Đề tài Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000- 2005

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 2

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 2

1. Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ 2

1.1. Khái niệm công nghệ 2

1.2. Khái niệm đổi mới công nghệ 2

2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đổi mới công nghệ 3

2.1. Chỉ tiêu định lượng 3

2.1.1. Tỷ trọng máy móc thiết bị được hiện đại hóa : 3

2.1.2. Chỉ tiêu đánh giá mức tiết kiệm nguyên vật liệu khi đổi mới công nghệ : 4

2.1.3. Chỉ tiêu gia tăng năng suất lao động : 4

2.1.4. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đổi mới công nghệ tác động đến mức tăng lợi nhuận: 4

2.2. Chỉ tiêu định tính: 5

II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM 5

1. Đặc trưng công nghệ ngành Dệt may Việt Nam 5

1.1. Tính đồng bộ về trình độ công nghệ trong ngành Dệt may còn thấp 5

1.2. Trình độ công nghệ lạc hậu 6

2. Sự cần thiết phải đầu tư đổi mới công nghệ 6

2.1. Đổi mới công nghệ nhằm phát huy vai trò của ngành dệt may Việt Nam với sự phát triển kinh tế xã hội 6

2.1.1. Góp phần tăng tích luỹ vốn cho quá trình CNH-HĐH đất nước 6

2.1.2. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế 7

2.1.3. Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước 7

2.2. Đáp ứng nhu cầu công nghệ của ngành 7

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 9

I. KHỐI LƯỢNG VỐN ĐẦU TƯ VÀ NGUÒN VỐN ĐẦU TƯ CHO ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 9

1. Khối lượng vốn đầu tư 9

2. Nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ 10

2.1. Nguồn vốn trong nước 10

2.1.1. Nguồn vốn ngân sách nhà nước 10

2.1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước 11

2.1.3. Nguồn vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp 12

2.2. Nguồn vốn nước ngoài 12

II. PHƯƠNG THỨC ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 14

III. NỘI DUNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 16

1. Thiết bị kéo sợi 17

2. Thiết bị, công nghệ dệt thoi 18

3. Thiết bị, công nghệ dệt kim 18

4. Thiết bị, công nghệ ở khâu in nhuộm, hoàn tất 18

5. Đầu tư cho thiết bị, công nghệ ngành may 19

6. Đầu tư nguồn nhân lực ngành dệt may 20

IV. HẠN CHẾ TRONG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 23

1. Hạn chế 23

1.1. Lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp còn thấp 23

1.2. Đầu tư đổi mới công nghệ vẫn thiếu đồng bộ 23

1.3. Hiệu quả của vốn đầu tư đổi mới công nghệ còn thấp 24

2. Nguyên nhân 24

2.1. Khó khăn về vốn đầu tư 24

2.2. Sự liên kết giữa ngành dệt và may chưa hiệu quả 24

2.3. Chưa có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực công nghệ đúng đắn 25

2.4. Ngành công nghiệp phụ trợ còn yếu 25

I. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 26

1. Định hướng 26

2. Mục tiêu 26

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 28

1. Giải pháp huy động vốn đầu tư 28

2. Giải pháp lựa chọn phương thức đầu tư 29

3. Giải pháp đổi mới công nghệ 29

3.1. Về công nghệ 29

3.1.1. Công nghệ nhập từ nước ngoài 29

3.1.2. Công nghệ trong nước 31

3.2. Về đào tạo nguồn nhân lực 32

KẾT LUẬN 37

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 38

 

 

