Đề tài Cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu tư hợp lý. Phân tích khái quát cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hiện nay

 Đầu tư dàn trải, tiến độ thi công hầu hết các dự án đều chậm trễ, kéo dài, quản lý đất đai kém, đền bù giải phóng mặt bằng chậm, công trình dở dang làm cho vốn đầu tư bị “chôn” nhiều, chậm thu hồi trong khi lãi suất tiền vay chồng tiếp lên vốn vay. Số dự án tăng nhanh hàng năm không tương xứng với tốc độ tăng trưởng của vốn đầu tư. Nhiều dự án không đủ thủ tục cũng được ghi vốn hoặc ngược lại không có vốn cũng triển khai, dẫn đến tình trạng nhiều công trình kéo dài do thiếu vốn. Ở nhiều địa phương, số vốn bố trí cho các dự án nhỏ, không đủ và không khớp giữa kế hoạch đầu tư và kế hoạch vốn. Hàng nghìn dự án phải chi bổ sung từ 300 – 500 triệu đồng. Chưa kể, trong 5 năm (2001–2005) có tới 2095 dự án thiếu thủ tục đầu tư vẫn quyết định thực hiện, có 61% đến 70.6% dự án do chậm ứng vốn và năng lực tài chính của nhà thầu hạn chế nên công trình đầu tư dở dang, chậm đưa vào sản xuất, gây lãng phí rất lớn.

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2489 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cơ cấu đầu tư, cơ cấu đầu tư hợp lý. Phân tích khái quát cơ cấu đầu tư ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia đình tỷ lệ chi cho giáo dục ở nước ta còn cao hơn nữa. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm 2000 là 11,5%, năm 2005 là 13%, năm 2007 là 20% (nguồn TCTK và BKHĐT), nhiều quốc gia mơ tưởng chỉ số này dành cho giáo dục của họ. Gần đây còn có nhiều quyết sách khác về tài chính – kể cả việc cho sinh viên vay tiền ngân hàng để chi cho học tập – hỗ trợ việc phát triển giáo dục. Nghĩa là cả nước nỗ lực rất lớn cho phát triển giáo dục nói riêng và phát triển nguồn nhân lực nói chung. Tuy vậy, lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều bất cập, khó khăn. Kinh phí đầu tư tăng lên cũng mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu tối thiểu cho lĩnh vực này và khoảng cách này sẽ còn là lớn hơn nữa nếu chúng ta muốn áp dụng các điều kiện học tập tốt hơn cho học sinh. Do đó, thời gian qua, các chủ trương như xã hội hoá giáo dục, thương mại hoá giáo dục đang được hô hào nhằm tăng đóng góp của người dân cho giáo dục, đào tạo tuy vậy vẫn còn đang vấp phải nhiều phản đối, dư luận từ phía xã hội. 2.3 Thực trạng về cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành. 2.3.1 Quy mô và cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành. Bảng 8: Vốn đầu tư toàn xã hội phân theo ngành kinh tế Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng số 170496 200145 239246 290927 343135 398900 Nông, lâm, ngư nghiệp 16142 17584 20220 22963 25749 29843 Trong đó Nông nghiệp và lâm nghiệp 13629 14605 17077 18113 20079 22123 Thuỷ sản 2513 2934 3143 4850 5670 7720 Công nghiệp và xây dựng 72250 84734 98794 124372 146104 163831 Trong đó Công nghiệp 63204 74244 87286 113175 132902 148588 Xây dựng 9046 10490 11508 11197 13202 15243 Dịch vụ 82104 97827 120232 143592 171282 205226 Nguồn: Tính theo Niên giám thống kê 2006 Bảng 9: Cơ cấu đầu tư theo ngành, thời kỳ Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng số 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00 Nông, lâm, ngư nghiệp 9.46 8.78 8.45 7.89 7.50 7.48 Công nghiệp, xây dựng 42.38 42.34 41.29 42.75 42.58 41.07 Dịch vụ 48.16 48.88 50.26 49.36 49.92 51.45 Nguồn: Tính theo Niên giám thống kê 2006 Trong 6 năm vừa qua, từ năm 2001-2006, tổng số vốn đầu tư vào khu vực nông, lâm, ngư nghiệp đạt khoảng 132.5 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 8.26% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Tổng số vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp, xây dựng 690.1 nghìn tỷ, chiếm tỷ trọng khoảng 