Tiểu luận Phân tích môi trường Nhật và đưa ra phương thức kinh doanh mặt hàng gốm sứ vào Nhật

Theo số liệu thống kê năm 1995 của Hiệp hội robot Nhật Bản, 49% robot công nghiệp được sử dụng trong ngành sản xuất máy móc điện tử, 18% trong ngành sản xuất ôtô, 6% trong ngành xử lý và làm khuôn, 5% trong ngành chế tạo máy móc, 4% trong ngành thép, 4% trong ngành thực phẩm. Ngoài ra, robot cũng được sử dụng trong các ngành hóa chất, máy chính xác, gốm, giấy, nông nghiệp và lâm nghiệp, v,v cho thấy robot công nghiệp phổ biến trong nhiều lĩnh vực ở Nhật Bản.

Nhật Bản còn xuất khẩu robot sang nhiều nước khác. Năm 1995, do nhu cầu trong nước giảm, xuất khẩu chiếm tới 48% tổng sản lượng. Con số xuất khẩu có lẽ sẽ khoảng 25% vào năm 2000 và 19% vào năm 2005. Hiện tại 40% robot xuất khẩu của Nhật Bản là sang Mỹ, chủ yếu cho 3 hãng sản xuất ôtô lớn, ngoài ra dùng trong các ngành điện tử và điện dân dụng. Tại châu Á, robot Nhật Bản được xuất sang Hàn Quốc, Đài Loan, Xinhgapo, Trung Quốc, Malaixia, Hong Kong, Indonesia, v,v Xuất khẩu sang Việt Nam bắt đầu vào năm 1995 với 1 robot hàn. Năm 1996, số lượng xuất khẩu sang Việt Nam tăng lên 18 robot - trong đó 13 robot cho ngành lắp ráp và 5 robot để chế tạo khuôn, và trong năm 97 lên tới 39 chiếc (23 robot lắp ráp, 14 robot tạo khuôn, 1 robot hàn và 1 robot đúc).

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4044 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phân tích môi trường Nhật và đưa ra phương thức kinh doanh mặt hàng gốm sứ vào Nhật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm Mới (Toshigami) và thường thì thức luôn đến sáng ngày hôm sau để đón ánh mặt trời của ngày đầu năm. Theo tập quán thì Lễ đón Năm Mới hay còn gọi là Lễ Tết kéo dài cho đến hết ngày 3/1 của năm mới.Tuy nhiên, thực tế là không khí Lễ hội đón Năm Mới này đã diễn ra dài hơn. Thường là từ ngoài 20/12 trở đi, đồng thời với không khí sôi động chuẩn bị chào đón Lễ Noel (25/12) đã diễn trước đó, từ trung tuần tháng 12; và vẫn không khí Tết này còn kéo dài cho đến hết ngày 15/1 là ngày chính thức tổ chức trọng thể Lễ Trưởng thành cho các nam nữ thanh niên tròn 20 tuổi trong năm đó. Những ngày vui đón năm mới cũng là dịp nhàn rỗi để  những người bà con họ hàng, bạn bè đến thăm nhau. Nhiều gia đình đã về nhà ông bà, bố mẹ để cùng vui đón năm mới. Vào nửa đêm của ngày 31/12, toàn thể gia đình vừa vui đón Lễ Tết vừa cùng ăn một loại mỳ truyền thống có tên là Toshikoshi Soba  vì theo người Nhật do ăn những sợi mì dài và dai đó là biểu hiện của bền vững, sống lâu. Lễ Trưởng thành (Seijinnohi)   Lễ hội này còn có tên là “Lễ Thành nhân” dành cho các chàng trai, cô gái của xứ sở Phù Tang tròn tuổi 20 trong năm đó. Tuy nhiên, vì mỗi thanh niên đều có thời điểm được sinh ra khác nhau nên đã thành truyền thống chung của người Nhật từ nhiều thế kỷ qua là lấy ngày 15/1 hàng năm là ngày khắp nơi trong toàn quốc đều tổ chức trọng thể các nghi lễ để công nhận sự trưởng thành của các nam nữ thanh niên đến tuổi 20 trong năm đó. Từ đó, Lễ Trưởng thành đã trở thành ngày hội lớn không chỉ riêng với các thanh niên đến tuổi 20, các gia đình có con em mình thuộc đối tượng đó, mà đã trở thành ngày hội lớn, vui chung toàn xã hội Nhật. Việc tổ chức trọng thể Lễ công nhận Trưởng thành thời gian đầu được tiến hành thường