docx44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2450 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000- 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển vọng hơn là nguồn vốn từ nước ngoài. 2.2. Nguồn vốn nước ngoài Đây là nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các nước đang phát triển. Một mặt nó giải quyết tình trạng thiếu vốn cản trở quá trình đổi mới công nghệ, mặt khác nước nhận đầu tư sẽ thu được lợi ích từ việc chuyển giao công nghệ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm mục đích nhằm mục đích lợi nhuận với ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu chúng ta kêu gọi và khuyến khích đầu tư FDI đúng hướng phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội nước ta, phát huy được lợi thế so sánh của nước ta và tạo điều kiện giúp chúng ta có thể tiếp thu những công nghệ kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của thế giới. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản viện trợ hoàn lại hoặc vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vay lớn của các chính phủ, tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. ODA cho ngành dệt may thời gian qua chủ yếu là dành cho xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng cho ngành và hỗ trợ công tác xuất khẩu. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại là nguồn vốn các doanh nghiệp vay từ các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài lãi suất cao, thời hạn trả nợ nhanh đáp ứng mục tiêu đầu tư ngắn hạn như: hỗ trợ nhập khẩu hàng hoá, nguyên liệu nước ngoài, thâm nhập thị trường, nhập khẩu máy móc thiết bị… Giai đoạn 1991-1996, đầu tư nước ngoài đạt 985,76 triệu USD; trong đó hình thức liên doanh liên kết có tổng vốn đầu tư là 126,77 triệu USD chiếm 87,14%. Đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may có 88 dự án với tổng vốn đầu tư là 189,46 triệu USD; hình thức liên doanh liên kết chiếm 35,13%, loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm 64,87%. Trong năm 2006 hứa hẹn sẽ có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam. Điển hình là hội nghị tài trợ và đầu tư cho ngành dệt may lần đầu tiên tổ chức vào 2/6/2006 tại thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia của 30 ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, 150 doanh nghiệp Dệt may Việt Nam và các nhà cung cấp thiết bị nước ngoài với mục đích chính là xúc tiến đầu tư vào Dệt may Việt Nam. Theo hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), Tập đoàn Pamatex Berhad (Malaixia) với vốn đầu tư hơn 100 triệu USD đã được cấp phép đầu tư vào khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam), Công ty Daewon (Hàn Quốc) quyết định đầu tư xây dựng 1 nhà máy may xuất khẩu trị giá 8 triệu USD tại khu công nghiệp Hòa Khánh (Đà Nẵng) sau khi đã đầu tư 1 nhà máy may tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc ( thành phố Hồ Chí Minh) và một nhà máy dệt tại khu công nghiệp Nhơn Trạch I (Đồng Nai). Qua các sự kiện trên cho thấy triển vọng huy động vốn cho ngành từ đầu tư nước ngoài là rất lớn. Hiện nay, trong tất cả các nguồn vốn trong và ngoài nước thì vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất, vốn tín dụng thương mại chiếm 30%, ODA là 20%, vốn tự có và ngân sách là thấp nhất. II. PHƯƠNG THỨC ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ Đa số các doanh nghiệp sử dụng kết hợp nhiều phương thức, rất ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ. Trong đó, tự tổ chức nghiên cứu được tiến hành song song với việc mua công nghệ mới nhằm mục đích tăng hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ. Bảng 5: Phương thức đầu tư đổi mới công nghệ của 64 doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Phương thức đầu tư Tỷ lệ (%) Tự tổ chức nghiên cứu và thiết kế trong nội bộ doanh nghiệp 32 Hợp tác với cơ quan khoa học nước ngoài 26 Hợp tác với cơ quan khoa học trong nước 5 Bắt chước thiết kế lại theo mẫu 54 Mua công nghệ từ trong nước 20 Mua công nghệ từ nước ngoài 54 Liên doanh liên kết với doanh nghiệp trong nước 20 Liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài 23 Thuê tư vấn trong nước 18 Thuê tư vấn nước ngoài 3 Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam. Từ kết quả nghiên cứu trên thấy rằng đa số các doanh nghiệp lựa chọn hình thức khép kín, ít có sự giao lưu hợp tác với nước ngoài. Phương thức được áp dụng nhiều nhất là mua công nghệ từ nước ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu đều được 54% doanh nghiệp áp dụng. Hai phương thức này có chung một ưu điểm là đều tiết kiệm được thời gian và chi phí nghiên cứu. Đặc biệt với phương thức mua công nghệ từ nước ngoài thì có thêm một số ưu điểm như: Tạo được sự tiến bộ đáng kể về thương mại và kỹ thuật thông qua việc mua công nghệ từ nước ngoài: Khi mua công nghệ thì các doanh nghiệp sẽ có cơ hội nhận được sự cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức của mình trong vận hành và sử dụng công nghệ, từ đó tăng khả năng sản xuất của máy móc thiết bị và áp dụng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm một cách thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho các doanh nghiệp của chúng ta. Được tiếp xúc, trao đổi thông tin và kinh nghiệm với bên cung cấp công nghệ nhằm phục vụ cho lợi ích của mình: Ngoài khả năng có những tiến bộ trực tiếp về thương mại và công nghệ, sự hợp tác này còn đem lại cho các doanh nghiệp dệt may sự tiếp xúc và đối thoại thường xuyên với nhà cung cấp nước ngoài. Các doanh nghiệp sẽ có địa chỉ của nhà cung cấp để giải đáp những thắc mắc của mình và có nguồn thông tin để giải quyết những vấn đề khác, được phổ biến tình hình thực tế về những cải tiến và sáng kiến, các thị trường và xu hướng phát triển. Các doanh nghiệp nên tận dụng những thông tin có giá trị đó. Ngoài ra bên nhận công nghệ còn có thể sử dụng kinh nghiệm của bên cung cấp để sử dụng công nghệ có hiệu quả. Có thể có được những điều khoản hợp đồng có lợi: Việc đàm phán hợp đồng tiếp nhận công nghệ có thể tạo ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên,việc mua công nghệ từ nước ngoài cũng có nhiều hạn chế, có thể gây cho các doanh nghiệp dệt may nhiều rủi ro Thứ nhất, bên nhận công nghệ sẽ trở nên thụ động, bị lệ thuộc vào cơ quan nước ngoài đến khi nào nắm vững đầy đủ và thích ứng tới mức cần thiết công nghệ với điều kiện của mình. Mua công nghệ đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không tự nghiên cứu trong nội bộ và như vậy thì doanh nghiệp sẽ đánh mất sự chủ động sáng tạo, công tác tổ chức nghiên cứu sẽ không thể phát triển được. Thậm chí còn xảy ra tình trạng doanh nghiệp phải thay đổi điều kiện của mình để có thể tiếp nhận công nghệ. Thứ hai, có thể có rủi ro, thất bại về kỹ thuật khi được chuyển giao: Với trường hợp mua công nghệ đã qua sử dụng thì rủi ro mua phải công nghệ đã quá lạc hậu là rất lớn. Còn đối với công nghệ mới thì mặc dù đã được xem xét cẩn thận vẫn còn có những rủi ro do những thiếu sót trong công nghệ. Các doanh nghiệp phải hết sức thận trọng khi đánh giá năng lực sở tại hiện có và khả năng của mình để tiếp nhận và làm chủ công nghệ được chuyển giao. Chỉ có sự đánh giá đầy đủ ưu, nhược điểm của công nghệ và bên cung cấp kỹ thuật mới có thể giúp đỡ để hạn chế thấp nhất rủi ro. Thứ ba là rủi ro xuất phát từ bản thân bên cung cấp công nghệ về kiến thức, kinh nghiệm Thứ tư là rủi ro do các điều