42.07% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Nhưng có sự thu hút mạnh mẽ nhất về vốn đầu tư trong những năm gần đây phải kể đến là khu vực dịch vụ. Khu vực này đã thu hút được tới hơn 820 nghìn tỷ đồng trong 6 năm vừa qua. Tính trung bình, năm sau số vốn đầu tư thu hút vào khu vực dịch vụ tăng hơn năm trước đó là 20% và luôn là khu vực thu hút vốn đầu tư chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế của toàn xã hội, chiếm khoảng 50% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, năm 2006, con số này lên tới 51.45%. Biểu 3: Cơ cấu đầu tư theo ngành, thời kỳ 1996- 2005 Giai đoạn 1996-2000 Giai đoạn 2001-2005. 2.3.2 Sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo ngành giai đoạn 2001-2007. Như vậy có thể thấy, cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành kinh tế trong thời gian qua: từ năm 2001-2007 dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng đầu tư cho các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng đầu tư cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm liên tiếp từ 9.46% năm 2001 xuống 7.5% năm 2005 và 7.48% năm 2006. Như vậy, xét về số tuyệt đối, tổng số vốn đầu tư phát triển nông, lâm, ngư nghiệp vẫn tăng nhưng tỷ trọng của chúng trong tổng vốn đầu tư phát triển lại giảm. Về lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vực này trong thời gian qua tăng lên rất nhanh chóng, tuy vậy tỷ trọng đầu tư của khu vực này trong cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế trong 6 năm vừa qua không có sự thay đổi rõ nét, luôn sấp sỉ ở con số 42%. Tuy vậy, nếu so sánh tỷ trọng vốn đầu tư trong giai đoạn này, từ năm 2001-2006 so với giai đoạn trước đó từ năm 1996-2000 thì ta thấy đã có sự thay đổi rõ rệt. Giai đoạn trước đó, tỷ trọng vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp và xây dựng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội chỉ chiếm khoảng 36.1%. Như vậy, sự giảm đi về mặt tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong thời gian qua chủ yếu nhường chỗ cho sự tăng lên tỷ trọng đầu tư của khu vực dịch vụ trong tổng số vốn đầu tư phát triển. Tỷ trọng vốn đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ chiếm khoảng 48.16% năm 2001 đã tăng lên tới 50.26% năm 2003 và 51.45% năm 2006 và luôn giữ ở vị trí cao nhất. Có thể thấy rằng sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo ngành trong thời gian qua là hợp lý, phù hợp với chủ trương, chiến lược của Nhà nước ta và đã tạo động lực cho sự phát triển và sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Trong giai đoạn vừa qua Việt Nam luôn luôn là quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP cao. Đứng trong khu vực Đông Á, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đứng thứ 2 chỉ sau Trung Quốc. Các lý thuyết và học thuyết kinh tế hiện đại đã nghiên cứu và giải đáp thành công mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển kinh tế và đã chứng minh được rằng, đầu tư là chìa khóa được cụ thể hoá trong mối tương quan giữa tăng trưởng vốn đầu tư và tăng trưởng GDP. Như vậy, đóng góp vào sự tăng trưởng GDP này đó chính là do có sự thay đổi trong vốn đầu tư và đặc biệt là sự đóng góp, sự thay đổi cơ cấu đầu tư phân theo ngành kinh tế. Do chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (chiếm khoảng 40%) và có tốc độ tăng giá trị tăng thêm cao nhất khoảng 10.3%, do đó trong những năm qua công nghiệp và xây dựng vẫn là khu vực có đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng chung, chiếm tới 49.7% hay 4.2 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Khu vực nông- lâm- thủy sản chịu nhiều tác động bất lợi của thời tiết, dịch cúm gia cầm và biến động của thị trường; tốc độ tăng trưởng của khu vực nông- lâm- thủy sản trong những năm qua chỉ đạt khoảng 3.6% đóng góp 9.8% hay 0.8 