chỉ ở một số đền, chùa lớn và nổi tiếng ở các địa phương trong toàn quốc, nhưng sau đó vì số lượng thanh niên đến tuổi 20 hàng năm thường rất nhiều, vì thế trên thực tế nhiều năm qua cứ khoảng từ ngày 12/1 trở đi tại các đền, chùa ở nhiều địa phương người ta đều đã tiến hành các thủ tục nghi lễ đó. Chính vì thế vào những ngày này tại các đền, chùa, nhất là ở những nơi nổi tiếng như đền Meiji, chùa Asakusa… ở Tokyo, đền Kamakura…ở Kamakura, đền Kyoto… ở Kyoto. .v.v…đã thu hút rất nhiều thanh niên tuổi 20 đến để xin tiến hành nghi lễ công nhận, khiến cho không khi lễ hội rất sôi động. Chính trị- Pháp luật Nền chính trị Nhật Bản được thành lập dựa trên nền tảng của một thể chế quân chủ lập hiến và cộng hòa đại nghị (hay chính thể quân chủ đại nghị). Theo Hiến pháp Nhật Bản, Nhật Hoàng là biểu tượng của quốc gia và sự thống nhất dân tộc. Nhật Hoàng không có quyền lực đối với Chính phủ. Hoàng gia Nhật Bản tồn tại từ nhiều thế kỷ trước. Đây là triều đại lâu dài và liên tục nhất trên thế giới. Đương kim Nhật Hoàng AKIHITO sinh ngày 23 tháng 12 năm 1933 (ngày sinh của Nhật Hoàng được mặc nhiên coi là ngày Quốc khánh của Nhật Bản) và lên ngôi ngày 7 tháng 1 năm 1989 sau cái chết của cha Nhật Hoàng HIROHITO tức Hoàng đế Chiêu Hoà. Niên hiệu của đương kim Nhật Hoàng là Bình Thành vì vậy năm 1989 theo lịch Nhật Bản là năm Bình Thành 1. Quốc hội : Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Quốc hội có 2 viện là Thượng nghị viện và Hạ nghị viện, trong đó Hạ nghị viện có thẩm quyền hơn Thượng nghị viện, nghị sỹ của cả hai viện đều do dân bầu ra. Các nghị sỹ của Hạ viện được bầu theo nhiệm kỳ 4 năm song có thể kết thúc trước nhiệm kỳ nếu Hạ viện bị giải tán. Các thượng nghị sỹ được bầu theo nhiệm kỳ 6 năm và cứ 3 năm thì bầu lại một nửa. Các kỳ họp của hai viện gồm các kỳ họp thường xuyên, không thường xuyên và các kỳ họp đặc biệt. Các kỳ họp thường xuyên của Quốc hội được triệu tập 1 lần 1 năm vào tháng 12 và kéo dài 150 ngày. Dự thảo quan trọng nhất được trình ở kỳ họp thường xuyên là ngân sách nhà nước của năm tài chính tới. Hạ viện có quyền xem xét dự thảo này trước khi nó được trình ra Quốc hội. Hạ viện cò được quyền ưu tiên hơn so với Thượng viện trong việc chỉ định Thủ tướng mới và xem xét ký kết các hiệp ước. Hạ viện có quyền đưa ra đề nghị tín nhiệm hoặc không tín nhiệm Nội các. Thượng nghị viện không có quyền đưa ra những đề nghị không tín nhiệm. Thượng viện có thể tạm thời thay Hạ viện đảm nhiệm các chức năng của Quốc hội nếu và khi Nội các triệu tập một kỳ họp khẩn cấp của Thượng viện trong lúc Hạ viện đã bị giải tán. Đảng phái chính trị: Ngày nay Nhật Bản có 5 đảng phái chính là đảng Dân Chủ Tự Do, đảng Dân Chủ Xã Hội, đảng Công Minh, đảng Cộng Sản và đảng Dân Xã. Đảng Dân Chủ Tự Do (LDP) là đảng chính trị quan trọng nhất, được thành lập vào năm 1955 do sự sát nhập của hai đảng phái được tổ chức sau Thế Chiến Thứ Hai. Đảng này chiếm 274 ghế Hạ Viện và 106 ghế Thượng Viện của Quốc Hội năm 1992, so với đáng phái thứ hai là đảng Dân Chủ Xã hội có 141 Dân Biểu và 73 Thượng Nghị Sĩ. Cơ quan hành pháp: Nội các bao gồm Thủ tướng và các Bộ trưởng thực hiện quyền hành pháp, chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội. Đây là cơ quan có thẩm quyền cao nhất của chính phủ, lập ra chính sách và kế hoạch của chính phủ, chỉ đạo các Bộ, quản lý công tác đối nội và đối ngoại, nộp các đề nghị về lập pháp lên Quốc hội nhân danh tiểu ban thực hiện. Cơ cấu của Nội các bao gồm 1 văn phòng Thủ tướng, 10 bộ và 2 cơ quan ngang bộ, cụ thể là: Bộ Môi trường, Bộ đất đai, hạ tầng và giao thông, Bộ Kinh tế, thương mại và công nghiệp, Bộ Nông, lâm, ngư nghiệp, Bộ Y tế, lao động và phúc lợi, Bộ Giáo dục, văn hoá, thể thao, khoa học và công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Bộ Quản lý công cộng, Nội vụ, Bưu điện và viễn thông, Cục Phòng vệ, Uỷ ban an toàn quốc gia. Nhật Bản được chia là 47 tỉnh và 3.223 đơn vị chính quyền cấp dưới với hơn 3 triệu công chức địa phương (tháng 2/2002). Tuỳ theo dân số và diện tích mà các đơn vị này cũng có những quyền hạn khác nhau theo từng cấp, theo quy định của luật, hoặc theo uỷ nhiệm của chính quyền cấp trên. Nói chung, Chính phủ lo các nhiệm vụ về quốc phòng, ngoại giao và các nhiệm vụ khác gắn với trách nhiệm của Nhà nước, còn cấp địa phương lo các việc liên quan đến giữ gìn và khai thác đất đai, phòng chống thiên tai, chống ô nhiễm, lao động, phúc lợi, y tế v..v.. Cấp tỉnh thường lo các việc có quy mô lớn hoặc có ảnh hưởng rộng và đóng vai trò liên lạc trong các hoạt động phối hợp giữa các đơn vị. Chính quyền địa phương cấp dưới thường chịu trách nhiệm về các việc liên quan chặt chẽ đến cuộc sống hàng ngày của cộng đồng dân cư. Tư pháp: Quyền tư pháp do Toà án tối cao và các Toà án cấp dưới sử dụng. Toà án tối cao có quyền quyết định cuối cùng tính hợp hiến của các đạo luật và các văn bản quy phạm. Quan hệ quốc tế Hiến pháp hiện tại của Nhật không cho phép nước này dùng sức mạnh quân sự để phát động chiến tranh chống một nước khác mặc dù vẫn cho phép duy trì lực lượng phòng vệ gồm các đơn vị lục, không và hải quân. Nhật Bản hiện là thành viên Liên hiệp quốc và là thành viên không thường trực của Hội đồng bảo an; một trong các thành viên “G4” tìm sự chấp thuận cho vị trí thành viên thường trực. Ngoài ra Nhật còn là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế gồm G8, Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và Hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) và là một nước hào phóng trong các công tác cứu trợ và các nỗ lực phát triển các dự án quốc tế chiếm khoảng 0,19% tổng thu nhập quốc dân (GNI) năm 2004. Chính sách hiện nay Quản lý xuất nhập khẩu Xuất khẩu: Là thành viên tham gia thoả thuận Wasennar cũng như các cơ chế quản lý xuất khẩu khác, Nhật Bản được hưởng cơ chế quản lý xuất khẩu ít hạn chế nhất của bất kỳ nước nào trên thế giới. Đồng thời, các công ty Nhật Bản còn có thể tham gia các hoạt động kinh doanh với các nước mà Mỹ hiện đang cấm vận. Do vậy, các nhà xuất khẩu Mỹ được khuyến khích nghiên cứu một cách kỹ càng và kiểm tra nghiêm ngặt những vấn đề liên quan tới buôn bán các mặt hàng nhạy cảm hoặc cần kiểm soát, đặc biệt là sự chú ý tới khả năng trung chuyển hàng quá cảnh qua Nhật. Nhập khẩu: Nhật Bản nổi tiếng có nhiều biện pháp hạn chế hoặc cấm nhập đối với hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước này. Việc hạn chế này thể hiện cả trong các chính sách và và các biện pháp kinh tế công khai cũng như các nỗ lực nhằm tạo sự khác biệt về văn hoá kinh doanh và truyền thống như: thiết lập các tiêu chuẩn cho sản phẩm riêng, đòi hỏi hỏi