Đề tài Đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long

 

LỜI MỞ ĐẦU

PHẦN THỨ NHẤT: TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN THĂNG LONG 1

1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần Thăng Long 1

2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty Cổ phần Thăng Long 3

3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý 3

4. Kết quả sản xuất kinh doanh 7

PHẦN THỨ HAI: THỰC TRẠNG ĐA DẠNG HOÁ SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THĂNG LONG 11

1. Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của Công ty ảnh hưởng đến hoạt động đa dạng hoá sản phẩm 11

1.1. Đặc điểm về nguyên vật liệu 11

1.1.1. Các loại quả 11

1.1.2. Các loại nguyên liệu khác 12

1.2.Đặc điểm máy móc thiết bị và công nghệ 13

1.3.Đặc điểm về lao động 16

1.4. Đặc điểm về cơ cấu sản xuất 17

1.5.Đặc điểm về vốn 19

2. Những nhân tố môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động đa dạng hoá sản phẩm của Công ty Cổ phần Thăng Long 20

2.1.Nhu cầu thị trường tiêu dùng Vang 20

2.1.1. Nhu cầu thị trường nước ngoài 20

2.1.2 Nhu cầu thị trường trong nước 21

2.2. Tình hình cạnh tranh 22

2.2.1. Tình hình cạnh tranh trên thị trường quốc tế 22

2.2.2. Tình hình cạnh tranh trên thị trường nội địa 23

3. Thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại Công ty Cổ phần Thăng Long 25

4. Đánh giá thực trạng đa dạng hoá sản phẩm tại Công ty Cổ phần Thăng Long 31

4.1. Thành tựu 31

4.2. Tồn tại 32

4.3. Nguyên nhân của những tồn tại 34

PHẦN THỨ BA: GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HOÁ SẢN PHẨM NƯỚC ÉP TRÁI CÂY TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THĂNG LONG 36

1. Định hướng đa dạng hoá sản phẩm của Công ty Cổ phần Thăng Long 36

2. Căn cứ lựa chọn sản phẩm nước ép trái cây 36

2.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật, thực trạng và định hướng đa dạng hoá của Công ty Cổ phần Thăng Long 36

2.2. Nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ép trái cây 37

2.2.1. Nhu cầu sản phẩm nước ép trái cây 37

2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu sản phẩm nước ép trái cây 39

2.2.3. Tình hình cạnh tranh sản phẩm nước ép trái cây. 41

2.3. Nghiên cứu chính sách nhà nước liên quan đến nước ép trái cây 41

3. Các giải pháp cơ bản nhằm đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long 43

3.1.Giải pháp về sản phẩm 43

3.1.1 Danh mục sản phẩm 43

3.1.2. Mẫu mã sản phẩm nước ép trái cây 45

3.1.3. Chất lượng sản phẩm nước ép trái cây 46

3.2 .Giải pháp về công nghệ. 47

3.3.Giải pháp lựa chọn và ổn định nguồn ngyên liệu 53

3.3.1. Cơ sở lý luận 53

3.3.2.Cơ sở thực tiễn 53

3.3.3.Biện pháp thực hiện 54

3.4 Giải pháp về lao động 56

3.4.1. Cơ sở lý luận 56

3.4.2. Cơ sở thực tiễn 57

3.4.3. Phương thức tiến hành 57

3.5. Một số giải pháp Marketing 58

3.5.1. Chính sách giá 58

3.5.2 Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối và mạng lưới tiêu thụ sản phẩm 63

3.5.3. Chính sách quảng cáo 65

3.6. Giải pháp về vốn 67

3.7. Đánh giá hiệu quả chiến lược đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây 68