khoản bất lợi trong hợp đồng: Trước khi đi đến kết luận cuối cùng, bên nhận phải nhận định xem các điều khoản đàm phán có lợi cho mình không. Việc giữ bí mật về các vấn đề đã thảo luận này thường cản trở các nhà kinh doanh nhận công nghệ tham khảo ý kiến của luật sư, cố vấn. III. NỘI DUNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ Nói đến đầu tư đổi mới công nghệ luôn bao gồm cả phần cứng và phần mềm. Phần cứng là các máy móc thiết bị ngành dệt may còn phần mềm là nguồn nhân lực để vận hành máy móc đó. Các doanh nghiệp nên chú trọng cả hai vấn đề này thì việc đầu tư đổi mới công nghệ mới có kết quả. Trước hết chúng ta xem xét về phần cứng. Trong 5 năm 2000-2005, số lượng máy móc thiết bị của toàn ngành và Vinatex có sự thay đổi đáng kể được trình bày ở bảng sau. Bảng 6: Nội dung đầu tư đổi mới công nghệ ngành dệt may và Vinatex Danh mục Đơn vị Năm 2000 Năm 2005 Toàn ngành Vinatex Toàn ngành Vinatex Năng lực sản xuất -Bông -Sợi -Vải -Khăn -Sản phẩm may tấn tấn triệu m tấn triệu sp 8.000 85.000 304 25.000 400 6.400 75.000 139 5.200 110 16.750 260.000 800 32.000 1.200 16.000 118.700 205.000 8.500 360 Trang thiết bị -Kéo sợi nồi cọc -Kéo sợi OE -Dệt vải -Dệt kim -May cọc sợi rôto máy dệt máy dệt kim máy may 1.050.000 3.520 14.000 1.110 190.000 900.000 2.000 6.320 130 28.000 2.487.000 17.870 17.437 4.972 145.300 1.274.000 11.300 5.015 720 41.460 Nguồn: Tổng công ty dệt may Việt Nam 1. Thiết bị kéo sợi Được đầu tư nâng cấp từng giai đoạn với lượng vốn đầu tư khác nhau.Giai đoạn 1991-1995, ngành dệt đầu tư 39,96 triệu USD để thay mới, thay thế đồng bộ và cục bộ các máy cũ của Tây Âu và nâng cấp cải tạo các cọc sợi bên cạnh việc mua mới 201.906 cọc sợi. Do đó sợi dệt công nghệ mới đạt chất lượng cao. Đến giai đoạn 1996-2004 thiết bị kéo sợi tiếp tục được đầu tư đổi mới đáp ứng yêu cầu của ngành gồm nhiều chủng loại, xuất xứ từ Tây Âu, Nhật Bản…20,2% thiết bị từ Italy; 19,97% từ Thụy Sỹ; 18,25% từ Trung Quốc; 16,65% từ Đức… với tổng vốn đầu tư là 1.976,5 triệu USD. Năm 2005, ngành dệt có 2.487.000 cọc sợi (17.870 rôto) trong đó đầu tư mới 502.000 cọc sợi, sản xuất 260.000 tấn sợi một năm. Tuy nhiên theo đánh giá của các chuyên gia thì trình độ công nghệ của tiểu ngành vẫn ở mức trung bình và lạc hậu đòi hỏi phải đầu tư hơn nữa. 2. Thiết bị, công nghệ dệt thoi Giai đoạn 1991-1995 vốn đầu tư cho thiết bị dệt thoi là 14,09 triệu USD chủ yếu thay mới các thiết bị đã quá cũ và lạc hậu so với khu vực và thế giới, đầu tư nâng cấp những thiết bị đã qua sử dụng nhưng năng lực thực tế vẫn chấp nhận được.Thiết bị chủ yếu có xuất xứ từ Hàn Quốc, Nhật Bản…Từ năm 1996 đến nay toàn ngành có 6000 thiết bị mới được đầu tư với lượng vốn đầu tư là 78,5 triệu USD. Hiện nay có 17.437 máy dệt sản xuất 800 triệu m vải, 32.000 tấn khăn bông nhưng chất lượng vải còn hạn chế. Vải dệt thoi xuất khẩu và cung cấp cho may xuất khẩu chỉ khoảng 13-14%. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ ở mức trung bình không đáp ứng được yêu cầu vải xuất khẩu. Vì vậy, tăng đầu tư cho thiết bị dệt thoi sẽ góp phần tăng giá trị xuất khẩu. 3. Thiết bị, công nghệ dệt kim Vào giai đoạn 1996-2000, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã đầu tư dây chuyền công nghệ dệt kim mới của châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc kết hợp với đầu tư sửa chữa máy móc đã qua sử dụng, phát huy hiệu quả cao và năng lực sản xuất đã tăng lên với 1.110 máy dệt kim, đạt hơn 70.000 tấn sản phẩm mỗi năm. Từ năm 2000 đến nay, để đáp ứng chất lượng hang hoá xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Mĩ, tiểu ngành dệt kim đã tăng tốc trong việc cải thiện trình độ công nghệ. Đến năm 2005, toàn ngành có tới 4.972 máy