằng trong hoạt động giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật nước ta còn chưa hoàn chỉnh và trong quá trình thực hiện pháp luật còn chưa nghiêm minh, công bằng. Khuôn khổ quản lý doanh nghiệp nhà nước bằng hệ thống pháp luật còn nhiều hạn chế tính chủ động của doanh nghiệp. Các vấn đề như cơ cấu tổ chức doanh nghiệp còn thấp, mô hình công ty, tổng công ty, quyền đại diện chủ sở hữu cho thấy còn nhiều điểm hạn chế, chưa phù hợp với thực tế. Vấn đề thực hiện pháp luật hiện nay cần được giải quyết chặt chẽ, bởi hàng loạt công ty làm ăn thua lỗ hiện nay là do đội ngũ lãnh đạo không làm tròn trách nhiệm, không làm đúng quy định của pháp luật, nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, nợ nhà nước dẫn đến doanh nghiệp không có vốn để đổi mới, mở rộng sản xuất. Trong những năm qua toà án đã xử lí nhiều vụ án có liên quan đến tham nhũng, chiếm đoạt công quỹ của nhà nước, rất nhiều vụ nghiêm trong như: EPCO Minh Phụng mà một thời là tâm điểm của báo chí, truyền hình trong những năm 1999 hay gần đây là vụ tham nhũng tai công ty lương thực An Giang. Theo báo cáo của cục điều tra: giám đốc công ty đã lợi dụng quyền hạn chiếm đoạt 14 tỷ đồng và gây thất thoát 37 tỷ đồng. Ngoài ra công ty do sự điều hanh của giám đốc kém năng lực làm phá sản A với số nợ trên 343 tỷ đồng trong đó có 243 tỷ đồng là nợ v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35615.doc
Tài liệu liên quan