4. Một số kiến nghị với nhà nước 72

KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

doc86 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1981 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i địa. Nhãn hiệu về Vang Thăng Long cho đến nay đã chiếm được niềm tin trong lòng người tiêu dùng và đang trở thành một trong những nhãn hiệu có uy tín nhất ở thị trường Việt Nam với thị phần lớn nhất trong thị trường sản phẩm Vang nội địa, chiếm 40%. Thứ ba, Nhờ lựa chọn đa dạng hoá đúng hướng nên trong những năm qua doanh thu của Công ty những năm 2000 đã tăng đáng kể so với những năm thập niên 1990. Doanh thu năm 1990 chỉ có 1,7 tỷ đồng nhưng đến năm 2000 đã tăng lên 62,42 tỷ đồng và năm 2004 doanh thu là 66.290. Thứ tư, Cùng với sự phát triển sản xuất kinh doanh dưới tác động của các hoạt động đa dạng hoá hiệu quả, lượng nộp ngân sách hàng năm của Công ty cũng tăng đáng kể. Những năm thập niên 90, con số nộp ngân sách dừng lại ở các mức khiêm tốn trên dưới 200 triệu đồng, tuy nhiên cho đến những năm gần đây nộp ngân sách nhà nước của Công ty đã tăng đáng kể, khoảng trên 10 tỷ đồng, gấp 50 lần so với những năm thập niên 90. Thứ năm, Thu nhập của người lao động cũng có sự cải thiện rõ rệt trong những năm qua. Trước những năm 2000, thu nhập của mỗi lao động bình quân chỉ khoảng 300 nghìn đồng / tháng, đến nay đã tăng lên bình quân mỗi người có thu nhập khoảng 1 triệu / tháng. Tồn tại Bên cạnh những thành tựu đạt được, hướng đa dạng hoá hiện tại của Công ty Cổ phần Thăng Long vẫn còn một số tồn tại, cụ thể: Thứ nhất, Hoạt động đa dạng hoá của Công ty Cổ phần Thăng Long chỉ đơn giản là cải tiến những sản phẩm Vang truyền thống thành một số loại Vang mới. Do đó, mặc dùng đã có gắng tạo ra nhiều sản phẩm Vang khác nhau, nhưng nhìn chung sự đa dạng của chính sản phẩm Vang vẫn còn thấp, nói cách khác sản phẩm Vang Thăng Long vẫn còn đơn điệu. Thứ hai, Thêm vào đó Công ty Cổ phần Thăng Long chưa chú ý đến đa dạng hoá các dòng nước giải khát khác như nước ép trái cây... Do vậy tính mùa vụ của Công ty Cổ phần Thăng Long còn khá cao. Công suất thực tế sử dụng rất thấp, chỉ khoảng 1/3 công suất thiết kế. Điều này khiến cho hoạt động của Công ty bị ngừng trệ. Do vậy, mặc dù được đánh giá là một doanh nghiệp có uy tín trên thị trường sản phẩm Vang, những trong thực tế Công ty Cổ phần Thăng Long vẫn hoạt động chưa hiệu quả. Điều này có thấy rõ qua bảng tiêu thụ sản phẩm như sau: Bảng 13. Kết quả tiêu thụ sản phẩm theo mùa vụ Quý Năm (ĐVT:Nghìn lít) So sánh 2002/2001 So sánh 2003/2002 So sánh 2004/2003 2001 2002 2003 2004 Chênh lệch Tỷ lệ % Chênh lệch Tỷ lệ % Chênh lệch Tỷ lệ % Quý I 1.762 1.800 2.160 2390 38 2,16 360 20 230 10,65 Quý II 778 790 812 850 12 1,54 22 2,78 38 4,68 Quý III 861 870 920 973 9 1,05 50 5,75 53 5,76 Quý IV 1.415 1.460 1.608 1782 45 3,18 148 10,14 174 10,82 Tổng 4.816 4.920 5.500 5.995 104 2,16 580 11,79 495 9 (Nguồn: Phòng Thị trường - Công ty cổ phần Thăng Long, năm 2004) Bảng trên cho thấy sản lượng tiêu thụ cả năm và theo từng quý đều có xu hướng tăng trong 4 năm từ năm 2001 - 2004. Cụ thể, sản lượng tiêu thụ cả năm của năm 2002 tăng 104 nghìn lít so với năm 2001 tức là tăng 2,16%; năm 2003 so với năm 2002 tăng 580 nghìn lít tức là tăng 11,79%; năm 2004 tăng 495 nghìn lít (ằ 9%) so với năm 2003. Sản lượng tiêu thụ theo từng quý cũng vậy. Xét sản lượng tiêu thụ của quý I qua các năm ta có thể thấy: Sản lượng tiêu thụ của quý I năm 2002 tăng 38 nghìn lít (ằ 2,16%) so với năm 2001; năm 2003 tăng 360 nghìn lít (ằ 20 %) so với năm 2002; năm 2004 tăng 230 nghìn lít (ằ 10,65 %) so với năm 2003. Ba quý sau cũng tương tự như vậy, đều có xu hướng tăng qua các năm. Tuy nhiên, đây chưa