dệt kim và được đánh giá là trình độ công nghệ trung bình khá và đã cải thiện được một số vấn đề về công nghệ như giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu, thay đổi mặt hàng, sản xuất các loại vải mật độ cao, ổn định kích thước, ít lỗi… 4. Thiết bị, công nghệ ở khâu in nhuộm, hoàn tất Theo thống kê của Vinatex, giai đoạn 2000-2004, các doanh nghiệp thành viên đã đầu tư khoảng 1.208,67 tỷ đồng cho việc thay mới và bổ sung, nâng cấp thiết bị công nghệ in, nhuộm, hoàn tất. Trong đó, đa số thiết bị được nhập từ các nước Tây Âu với tổng giá trị 321,5 tỷ đồng, chiếm 56% tổng giá trị; tiếp đó là máy móc Đài Loan với tổng giá trị 102,4 tỷ đồng, chiếm 16% và Nhật Bản với tổng vốn đầu tư khoảng 68,2 tỷ đồng, chiếm 14% ... Các thiết bị công nghệ mua ở thị trường trong nước rất ít, chỉ khoảng 1,984 tỷ đồng chiếm 0,3% tổng vốn đầu tư mới. 5. Đầu tư cho thiết bị, công nghệ ngành may Nếu như ngành dệt chủ yếu sản xuất đầu vào cho ngành may thi ngành may lại là ngành trực tiếp tạo ra sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy vấn đề nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm là hết sức cần thiết. Giai đoạn 1991-1995, ngành may đã đầu tư 267,3 tỷ đồng với 19.527 máy may. Các máy may mới đều là những máy khá hiện đại so với thiết bị may thế giới và khu vực, có tốc độ cao, bơm dầu tự động, đảm bảo vệ sinh,… Bước sang giai đoạn 1996-2005,toàn ngành lại tiếp tục đầu tư cho máy móc thiết bị ngành may. Trong giai đoạn này, Vinatex đã đầu tư 356,8 tỷ đồng cho thiết bị công nghệ ngành may, chiếm 28,7% tổng vốn đầu tư của Tổng công ty; trong đó, tổng đầu tư của các doanh nghiệp may là 260,2 tỷ đồng, chiếm 87% tổng vốn đầu tư cho thiết bị công nghệ may mặc và các doanh nghiệp dệt đầu tư cho may là 50,3 tỷ đồng, chiếm 13%. Đầu tư máy móc thiết bị ngành may hiện nay dịch chuyển theo hướng tăng cường các sản phẩm cao cấp, hướng vào các thị trường mục tiêu. Trong thời gian qua, những doanh nghiệp đi đầu trong việc đầu tư đổi mới công nghệ phải kể đến doanh nghiệp may Việt Tiến, May 10, may Nhà Bè … Nhìn vào các con số thống kê có thể thấy rằng, các doanh nghiệp dệt may đã tập trung một lượng vốn lớn cho đầu tư hiện đại hoá và đổi mới trang thiết bị công nghệ của ngành. Những nỗ lực đó đã mang lại nhiều kết quả khả quan như năng lực sản xuất tăng lên, công nghệ và thiết bị được hiện đại hóa, cải thiện kim ngạch xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế. Trong năm 2005, toàn ngành đã thực hiện và triển khai được nhiều dự án đổi mới công nghệ như dự án đầu tư mới và mở rộng của công ty Dệt Đông Á, đầu tư mới tại công ty dệt may Hà Nội tăng năng lực sản xuất thêm 2.494 tấn sợi/năm; công ty May 10 đã đầu tư thêm máy móc thiết bị hiện đại để tăng năng lực thêm 200.000 bộ veston/năm, ngoài ra còn có các dự án bổ sung dây chuyền kéo sợi của công ty dệt may Hòa Thọ, đầu tư máy móc thiết bị mới tại công ty dệt Phong Phú, dệt Thành Công, dệt may Nha Trang… Năm 2006, tập đoàn dệt may Việt Nam dành 1773 tỷ đồng cho đầu tư đổi mới công nghệ dệt may. Trong đó, nội dung đầu tư gồm đầu tư nâng cấp và mở rộng khâu hoàn tất vải dệt thoi như nâng cấp và mở rộng các nhà máy nhuộm của Dệt Nam Định, Dệt May Thắng Lợi, Dệt Việt Thắng trên cơ sở cổ phần hóa hoặc liên doanh với các đối tác nước ngoài. Đẩy nhanh tiến độ di dời kết hợp hiện đại hóa các công ty dệt 8/3, Dệt Nam Định, Dệt kim Đông Xuân,…Nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới và sản phẩm dệt thoi trên cơ sở vải cotton CLC, vải spandex, vải thời trang; các sản phẩm dệt đa chức năng, kỹ thuật và nhóm sản phẩm nội thất: vải bọc, đồ dùng gia đình, xe hơi, thảm trải sàn,…Tập đoàn dệt may Việt Nam cũng đầu tư nâng cao năng