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ là khoảng 7.38% trong 7 năm qua. Trong đó phải kể đến 3 năm gần đây, tốc độ tăng giá trị của khu vực này đã đạt 8.48% năm 2005, đây được coi là năm khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng cao nhất kể từ trước và lần đầu tiên cao hơn mức tăng trưởng GDP của toàn bộ nền kinh tế và năm 2007 đã đạt được 8.6%. Đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao (9-10%) thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Vì đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế nhiều mặt, để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư đã quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bảng 10: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) phân theo ngành kinh tế Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 GDP 6.89 7.08 7.34 7.79 8.44 8.17 8.44 Nông, lâm, ngư nghiệp 2.89 4.17 3.62 4.36 4.02 3.3 3.0 Công nghiệp, xây dựng 10.39 9.48 10.48 10.22 10.69 10.37 10.4 Dịch vụ 6.10 6.54 6.45 7.26 8.48 8.29 8.6   Nguồn: Niên giám thống kê 2006 (tr69) 2.4 Thực trạng về cơ cấu đầu tư phát triển theo vùng, lãnh thổ. 2.4.1 Quy mô và cơ cấu đầu tư phát triển theo vùng. Ở nước ta hiện nay, khi phân tích cơ cấu vùng, lãnh thổ, thường chia làm 7 vùng kinh tế gồm Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, Tây nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Trong tất cả các vùng, lãnh thổ đó, khu vực kinh tế đồng bằng Bắc Bộ và Đông Nam Bộ luôn là 2 khu vực có tỷ lệ thu hút vốn đầu tư cao nhất cả nước. Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ trong giai đoạn từ 2001-2005 tỷ lệ vốn đầu tư vào khu vực chiếm khoảng 27.7% vốn đầu tư toàn quốc và vùng Đông Nam bộ là hơn 30%. Như vậy chỉ tính riêng 2 khu vực này đã chiếm quá nửa tỷ trọng vốn đầu tư vào nước ta. * Về nguồn vốn từ Nhà nước: Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long cũng chính là những vùng tiếp nhận vốn đầu tư nhà nước nhiều nhất trong thời gian qua. Tuy nhiên trong các nguồn vốn đầu tư Nhà nước các vùng lãnh thổ kém phát triển hơn thường nhận được tỷ trọng đầu tư lớn hơn từ ngân sách Nhà nước. Với các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ điện nước còn kém thì nhà nước thực hiện các chính sách hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho việc thu hút các nguồn vốn khác đến đầu tư. Bảng 11: Cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ kinh tế Loại vùng 1996-2000 2001-2004 1996-2004 Trung du và vùng núi phía Bắc 7.00 7.10 7.05 Đồng Bằng Bắc Bộ 28.30 27.70 28.00 Bắc Trung Bộ và duyên hải mi ền Trung 16.40 17.40 16.90 Tây Nguyên 4.10 4.00 4.05 Đông Nam Bộ 31.30 30.60 30.95 Đồng Bằng sông Cửu Long 12.90 13.20 13.05 Nguồn: Ngô Doãn Vịnh “ Những vấn đề chủ yếu của đầu tư phát triển” NXB Chính trị Quốc Gia, 2006 Bảng 12: Phân bổ vốn đầu tư nhà nước theo vùng lãnh thổ 2001-2005 Tổng vốn đầu tư Nhà nước ( nghìn tỷ đồng) Tỷ trọng trong tổng đầu tư trên toàn quốc (%) Đầu tư từ ngân sách Nhà nước (nghìn tỷ đồng) Tỷ trọng đầu tư ngân sách Nhà nước trong tổng đầu tư Nhà nước (%) Tổng 498.1 100 211.7 42.5 Trung du và miền núi phía Bắc 48.4 9.7 27.7 57.2 Đồng bằng sông Hồng 115.1 23.1 43.5 37.8 Bắc Trung Bộ 47.0 9.4 26.0 55.3 Duyên Hải Miền Trung 57.7 11.6 24.1 41.8 Tây Nguyên 25.4 5.1 10.0 39.4 Đồng Bằng sông Cửu Long 81.0 16.3 37.1 45.8 Đông Nam Bộ 123.5 24.8 43.3 35.1 Nguồn: Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương. * Về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: cơ cấu đầu tư FDI theo vùng lãnh thổ cũng rất chênh lệch nhau, chủ yếu tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc, các tỉnh vùng sâu, vùng xa tỉ trọng rất thấp. Cụ thể, số vốn thực hiện tại các tỉnh thuộc vùng Đông Nam bộ chiếm 61.6%, khu vực Đông Bắc bộ 7.1%, đồng bằng sông Hồng 5.3%, Tây Nguyên 