phải là điều quan trọng nhất. Tiếp tục xem xét tình hình tiêu thụ của các quý từng năm có thể thấy trong một năm, sản lượng tiêu thụ lớn nhất chủ yếu là trong quý I và quý IV. Còn quý II và quý III thì tiêu thụ được rất ít sản phẩm. Cụ thể hơn nữa, trong 4 năm nghiên cứu từ năm 2001 đến năm 2004, sản lượng tiêu thụ trong quý I là cao nhất, trung bình chiếm tỷ trọng khoảng 38% tổng sản lượng tiêu thụ trong cả năm. Tiếp theo đó là quý IV với sản lượng tiêu thụ trung bình chiếm khoảng 29,2% cả năm. Cuối cùng là hai quý II và III có sản lượng tiêu thụ tương đương nhau và mỗi quý trung bình chiếm khoảng 16.4% cả năm. Như vậy, sản lượng tiêu thụ trung bình trong quý I và quý IV gấp đôi tổng sản lượng tiêu thụ trung bình trong hai quý II và III. Nguyên nhân chính cho tình trạng mất cân đối này xuất phát từ đặc điểm sản phẩm của Công ty. Trong bảng danh mục các sản phẩm của Công ty thì sản phẩm chủ yếu và chiếm vai trò quan trọng là sản phẩm Vang và rượu các loại. Vang rượu đều là những sản phẩm có chứa cồn. Chính vì đặc điểm này nên sản phẩm Vang và rượu chủ yếu chỉ thích hợp với tiêu dùng vào mùa lạnh hay trong các dịp hội hè, lễ tết. Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết tương đối nóng và ẩm. Mùa hè nhiệt độ tương đối cao nên không thích hợp với việc tiêu dùng sản phẩm Vang và rượu. Như vậy, sản phẩm Vang và rượu chủ yếu chỉ tiêu thụ được trong quý I và quý IV là mùa rét và đặc biệt là dịp tết, hội hè do truyền thống biếu tặng, thờ cúng, hội họp của nhân dân ta trong mỗi dịp tết, hội. Sự mất cân đối giữa hai mùa vụ này nếu không có hướng giải quyết sẽ dẫn đến quá trình sản xuất - kinh doanh bị ngừng trệ trong thời điểm không phải là mùa vụ, năng lực sản xuất bị dư thừa, hiệu quả sản xuất - kinh doanh của Công ty không cao. 4.3. Nguyên nhân của những tồn tại Những tồn tại trên là do những nguyên nhân cơ bản như sau: Thứ nhất, Chính sách đa dạng hoá của công ty chưa được tính toán toàn diện, chỉ tập trung vào đa dạng hoá dòng sản phẩm Vang, không chú ý đến việc đa dạng hoá các sản phẩm có tính bổ sung để khắc phục tính mùa vụ hiện nay của Công ty. Thứ hai, Công ty Cổ phần Thăng Long chưa hình thành đội ngũ chuyên môn về hoạt động Marketing. Do vậy, Công ty chậm nắm bắt được sự thay đổi của nhu cầu trên thị trường, thiếu thông tin cần thiết để có thể tiến hành đa dạng hoá đúng hướng, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Thứ ba, Chính sách đa dạng hoá sản phẩm của Công ty Cổ phần Thăng Long thiếu tính đồng bộ, vì vậy thường xuyên thiếu nguyên liệu và vốn để thực hiện đa dạng hoá. Thứ tư, Chưa đầu tư thoả đáng cho đội ngũ chuyên bộ phận R&D. Do đó số lượng sáng kiến về đa dạng hoá cũng như đổi mới công nghệ từ bộ phận này. Thứ năm, Bộ phận quản lý của Công ty chưa nhạy cảm, năng động và chấp nhận mạo hiểm trong việc chuyển hướng kinh doanh thông qua đa dạng hoá hay tạo ra sản phẩm mới. Phần Thứ ba giải pháp đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long Định hướng đa dạng hoá sản phẩm của Công ty Cổ phần Thăng Long Sau khi phân tích những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và thực trạng hoạt động đa dạng hoá tại Công ty Cổ phần Thăng Long, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển sản xuất kinh doanh Công ty Cổ phần Thăng Long nên thực hiện hoạt động đa dạng hoá theo những hướng cơ bản sau: - Phát triển đa dạng hoá theo hướng thoát ly dòng sản phẩm hiện có, tạo ra các sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường về nước giải khát, đặc biệt ưu tiên cho những sản phẩm đang có nhu cầu phát triển cao. - Những sản phẩm mới phải khắc phục được tính mùa vụ hiện có để có thể tối đa hoá công suất sản xuất của Công ty. - Phát