suất lao động trọng tâm vào khâu kéo sợi, dệt thoi, may mặc với chỉ tiêu tăng 20-30% so với hiện nay. Cùng với việc đầu tư vào máy móc thiết bị thì các doanh nghiệp cũng không quên đầu tư vào đội ngũ công nhân kĩ thuật là những người vận hành máy móc thiết bị đó. 6. Đầu tư nguồn nhân lực ngành dệt may Ngành Dệt may Việt Nam hiện đang sử dụng gần 1,1 triệu lao động trong các dây chuyền công nghệ (riêng ngành may là trên 900.000 người). Ngoài ra còn khoảng 1 triệu lao động đang tham gia trong các hộ gia đình và hợp tác xã chưa kể đến số lao động trong ngành trồng bông và dâu tơ tằm. Tuy nhiên, chất lượng lao động lại đặt ra nhiều vấn đề đối với doanh nghiệp dệt may, nguồn nhân lực hiện đại trình độ chưa cao song khả năng đào tạo lại rất hạn chế. Do đặc trưng của ngành là lao động cần cù, khéo léo và tỉ mỉ nên lao động nữ chiếm số đông. Trong toàn ngành dệt may, lao động nam ngành dệt chiếm 5,72%, lao động nam ngành may chiếm 17,3%; lao động nữ ngành dệt chiếm 12,28% ,lao động nữ ngành may chiếm 64,7%. Tỷ lệ lao động nữ ngành dệt gấp đôi nam; ngành may thì sự chênh lệch này còn lớn hơn là gấp 3 lần. Điều này đặt ra một nhu cầu đối với các doanh nghiệp phải tổ chức làm việc hợp lý, phù hợp với sức khỏe nữ giới. Một thực tế nữa là mặc dù ngành thu hút nhiều lao động nhưng chất lượng lao động là quá thấp. Trong ngành dệt, lượng lao động qua đào tạo chỉ chiếm 35,1%; trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học chỉ chiếm 7%. Trong ngành may, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp hơn, chiếm 18,24% tổng số lao động; trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học chỉ dừng lại ở mức 4,16%. Bảng 7: Trình độ lao động trong các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Trình độ lao động Tỷ lệ trong các doanh nghiệp dệt (%) Tỷ lệ trong các doanh nghiệp may (%) Lao động phổ thông 65,9 81,76 Công nhân 19,2 6,53 Kỹ thuật viên 3,3 3,92 Trung cấp 4,6 3,63 Đại học và cao đẳng 6,9 4,15 Trên đại học 0,1 0,01 Đối với lao động trực tiếp sản xuất, phần lớn là người ngoại tỉnh lao động phổ thông (trên 60%), trình độ văn hóa thấp, trình độ khi vào doanh nghiệp là dưới cơ bản. Hầu hết các doanh nghiệp đều phải tự đào tạo công nhân trước khi đưa vào dây chuyền sản xuất. Do đó, doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong quản lý và tổ chức sản xuất: - Nhận thức về pháp luật, chính sách lao động, nội quy kỉ luật, đặc biệt là kỹ thuật công nghệ hiện đại của người lao động rất hạn chế - Trình độ văn hóa và tay nghề của cán bộ quản lý hạn chế dẫn tới việc tổ chức sản xuất kém hiệu quả, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém. Điều này dẫn tới thu nhập của người lao động thấp, lại phải tăng giờ tăng ca để kịp hợp đồng. - Thời gian eo hẹp nên việc tổ chức học tập văn hóa, nâng cao tay nghề cũng như tổ chức một cuộc sống cân đối giữa lao động và nghỉ ngơi, tái sản xuất sức lao động cho người lao động hầu như không thể thực hiện được. Bảng 8: Đặc điểm lao động ngành Dệt may thành phố Hồ Chí Minh Yếu tố phân tích Tỷ lệ (%) Yếu tố phân tích Tỷ lệ (%) 1. Nguồn lao động - Lao động nhập cư - Lao động nữ 59 76 4. Chuyên môn (LĐ quản lý) - Trung cấp - Cao đẳng - Đại học - Không có bằng cấp chính quy 10,5 8,2 6,5 74,8 2. Độ tuổi Dưới 20 tuổi Từ 21-30 tuổi Từ 31-40 tuổi Trên 40 tuổi 23 47 24 6 5. Hình thức đào tạo - Chính quy trước khi nhận việc - Đào tạo tại chức - Đào tạo ngắn hạn - Chưa được đào tạo trước 12,5 12,7 14,5 60,3 3. Trình độ văn hoá - Cấp I - Cấp II - Cấp III - Tốt nghiệp cấp III 21 61 14 4 Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex). Với đặc điểm nguồn lao động như vậy là một cản trở lớn cho quá trình đầu tư đổi mới công nghệ. Chúng ta có