5.6%, khu vực Tây Bắc chỉ có… 0.4%. Các địa phương như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Vũng Tàu...là những địa phương có nhiều dự án ĐTNN tìm đến. Cụ thể: - Các tỉnh phía Bắc thu hút 2220 dự án với vốn đầu tư khoảng 24 tỷ USD từ năm 1988 đến 2007 chiếm 26% về số dự án, 19% về vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước. Hà nội chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng, tiếp đến là Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh. - Các tỉnh phía Bắc và Nam Trung Bộ trong đó có Quảng Nam và Đà Nẵng đặc biệt là Phú Yên hiện đang đứng đầu các tỉnh miền Trung về thu hút vốn đầu tư nước ngoài tuy nhiên còn dưới mức yêu cầu và tiềm năng. - Các tỉnh phía Nam từ Ninh Thuận trở vào thu hút 5452 dự án với tổng vổn 46.8 tỷ USD vốn thực hiện đạt 15.68 tỷ USD chiếm 63% về số dự án 56% về vốn đăng ký và 51% về vốn thực hiện của cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn đầu tư còn thấp so với các vùng khác. Chỉ chiếm 3.6% số dự án 4.4% về vốn đăng ký và 3.2% về vốn thực hiện của cả nước. Bảng 13 : Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) thời kỳ 2001-2005 Năm 2001 2002 2003 2004 2005 KTTĐ Bắc Bộ Số vốn 38982.3 161713.2 48125.8 54471.5 61832.2 Cơ cấu 24.11 24.08 23.39 25.76 28.00 KTTĐ Miền Trung Số vốn 10393.6 11643.0 14300.2 16791.5 18971.0 Cơ cấu 6.43 6.57 6.95 7.94 8.59 KTTĐ Miền Nam Số vốn 51329.6 59343.0 72949.4 87006.8 94855.1 Cơ cấu 31.74 33.5 35.45 41.14 42.97 Toàn quốc 161713.2 177082.0 205782.3 211475.3 220762.0 Nguồn: Ban nghiên cứu phát triển vùng- Viện chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch đầu tư Như vậy có thể thấy rằng vốn đầu tư được phân bố theo các vùng kinh tế, nhưng chủ yếu trong mỗi vùng miền: miền Bắc, miền Trung và miền Nam, số vốn đầu tư vẫn chỉ tập trung vào một số tỉnh nhất định đó là những vùng kinh tế trọng điểm: - Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm 8 tỉnh: thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. Vùng KTTĐ Bắc Bộ có những lợi thế quan trọng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước, là nơi tập trụng nhân lực dồi dào, trình độ dân trí cao; kết cấu hạ tầng khá nhất trong cả nước. - Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Đà nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. - Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà-Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước và Long An. 2.4.2 Sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ giai đoạn 2001-2007 Như vậy, có thể thấy trong thời gian cơ cấu đầu tư đã có những bước dịch chuyển theo hướng tương đối tích cực, theo hướng khai thác lợi thế từng vùng để phát triển. Đó là tập trung vào những vùng KTTĐ, tuy vậy cũng đang có bước dịch chuyển tích cực với các vùng khác, những vùng lân cận, vùng sâu, vùng xa. Nguyên nhân có sự dịch chuyển trên trong thời gian qua: Có thể nói rằng, việc phân chia vốn đầu tư vào các vùng về quy mô và cơ cấu như thế nào là xuất phát từ rất nhiều những nguyên nhân khác nhau: đó là cơ chế và chính sách của Nhà nước, nguồn lực của địa phương, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, truyền thống sản xuất cũng như những thế mạnh riêng khác của vùng… - Đối với các vùng kinh tế trọng điểm: Đây là những vùng, lãnh thổ được xem như là có tính chất động lực của cả nước. Và là những vùng có lợi thế so sánh đặc biệt so với các vùng khác. Trong đó, KTTĐ Bắc Bộ có những lợi thế quan trọng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước, là nơi tập trung nhân lực dồi dào, trình độ dân trí cao; kết cấu hạ tầng khá nhất trong cả nước… hay như vùng KTTĐ miền Nam là vùng kinh tế năng động nhất nước, đi đầu trong cả nước về thu hút vốn đầu tư và phát triển thị trường xuất khẩu. Do đó các vùng này luôn thu hút được lượng lớn FDI đổ vào, số vốn FDI vào đây chiếm tới 84% tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, xu hướng thu hút FDI đang từng bước lan ra các vùng khác ngoài cùng trọng điểm. - Bên cạnh việc tăng cường đầu tư cho các vùng KTTĐ, Nhà nước trong thời gian qua đã có những cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư cho các vùng chậm phát triển, các vùng đặc biệt khó khăn. Nhiều cơ chế, chính sách đối với vùng miền núi nói chung và khu vực khó khăn đã được ban hành có tác động tích cực và đem lại kết quả tương đối tốt. Tại các vùng khó khăn trong những năm gần đây khi có các chương trình 135, chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình cơ sở hạ tầng nông thôn.... đã hình thành được nhiều trung tâm cụm xã, hàng trăm km đường giao thông, nhiều trường học, cơ sở y tế... được xây dựng và được cải thiện đáng kể. - Đối với các vùng lãnh thổ, chúng ta đã thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách đối với các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cơ sở hạ tầng giao thông thuỷ lợi, điện nước, còn yếu kém...nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho việc thu hút các nguồn vốn khác đến đầu tư. - Cơ chế, chính sách cởi mở đối với các cửa khẩu quốc tế đã tạo điều kiện cho một số cửa khẩu trở thành khu kinh tế cửa khẩu có sự phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội ở khu vực biên giới. 2.5   Đánh giá về thực trạng cơ cấu đầu tư của nước ta giai đoạn 2001-2007 2.5.1 Những kết quả đạt được      Có thể thấy rằng, trong thời gian qua, cơ cấu đầu tư thay đổi theo hướng hợp lí hơn, phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội được thể hiện qua một số mặt như sau: 2.5.1.1 Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn ngày càng đa dạng, phong phú hơn Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã áp dụng nhiều chính sách và cơ chế quản lý mới, có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong nước và ngoài nước, nhất là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Do đó, vốn đầu tư phát triển hàng năm không ngừng tăng, các nguồn vốn huy động tham gia đầu tư ngày càng đa dạng. Nếu trước đây, nguồn vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu là của Nhà nước thì bây giờ tất cả các thành phần kinh tế đều tham gia. Kết quả là làm cho bộ mặt đất nước có nhiều thay đổi, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành; các ngành công nghiệp then chốt của đất nước được phát triển; cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải ngày được mở rộng... Hạ tầng xã hội đã được chú trọng đầu tư và được cải thiện đáng kể, tạo ra tiền đề cần thiết và quan trọng trong thời kỳ phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành kinh tế.   * Cơ chế bao cấp từng bước đã được hạn chế, xóa bỏ. Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay, bộ mặt kinh tế đất nước đã có nhiều thay đổi và chuyển biến rõ rệt. Những chuyển biến, thay đổi đó đặc biệt được phát huy tác dụng và thẩy rõ nét nhất trong mấy năm gần đây. Cơ chế bao cấp được xoá bỏ, doanh nghiệp tư nhân được thừa nhận, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được thử nghiệm và đã đang đi vào thực hiện, tạo thêm cơ hội cho kinh tế phát triển. Chúng ta đã chuyển từ hình thức cấp phát vốn sang cho vay tín dụng đầu tư đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn. Nhà nước còn hỗ trợ về lãi suất cho các dự án và các doanh nghiệp tự vay tự trả, tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng vốn đầu tư. Xoá bỏ chính sách phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, chính sách giành đặc quyền đặc lợi cho DNNN, ban hành luật đầu tư chung, luật doanh nghiệp và chính thức có hiệu lực vào năm 2006 đã mang lại những thay đổi cơ bản cho môi trường đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam, thể