triển những sản phẩm có thể tận dụng được dây chuyền sản xuất và cơ sở vật chất hiện có của Công ty để tối thiểu hoá được chi phí đầu tư. - ưu tiên phát triển những sản phẩm có thể sử dụng những nguồn nguyên liệu sẵn có của Công ty, hạn chế việc đầu tư phát triển các nguồn nguyên liệu mới. Căn cứ lựa chọn sản phẩm nước ép trái cây 2.1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật, thực trạng và định hướng đa dạng hoá của Công ty Cổ phần Thăng Long Dựa vào kết quả nghiên cứu các đặc điểm kinh tế - kỹ thuật, thực trạng hoạt động đa dạng hoá của Công ty Cổ phần Thăng Long và những định hướng được đề xuất trên, nước ép trái cây là sản phẩm thích hợp nhất bởi các lý do cơ bản sau: - Nước ép trái cây có thể bù đắp tính mùa vụ của Vang. Vang thường chỉ được tiêu thụ vào những thời điểm mùa đông, mùa thu hoặc dịp tết. Trong khi đó, nước ép trái cây có thể tiêu thụ tốt vào mùa hè và mùa xuân. - Theo một số nghiên cứu thấy rằng nhu cầu tiêu dùng nước ép trái cây đang phát triển khá mạnh mẽ ở Việt nam. Bình quân mỗi người chi tiêu khoảng 10-15% thu nhập của họ cho loại sản phẩm này, vào thời điểm mùa hè mức tiêu dùng này có thể tăng cao hơn. - Công nghệ sản xuất nước ép trái cây tương tự với công nghệ sản xuất Vang. Như vậy, nếu sản xuất nước ép trái cây Công ty Cổ phần Thăng Long sẽ tận dụng được nhiều máy móc thiết bị hiện có, không phải đầu tư toàn bộ dây chuyền mới mà chỉ cần đầu tư bổ sung nhỏ, do đó có thể tiết kiệm được chi phí đầu tư. Kết quả của việc đầu tư này sẽ đem lại lợi nhuận cao cho Công ty. - Ngoài mặt công nghệ, nguyên liệu dùng để sản xuất Vang và nước ép trái cây cũng khá giống nhau như: nho, vải, dứa, ổi... Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc phát triển vùng nguyên liệu và thu mua nguyên liệu. - Chính phủ đã và đang ban hành nhiều chính sách ưu đãi để phát triển ngành nước giải khát nói chung và nước ép trái cây nói riêng. Chính vì thế Công ty càng nên tận dụng cơ hội thuận lợi này. Những căn cứ này sẽ được làm rõ hơn trong các giải pháp cơ bản thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây được đề xuất đối với Công ty Cổ phần Thăng Long ở phần dưới đây. 2.2. Nghiên cứu thị trường tiêu thụ sản phẩm nước ép trái cây 2.2.1. Nhu cầu sản phẩm nước ép trái cây Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nước ép trái cây ngày càng tăng ở thị trường Việt nam. Theo một cuộc điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên do chính tác giả thực hiện đối với gần 300 người dân sống ở Hà Nội thấy răng tỷ lệ có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nước ép trái cây khá cao, khoảng 80%. Nếu tỷ lệ này là mẫu lý tưởng thì tương ứng với khoảng 64 triệu dân cư cả nước Việt Nam đang sử dụng sản phẩm nước ép trái cây (Dân số Việt Nam hiện nay ước tính khoảng 80 triệu dân). Thêm vào đó, nếu sản xuất ra sản phẩm thích hợp sẽ tăng số lượng người sử dụng lên 50% trong số những người đang chưa sử dụng loại sản phẩm này. Không những thế, tỷ lệ chi tiêu cho đồ uống nói chung và nước ép trái cây có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng chi tiêu. Cụ thể như các bảng như sau: Bảng 14. Tỷ trọng chi tiêu đồ uống và các khoản khác TT Loại chi tiêu 2001 2002 2003 2004 1 Chi cho khoản ăn 40,2% 39,4% 37,6% 35,9% 2 Chi cho đồ uống 18,4% 21,5% 24,4% 26,7% 3 Các khoản khác 41,4% 39,1% 38,0% 37,4% 4 Tổng chi tiêu 100% 100% 100% 100% (Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004) Bảng 15. Tỷ trọng chi tiêu cho sản phẩm nước ép trái cây và các loại đồ uống khác TT Loại chi tiêu 2001 2002 2003 2004 1 Nước ép trái cây 18,5% 19,8% 21,2% 24,9% 2 Nước hoa quả đã chế biến 12,0% 15,5% 16,7% 18,3% 3 Đồ uống khác 69,5% 74,7% 62,1% 