một thế mạnh là lao động tuổi đời còn rất trẻ, có sức khoẻ tốt, dễ tiếp thu kiến thức mới. Theo điều tra, trong ngành may, lao động dưới 30 tuổi chiếm 64,2% còn trong ngành dệt thì số lao động này thấp hơn là 38,3%. Tuy nhiên, những lao động này lại thiếu kinh nghiệm, rất cần sự hướng dẫn của những thế hệ đi trước, đặc biệt trong tình trạng đa số các doanh nghiệp vẫn lựa chọn hình thức tự đào tạo. Điều đáng quan tâm trong nguồn nhân lực các doanh nghiệp dệt may là nguồn nhân lực công nghệ. Họ là một trong những nhân tố quan trọng không những quyết định sự thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn là hạt nhân của quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Nhưng thực tế lại cho thấy lực lương này còn quá ít. Đồng thời, do hạn chế về trình độ nên năng lực chỉ dừng lại ở vận hành và tiếp thu công nghệ một cách thụ động, thiếu sáng tạo. IV. HẠN CHẾ TRONG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ 1. Hạn chế Nhờ việc đầu tư đổi mới công nghệ mà hàng dệt may của chúng ta đã có chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường.Mặc dù hàng dệt may của ta chưa rẻ và mẫu mã đẹp như hàng của nước bạn Trung Quốc nhưng cũng đã được nhiều nước bạn hàng có nhận xét là chất lượng khá tốt. Rõ ràng việc đầu tư đổi mới công nghệ mang lại kết quả cuối cùng là sức cạnh tranh của hàng hóa tăng lên, song các doanh nghiệp còn mang rất nhiều hạn chế. 1.1. Lượng vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp còn thấp Tuy các doanh nghiệp đã có nhận thức mới về tầm quan trọng của đổi mới công nghệ nhưng theo khảo sát tại 64 doanh nghiệp dệt may thì tỷ lệ đầu tư cho đổi mới công nghệ trung bình trong 3 năm 2001-2003 chỉ đạt khoảng 3% trong tổng doanh thu. Tính trung bình cho một doanh nghiệp có tiến hành đổi mới công nghệ, số vốn mà doanh nghiệp bỏ ra là 5 tỷ đồng một năm. Trong đó, tỷ trọng vốn đầu tư cho phần cứng cao hơn phần mềm. Theo số liệu thống kê của tổng công ty dệt may Việt Nam, trong năm 2005, có 29 dự án đầu tư đổi mới công nghệ chuyển tiếp, trong đó chỉ có 3 dự án trên 100 tỷ đồng, còn lại số vốn khá nhỏ. 1.2. Đầu tư đổi mới công nghệ vẫn thiếu đồng bộ Hiện nay, một trong những chủ trương của ngành dệt may là đầu tư thiết bị công nghệ đồng bộ nhưng trên thực tế chúng ta chưa làm được điều này. Trong 29 dự án đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp thành viên của Vinatex thì có 3 dự án rất nhỏ lẻ, chỉ đầu tư một dây chuyền sản xuất như dự án máy nhuộm cao áp của doanh nghiệp dệt Phong Phú (tổng số vốn 3,7 tỷ đồng), dự án máy Compact của doanh nghiệp dệt Thành Công (2,3 tỷ đồng), dự án thiết bị lẻ đánh máy ống của doanh nghiệp Nha Trang (8,45 tỷ đồng). Trong số 29 dự án đó chỉ có duy nhất một dự án đầu tư vào công nghệ phần mềm là xây dựng mạng thông tin quản lý của công ty May 10. 1.3. Hiệu quả của vốn đầu tư đổi mới công nghệ còn thấp Xét về hiệu quả vốn đầu tư thì ngành may đạt hiệu quả cao hơn ngành dệt. Với mỗi đồng vốn đầu tư cho ngành dệt thì thu về 2,53 đồng doanh thu thì ở ngành may sẽ thu về 4,14 đồng doanh thu (2005). Nguyên nhân là do công nghệ của ngành dệt rất phức tạp nên đầu tư phải với lượng vốn lớn, mà sản phẩm dệt hiện nay chất lượng còn thấp, chưa cạnh tranh được với các nước khu vực đặc biệt là Trung Quốc. Trên đây là những hạn chế còn tồn tại trong ngành dệt may mà nếu không được giải quyết nhanh chóng sẽ trở thành thách thức đối với sự phát triển của ngành. Muốn tìm được giải pháp phù hợp và hiệu quả thì ngành phải tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó. 2. Nguyên nhân 2.1. Khó khăn về vốn đầu tư Không chỉ đối với ngành dệt may mà đối với hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam, vấn đề