hiện rõ quyết tâm của chính phủ trong việc chủ động hội nhập quốc tế. * Nguồn vốn trong nước được sử dụng ngày càng nhiều và có hiệu quả, đặc biệt là vốn trong dân. Nhận thấy được những ưu thế rất lớn từ việc huy động vốn của khu vực dân cư và tư nhân so với các nguồn vốn Nhà nước, vốn vay ngân hàng hay vốn đầu tư từ nước ngoài, trong thời gian vừa qua, nguồn vốn tiết kiệm từ trong dân được huy động mạnh mẽ. Nguồn vốn này có tiềm năng rất lớn, bên cạnh đó nguồn vốn này lại không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài nhất là trong điều kiện môi trường bên ngoài đang biến động rất mạnh mẽ, gay gắt. Một ưu thế khác nữa của loại nguồn vốn này là nguồn vốn này có chủ sở hữu thật sự và cụ thể, lãi suất đầu tư thấp, do vậy hiệu quả đầu tư cao hơn, cùng một lượng vốn sẽ tạo ra được tốc độ tăng trưởng cao hơn so với vốn Nhà nước.Trong thời gian vừa qua, khu vực kinh tế dân doanh liên tục phát triển vươn lên nhanh chóng đã tạo thành nền kinh tế với cơ cấu mới về chất. Kinh tế dân doanh trong nước đã đạt tỷ trọng trên 40%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gần 20%; doanh nghiệp nhà nước gần 40%. Sự biến đổi về cơ cấu thành phần kinh tế như vậy, xét về mặt tổ chức quản lý nền kinh tế là thể hiện xu hướng tất yếu tiến bộ: Chuyển mạnh chức năng tích luỹ, đầu tư và điều hành sản xuất kinh doanh từ nhà nước sang khu vực kinh tế dân doanh. Kinh tế dân doanh đã được giải phóng đã chứng tỏ có khả năng làm chức năng đó tốt hơn hẳn nhà nước, trước hết là trong lĩnh vực kinh doanh cạnh tranh. * Huy động mạnh mẽ FDI. 7 năm qua, từ 2001-2007 đất nước chúng ta đã đạt được những thành tựu khả quan trong việc thu hút nguồn vốn FDI để phát triển đất nước. Được thể hiện qua: - Số dự án và lượng vốn FDI đều có xu hướng tăng lên qua các năm. - Cơ cấu FDI đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các dự án vào lĩnh vực dịch vụ, phát triển cơ sở hạ tầng. - Quy mô bình quân của một dự án FDI cũng có xu hướng tăng lên từ 2.08 triệu USD năm 2002 lên 4.6 triệu USD năm 2005, riêng 2 năm 2006, 2007 đạt 14 triệu/dự án/năm. - Các dự án đi vào hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đóng góp tích cực vào sự thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Hiện khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 16% GDP, đóng góp vào ngân sách Nhà nước vượt 1.5 tỷ USD trong năm 2007; đồng thời thu hút 1.2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. - Không chỉ có vậy, đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Về cơ cấu, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 37% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước. Về cơ cấu vùng, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm đã góp phần làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực để lôi kéo sự phát triển chung và các vùng phụ cận. * Vốn ODA được sử dụng mang lại nhiều hiệu quả kinh tế xã hội: phát triển cơ sở hạ tầng, tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo. - Nguồn vốn ODA đã bổ sung một phần quan trọng cho ngân sách nhà nước để đầu tư phát triển, chiếm khoảng từ 22% đến 25% tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả phần vốn ODA cho vay lại từ ngân sách nhà nước). - Những công trình quan trọng được tài trợ bởi ODA đã góp phần cải thiện cơ bản và phát triển một bước cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút  đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. - ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn kết hợp xoá đói giảm nghèo, thông qua nguồn vốn ODA. - Nông dân nghèo tiếp cận nguồn vốn vay để tạo ra các ngành nghề phụ, hỗ trợ phát triển công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển giao thông nông thôn, thuỷ lợi, cung cấp nước sạch, phát triển lưới điện sinh hoạt, trạm y tế, trường