56,8% 4 Tổng chi tiêu 100% 1005 100% 100% (Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004) Qua đó, có thể thấy lượng cầu tiêu dùng đối với sản phẩm nước ép trái cây ở thị trường Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung là rất lớn và có tiềm năng, nhất là ở thị trường Miền Nam, nơi mà không khí nóng quanh năm. Mức chi tiêu bình quân cho nước ép trái cây cho mỗi người có tiêu dùng loại sản phẩm này chiếm khoảng 21% trong tổng chi tiêu đồ uống, trong khi đó tổng chi tiêu cho đồ uống chiếm 23% trong tổng chi tiêu nói chung và mức chi tiêu cho loại nước ép trái cây cũng như cho đồ uống tăng lên trong những năm qua. Năm 2001, nước ép trái cây chiếm 18,5% trong tổng chi tiêu đồ uống và đồ uống chiếm 18,4% trong tổng chi tiêu chung; nhưng con số này tăng lên tương ứng là 24,9% và 26,7% trong năm 2004. Nguyên nhân cơ bản khiến cho cầu đối với sản phẩm nước ép trái cây tăng trong những năm qua là do: (1) Kinh tế của Việt Nam phát triển nhanh trong những năm qua, thu nhập dân cư tăng cao, mức sống được cải thiện đáng kể, do đó chi tiêu cho đồ uống cũng tăng nhanh; (2) Sản phẩm nước ép trái cây ngày càng đa dạng và phong phú về mẫu mã và tiện lợi cho việc tiêu dung, đặc biệt là những sản phẩm nhập ngoại, mà xu hướng tiêu dung hiện nay là đang đi vào những sản phẩm có tính tiện lợi. 2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu sản phẩm nước ép trái cây Kết quả điều tra cũng cho thấy rằng: giá cả, sự tiện lợi trong sử dụng và hương vị tự nhiên là những yếu tố quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng trước khi quyết định mua sản phẩm; tiếp theo là những yếu tố như mức độ phân phối rộng rãi và sự hợp khẩu vị; cuối cùng là những yếu tố như tính độc đáo, mới lạ, đa dạng và bao gói của sản phẩm. Tuy nhiên, vị trí quan trọng của những yếu tố này ảnh hưởng đến quyết định mua không giống nhau giữa các nhóm tiêu dùng có mức thu nhập khác nhau. Cụ thể đối với nhóm có thu nhập từ năm triệu đồng trở lên có thứ tự quan trọng của các yếu tố như bảng sau: Bảng 16. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua của người tiêu dùng (nhóm thu nhập trên 5 triệu đồng) Thứ tự Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua Điểm số 1 Hương vị tự nhiên 6.5 2 Tiện lợi trong sử dụng 6.3 3 Giá cả hợp lý 6.0 4 Sản phẩm được bán rộng rãi 5.3 5 Vị ngọt/mặn/chua hợp khẩu vị 5.2 6 Sản phẩm độc đáo, mới lạ 4.4 7 Chủng loại đa dạng 4.2 8 Kích cỡ bao gói đa dạng 4.1 (Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004) Đối với nhóm tiêu dùng này, thứ tự của 3 nhóm yếu tố ảnh hưởng đến quyêt định mua không có sự thay đổi, tuy nhiên vị trí của 3 yếu tố đầu thể hiện rằng: đặc điểm cơ bản của nhóm này là thu nhập tương đối cao nên giá không phải là yếu tố quan trọng hàng đầu, thay vào đó yếu tố hương vị tự nhiên và tính tiện trong sử dụng mới là những là yếu tố ảnh hưởng lớn đến quyết định mua sản phẩm của họ. Ngược lại, đối với nhóm có thu nhập dưới 2 triệu đồng, vị trí quan trọng của các nhóm trên không thay đổi nhưng vị trí của từng yếu tố trong từng nhóm có sự thay đổi khác so với nhóm có thu nhập trên 5 triệu đồng, đặc biệt là vị trí của 3 yếu tố trong nhóm quan trọng đầu tiên, cụ thể giá là yếu tố quan trọng hàng đầu của họ, sau đó mới đến các yếu tố là hương vị tự nhiên và tính tiện lợi trong sử dụng. Nhóm này được xem là nhóm có thu nhập trung bình và thấp, nên giá luôn là yếu tố quan tâm hàng đầu đối với họ, sau đó mới tính đến các yếu tố quan trọng khác. Một số vị trí quan trọng của các yếu tố cũng có sự thay đổi trong các nhóm yếu tố khác. Điều này có thể thấy rõ trong bảng sau: Bảng 17. Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua của người tiêu dùng (nhóm thu nhập dưới 2 triệu đồng) Thứ tự Các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định mua Điểm số 1 Giá cả hợp lý 6.6 2 Hương vị tự nhiên 6.2 3 Tiện lợi trong sử dụng 6.1 4 Vị ngọt/mặn/chua hợp khẩu vị 5.4 5 Sản phẩm được bán rộng rãi 5.0 6 Chủng loại đa dạng 4.3 7 Sản phẩm độc đáo, mới lạ 4.1 8 Kích cỡ bao gói đa dạng 4.0 (Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004) 2.2.3. Tình hình cạnh tranh sản phẩm nước ép trái cây. Mặc dù dung lượng thị trướng đối với sản phẩm nước ép trái cây là khá lớn nhưng khả năng sản xuất và cung ứng loại sản phẩm này trên thị trường Việt Nam vẫn chưa đáp ứng thoả đáng nhu cầu của người tiêu dùng. Cũng theo kết quả nghiên cứu này, tổng cung của loại sản phẩm này chỉ mới đáp ứng khoảng 40% tổng cầu của ngưòi tiêu dùng. Trong đó, hầu hết là các sản phẩm là nhập khẩu từ nước ngoài, chiếm 65% thị phần, điển hình là các sản phẩm như: Casino (Pháp), Wesergold (Đức), Donsimon (Tây Ban Nha), Just Juice (Australia), Krings (Đức), Queens (Bungaria), Berri (Australia) Đặc điểm chung của những loại sản phẩm này là chất lượng và giá thành sản phẩm cao, trung bình từ 25 - 50 nghìn đồng/lít. Bên cạnh những sản phẩm nhập ngoại, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang tham gia sản xuất sản phẩm nước ép trái cây, chiếm khoảng 35% thị phần, cụ thể là các doanh nghiệp như: Tổng công ty rau quả, nông sản, Nhà máy đồ hộp rau quả Mỹ Luông Chợ Mới tỉnh An Giang của Antesco, Nhà máy đông lạnh rau quả Duy Hải tại Đồng Nai của Vegetexco - HCM, Xưởng chế biến trái cây ở Vĩnh Long, Cần Thơ, Công ty Cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk), Công ty Mr Drink - khu công nghiệp Phú Diễn, Từ Liêm, Hà nội. Hầu hết các doanh nghiệp trong nước trong lĩnh vực này đều theo chiến lược sản xuất ra sản phẩm có chất lượng và giá cả phù hợp với mức thu nhập trung bình của người Việt Nam, từ 10-20 nghìn đồng/ lít. Điều này càng khẳng định thêm rằng: thị trường sản phẩm nước ép trái cây ở Việt Nam là khá tiềm năng. Nếu Công ty có những chính sách sản phẩm phù hợp thì sẽ thâm nhập và phát triển được ở thị trường này, nhất là đối với phần thị trường của những người có thu nhập trung bình và cao. 2.3. Nghiên cứu chính sách nhà nước liên quan đến nước ép trái cây Hiện nay, Nhà nước đang có các chính sách khuyến khích thúc đẩy phát triển rau, quả như: miễn giảm thuế nông nghiệp, thuế sử dụng đất, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế GTGT và các chế độ hỗ trợ tín dụng theo lãi suất ưu đãi, ưu đãi đặc biệt; khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển giống và chế biến rau quả. Để đảm bảo vị thế trên thị trường nội địa và chỗ đứng trên thị trường thế giới trên cơ sở khai thác tiềm năng sản xuất rau quả trong nước, ngày 03/9/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 182/199/QĐ-TTg phê duyệt đề án phát triển rau, quả và hoa, cây cảnh thời kỳ 1999 - 2010. Quyết định này hướng đến mục tiêu tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu trong nước về rau quả, trong đó đẩy mạnh sản xuất, chế biến nước quả với giá rẻ để từng bước thay thế đồ uống có cồn và đến 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu rau quả 1 tỷ USD. Theo chính sách này, các doanh nghiệp sản xuất, chế biến rau quả nói chung sẽ được tạo điều kiện về công nghệ trồng và chế biến, xúc tiến thương mại và thuế ưu đãi. Trong 10 năm trở lại đây, đặc biệt là từ năm 2000 đến nay, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành Nông nghiệp nói chung và rau quả nói riêng, gồm các chính sách thuế, tài chính, tín dụng. - Về chính sách thuế: đối với thuế thu nhập doanh nghiệp được thực hiện theo thông tư số 18/2002/thị