thiếu vốn là vấn đề nan giải. Trong điều kiện phải cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng của các nước xuất khẩu dệt may lớn thế giới, ngành dệt may Việt Nam đòi hỏi lượng vốn đầu tư khá lớn hàng năm. Tuy nhiên khả năng vốn tự có của mỗi doanh nghiệp để phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ chỉ đạt khoảng 10-15%, khoảng 20% vốn do ngân sách nhà nước cấp (đối với doanh nghiệp nhà nước), còn lại các doanh nghiệp phải tự lo bằng cách vay với lãi suất cao nên năng lực của ngành rất hạn chế. 2.2. Sự liên kết giữa ngành dệt và may chưa hiệu quả Mặc dù ngành dệt và may là hai ngành cần có sự liên kết hiệu quả vì đầu ra của ngành dệt là nguyên liệu của ngành may. Để đầu tư có hiệu quả thì các doanh nghiệp không thể không chú trọng đến sự liên kết này vì như vậy thì đầu tư mới đồng bộ, mới tận dụng được hết công suất của máy móc thiết bị. Nhưng trên thực tế thì sự gắn kết giữa hai ngành này còn lỏng lẻo, sự đầu tư cho ngành may chưa hẳn là đầu tư cho đầu ra của ngành dệt và ngược lại. 2.3. Chưa có chiến lược đào tạo nguồn nhân lực công nghệ đúng đắn Lợi thế của chúng ta là nguồn nhân lực dồi dào nhưng lao động của ta chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, thiếu lao động lành nghề… Vì vậy khi muốn đầu tư mua mới dây chuyền công nghệ doanh nghiệp phải đồng thời đầu tư cho công tác đào tạo nguồn nhân lực mà khoản phí đào tạo không phải là nhỏ. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng gặp phải khó khăn đó và hiện nay ngành cũng chưa có chiến lược đào tạo tương xứng với tầm vóc và triển vọng phát triển của ngành. Xét về số lượng thì số trường đào tạo kỹ sư chuyên ngành dệt may còn thiếu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu của ngành. Xét về chất lượng thì kiến thức cơ bản của chuyên ngành cung cấp cho sinh viên còn yếu, thiếu trầm trọng, chưa cập nhật trình độ khoa học công nghệ của sản xuất. Bên cạnh đó cơ sở vật chất của các trường đào tạo quá yếu, thiếu sự thực hành và giao lưu trao đổi với cán bộ kỹ thuật trong và ngoài nước. 2.4. Ngành công nghiệp phụ trợ còn yếu Các ngành công nghiệp phụ trợ như ngành cơ khí chưa được đầu tư phát triển hợp lý nên ngành dệt may hiện nay vẫn phải nhập máy móc thiết bị với giá cao để phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, các ngành sản xuất nguyên phụ liệu chưa được đầu tư đúng hướng, phải nhập nhiều nguyên phụ liệu đã làm cho doanh nghiệp thụ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ I. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010 1. Định hướng Theo chiến lược “tăng tốc” phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010 nhằm giải quyết việc làm và nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tổng công ty dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp nên chú trọng đầu tư các công nghệ mới nhất với thiết bị hiện đại nhằm tạo ra một bước nhảy vọt về chất lượng và số lượng. Mặt khác, các doanh nghiệp cần coi trọng tận dụng các thiết bị đã qua sử dụng với các công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển, thế hệ từ những năm 90 trở lại đây. Chiến lược cũng chỉ rõ rằng các doanh nghiệp nên đầu tư phát triển dệt may theo hướng chuyên môn hóa cao theo từng loại công nghệ.Có như vậy mới tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng sản phẩm. Mỗi doanh nghiệp cần thiết phải làm chủ một vài loại công nghệ để tạo ra những mặt hàng tạo ra những mặt hàng mới chất lượng cao, xây dựng mối cung cầu giữa các doanh nghiệp trên cơ sở hợp tác thương mại. 2. Mục tiêu Đảng và nhà

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxĐầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn 2000- 2005.docx
Tài liệu liên quan