học... - ODA đóng góp cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, tác động tích cực đến việc cải thiện chỉ số phát triển con người ở Việt Nam. Tổng nguồn vốn ODA cho giáo dục và đào tạo ước chiếm khoảng 8,5 - 10% tổng kinh phí giáo dục và đào tạo, đã góp phần cải thiện chất lượng và hiệu quả của lĩnh vực này, tăng cường một bước cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học, như các dự án ODA hỗ trợ cải cách giáo dục tiểu học, trung học và đại học, tự án tạo nghề... 2.5.1.2 Cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành đã có sự chuyển dịch ngày càng hợp lí theo hướng giảm dần tỉ trọng vốn đầu tư trong nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển dần tỉ trọng vốn đầu tư trong công nghiệp và dịch vụ, thúc đẩy sự hình thành cơ cấu ngành hợp lí, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời gian qua, cùng với sự dịch chuyển của cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành đã dịch chuyển ngày một hợp lý hơn. Tuy nông nghiệp vẫn tăng nhưng tốc độ chậm hơn so với công nghiệp và dịch vụ, tỷ trọng của khu vực công nghiệp tăng lên rõ rệt, tỷ trọng của khu vực dịch vụ tuy có giảm chút trong những năm 2001-2003, nhưng sau đó ổn định và bắt đầu tăng vào năm 2005. Trong nội bộ các ngành cũng có sự dịch chuyển theo hướng tích cực theo xu hướng dịch chuyển cơ cấu đầu tư. Trong nông nghiệp, chăn nuôi tăng nhanh hơn trồng trọt. Trong công nghiệp, một số ngành có hàm lượng kỹ thuật cao có sự phát triển đáng kể nhờ vốn đầu tư của Nhà nước và khu vực nước ngoài. Trong khu vực dịch vụ, các ngành có chất lượng cao như tin học, viễn thông, tài chính ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn và chuyển giao công nghệ… tuy tăng còn chậm nhưng vẫn đang thể hiện xu hướng tăng lên và đặc biệt mạnh mẽ vào 2 năm gần đây, năm 2006 và 2007. Tất cả những sự chuyển dịch trên, tuy diễn ra chưa thực sự mạnh mẽ, tuy vậy, nó cũng báo hiệu một sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng hợp lý hơn, phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. 2.5.1.3 Cơ cấu đầu tư theo vùng góp phần hình thành những vùng chuyên môn hóa, tập trung, những khu kinh tế trọng điểm, phát huy lợi thế so sánh vùng. Phải nói rằng đầu tư có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế giữa các ngành, vùng, lãnh thổ. Mỗi ngành, mỗi vùng, lãnh thổ do có các điều kiện tự nhiên khác nhau, điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau mà có những lợi thế riêng của nó. Đầu tư với vai trò quan trọng nhằm phát huy thế mạnh, phát huy lợi thế so sánh của từng vùng ngành, lãnh thổ, giúp đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình cảnh đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác phát triển. Phải nói rằng, những vùng KTTĐ của nước ta trong thời gian qua đã thực hiện được vai trò đó của mình. Ba vùng KTTĐ đã có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng chung: Vùng KTTĐ miền Bắc trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn khoảng 1.3 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân chung cả nước. Năm 2005, tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước của vùng KTTĐ phía Bắc là 21%. Vùng KTTĐ miền Trung trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn khoảng 1.2 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân chung cả nước. Năm 2005, tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước của vùng KTTĐ phía Trung là cao nhất nước, chiếm tới 46%. Vùng KTTĐ phía Nam trong những năm qua, luôn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn khoảng 1,4 - 1,6 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân chung cả nước. Năm 2005, tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nướ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24687.doc
Tài liệu liên quan