trường-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định số 30/1998/NĐ-CP và Nghị định số 26/2001/NĐ-CP của Chính phủ về luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Nội dung quy định được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp với các xí nghiệp được ưu đãi đầu tư thuộc ngành rau quả. - Về chính sách tín dụng và tài chính khác được thực hiện theo các văn bản: Nghị định số 43/1999NĐ-CP ngày 26/6/1999; quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002. Chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại thực hiện theo thông tư số 61 ngày 01/01/2001, thưởng kim ngạch xuất khẩu theo quyết định số 65 ngày 29/6/2001, quyết định số 63/QĐ-BTC ngày 21/5/2002, quyết định số 1116/2003/QĐ-BTM ngày 09/9/2003. Bên cạnh đó, Bộ Thương mại có quyết định 0271/2003 về việc dành khoản hỗ trợ tín dụng xuất khẩu cho 18 mặt hàng chủ yếu có sức cạnh tranh nhằm tăng cường hỗ trợ đầu vào và giảm chi phí sản xuất. Một trong những mặt hàng được hỗ trợ tín dụng có mặt hàng rau quả bao gồm cả đóng hộp, tươi, sơ chế và nước quả. Đây cũng là một cơ hội để phát triển ngành rau quả Việt Nam nói chung, ngành sản xuất nước ép trái cây nói riêng. Trong đề án công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn giai đoạn 2000-2020 do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn khởi thảo, có 12 lĩnh vực được ưu tiên phát triển trong đó bao gồm cả lĩnh vực rau quả. Đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến công suất 10.000 - 50.000 tấn/năm đối với các vùng sản xuất lớn; phát triển các nhà máy công suất 1000 -2000 tấn / năm với thiết bị chủ yếu do trong nước chế tạo, đa dạng hoá các sản phẩm chế biến như: nước ép trái cây, nước quả cô đặc, quả ngâm đường, sấy khô... nhằm tăng tỷ lệ chế biến rau quả từ 10% hiện nay lên 20% vào năm 2020. Đó là những thuận lợi về mặt chính sách Nhà nước đối với ngành chế biến rau quả nói chung và ngành sản xuất nước ép trái cây nói riêng. Các giải pháp cơ bản nhằm đa dạng hoá sản phẩm nước ép trái cây tại Công ty Cổ phần Thăng Long Giải pháp về sản phẩm Chính sách sản phẩm là một trong những chính sách quan trọng đối với hiệu quả sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Xác định đúng sản phẩm mà thị trường yêu cầu là quyết định sống còn, có thể đưa doanh nghiệp phát triển nhưng cũng có thể dẫn doanh nghiệp đến con đường phá sản. Không những thế, cần kịp thời xác định được những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật sao cho luôn có thể thoả mãn được nhu cầu của khách hàng nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Để có được chính sách sản phẩm thích hợp với sản phẩm nước ép trái cây, Công ty Cổ phần Thăng Long nên xác định rõ các vấn đề như sau: 3.1.1 Danh mục sản phẩm Qua nghiên cứu thị trường sản phẩm nước ép trái cây cho thấy công ty nên phân đoạn thị trường dựa vào các chỉ tiêu cơ bản như: thu nhập của nhóm tiêu dùng và vùng địa lý dân cư sinh sống. Nếu dựa vào thu nhập, có thể phân người tiêu dùng thành hai nhóm, nhóm có thu nhập cao (khoảng từ 5 triệu trở lên) và nhóm có thu nhập thấp (có thu nhập từ 2 triệu trở xuống). Đối với nhóm có thu nhập từ 2-5 triệu, vì không có quan niệm tiêu dùng rõ rệt nên tự họ sẽ quyết định họ thuộc nhóm nào trong hai nhóm đặc trưng trên. Khách hàng mục tiêu của công ty là cả hai nhóm cơ bản trên. Ngoài ra, nếu dựa vào địa lý sinh sống, chính sách sản phẩm đối với các vùng địa lý cũng khác nhau, nhu cầu tiêu dùng ở các vùng nông thôn cũng sẽ thấp hơn so với các vùng đô thị, thành phố. Khách hàng mục tiêu của công ty tập trung vào khách hàng sinh sống tại các vùng đô thị, thành phố lớn. Nếu dựa vào sự phân đoạn thị trường tiêu dùng mục tiêu như vậy, Công ty nên sản xuất hai dòng sản phẩm khác nhau. Trong đó, dòng sản phẩm thứ nhất (Dòng sản phẩm A) gồm các sản phẩm có chất lượng cao và giá thành cao; dòng sản phẩm thứ hai (dòng sản phẩm B) có chất lượng trung bình và giá thành trung bình. Chất lượng và giá của nước ép trái cây phụ thuộc vào hai yếu tố cơ bản: (1) loại nguyên liệu dùng để chế biến ra nước ép đó; (2) nồng độ dịch quả, nghĩa là tỷ lệ dịch quả và các loại nguyên liệu khác trong nước, nếu nồng độ dịch quả càng cao và tỷ lệ các loại hoá chất khác thấp thì chất lượng loại nước đó càng cao; ngược lại, nếu nồng độ dịch quả càng thấp, tỷ lệ hoá chất nhiều sẽ làm chất lượng nước ép đó giảm. Từ kết quả nghiên cứu thị trường cho thấy, đối với khách hàng có thu nhập cao, yếu tố hương vị tự nhiên có vị trí quan trọng hàng đầu, điều này cũng đồng nghĩa với việc tăng nồng độ lượng dịch quả, giảm hoá chất và mức độ chế biến. Những loại sản phẩm này bao gồm: nước ép cam, dâu tây, nước hoa quả ép tổng hợp ... Đối với dòng sản phẩm A chủ yếu là phục vụ cho khách hàng ở các vùng thành phố lớn. Ngược lại, đối với nhóm tiêu dùng có thu nhập dưới 2 triệu thì nên sản xuất các sản phẩm (Dòng sản phẩm B) có nồng độ dịch quả thấp, hay nồng độ pha chế từ các loại hoá chất khác cao và chế biến từ những nguyên liệu có giá rẻ như: dưa hấu, ổi, bí đao, mẳng cầu, xoài,... Dòng sản phẩm B phục vụ cho những người tiêu dùng có thu nhập thấp ở thành phố lớn hoặc người tiêu dùng ở các tỉnh. Danh mục các sản phẩm này được cụ thể như bảng sau: Bảng 18. Các sản phẩm nước ép trái cây được sản xuất để đa dạng hoá STT Tên sản phẩm Nguyên liệu Đối tượng khách hàng 1. Dòng sản phẩm A (Nước cam ép chứa nhiều xơ, dâu tây ép, nước táo ép, nước mãng cầu ép, nước ép tổng hợp...) Cam, dâu tây, táo.mãng cầu và các loại nguyên liệu khác Khách hàng có thu nhập từ 5 triệu trở lên và một số khách hàng có thu nhập từ 2-5 triệu. 2. Dòng sản phẩm B (Nước dưa hấu, bí đao, ổi, xoài, chanh, táo, nước cam thường, chanh leo, cà rốt, cà chua, rau má...) Dưa hấu, bí đao, ổi, xoài, chanh, táo, chanh leo, cà rốt, cà chua, rau má... Khách hàng có thu nhập từ 2 triệu trở xuống và một số khách hàng có thu nhập từ 2-5 triệu. (Nguồn: Kết quả điều tra thị trường, 2004) 3.1.2. Mẫu mã sản phẩm nước ép trái cây a, Về bao gói sản phẩm Trên thị trường hiện tại xuất hiện các loại bao gói sản phẩm là chai thuỷ tinh, chai nhựa, bao bì giấy phức hợp... Trong đó, bao gói bằng giấy phức hợp được xem là tiết kiệm và được khách hàng ưa chuộng nhất bởi tính tiện lợi của nó. Công ty Cổ phần Thăng Long nên lựa chọn loại bao gói này làm loại bao gói chủ yếu cho sản phẩm nước ép trái cây của mình. b, Về kích cỡ sản phẩm Từ kết quả nghiên cứu thị trường về nước ép trái cây, yếu tố kích cỡ bao gói đa dạng chỉ được xếp ở vị trí gần cuối cùng trong số các yếu tố người tiêu dùng quan tâm khi quyết định mua sản phẩm nước ép trái cây. Do vậy, Công ty không cần thiết phải tạo ra nhiều kích thước bao bì sản phẩm khác nhau mà chỉ nên tập trung vào các loại cơ bản như sau: - Bao bì giấy phức hợp với kích thước 12,5 x 4,5 x 3 (tương đương với kích thước của hộp sữa bao bì giấy phức hợp loại nhỏ), dung tích khoảng 200 ml. ưu điểm của loại kích thước này là gọn nhẹ, thuận tiện cho quá trình sử dụng trong quá trình đi lại, như đi giã ngoại, picnic hay đang đi trên đường - Bao bì giấy phức hợp, kích thước 23 x 11 x 5,5 (loại to, có nắp), dung tích thường là 1 lít. Với kích thước này, chủ yếu phục vụ cho tiêu dùng trực tiếp tại nhà hoặc tại các điểm cố định. c. Về kiểu dáng sản phẩm Ba loại bao gói sản phẩm trên sẽ có kiểu dáng sản phẩm khác nhau: - Loại thứ nhất và loại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0518.doc
Tài liệu liên quan