phải chứng minh kinh nghiệm trong thị trường Nhật Bản, các quy định chính thức nhằm bảo trợ sản xuất trong nước và phân biệt đối xử đối với hàng ngoại nhập. Quyền cấp phép nằm trong tay các hiệp hội sản xuất với số lượng thành viên hạn chế, nhưng có sự ảnh hưởng rất lớn trong thị trường, cộng với khả năng kiểm soát thông tin và hoạt động một cách hoàn hảo. Để có thể vượt qua các rào cản này, yếu tố thành công phụ thuộc vào lĩnh vực sản xuất, ngành hàng, vào tính cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ, cũng như là sự sáng tạo và các quyết định sáng suốt của ban lãnh đạo doanh nghiệp. Nhật Bản là một thị trường lớn và phức tạp với mức độ cạnh tranh rất gay gắt.Tuy nhiên thực tế cho thấy các doanh nghiệp thành công trong việc thâm nhập vào thị trường này đều là các công ty biết đánh giá và điều chỉnh chiến lược thâm nhập thị trường cũng như thấu hiểu sâu sắc về thị trường, về các vấn đề của hệ thống luật lệ của Nhật Bản và đồng thời là khả năng thích ứng với các quy định ngày càng gia tăng về số lượng và tính chất phức tạp của nó. Hải quan: Các quy định về hải quan của Nhật cũng tương đối phức tạp và rắc rối, gây nhiều phiền phức và rất máy móc. Hầu hết các rắc rối về thủ tục hải quan thường xảy ra ở lần đầu tiên. Nói chung, bất kỳ người nào muốn nhập khẩu hàng hoá cũng phải khai báo hải quan và lấy được giấy phép nhập khẩu sau khi tiến hành kiểm hoá những mặt hàng này.Quy trình bắt đầu với việc điền vào tờ khai hải quan và kết thúc sau khi nhận được giấy phép nhập khẩu Quy định về thuế nhập khẩu: Trừ các nước nằm trong diện ưu đãi, mức thuế nhập khẩu nói chung là 3,4% cho những hàng thông thường, 2,3% cho các nước tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới. Hệ thống tiêu chuẩn Hầu hết sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu của Nhật đều phải chịu kiểm tra hàng hoá và không thể tiêu thụ tại thị trường này nếu không được cấp những giấy chứng nhận sản phẩm đã tuân theo những tiêu chuẩn. Một số tiêu chuẩn là bắt buộc, một số là tự nguyện. Trong nhiều trường hợp, những giấy chứng nhận này có thể tính quyết định thành bại của các thương vụ. Tại Nhật Bản, hiện có hai xu hướng. Một là chủ trương hướng tới nới lỏng các tiêu chuẩn này; và xu hướng khác là điều chỉnh các tiêu chuẩn này sao cho phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Một đại lý hay một đối tác của Nhật Bản cần phải nhận thức đầy đủ về một loạt các văn bản pháp luật có thể tác động tới việc bán sản phẩm tại Nhật Bản bao gồm: Luật về quản lý vật liệu và thiết bị điện, Luật về sự an toàn sản phẩm tiêu dùng, Luật đo lường, Luật về ngành cung cấp khí đốt, Luật về vệ sinh thực phẩm. Luật về sự đảm bảo an toàn và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho giao dịch khí đốt, dầu mỏ hoá lỏng , luật về những vấn đề dược phẩm, luật về các phương tiện đường bộ . Tiêu chuẩn công nghiệp-nông nghiệp Mã hiệu tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản (JIS) là hệ thống tiêu chuẩn tự nguyện do METI quản lý được áp dụng đối với trên 1.000 các sản phẩm công nghiệp khác nhau gồm trên 8.500 tiêu chuẩn. Sự tuân thủ JIS cũng là yếu tố quan trọng quyết định đối với các công ty trong việc cạnh tranh đấu thầu trong hợp đồng mua của Chính phủ Nhật. Các sản phẩm tuân thủ các tiêu chuẩn này sẽ được đối xử ưu đãi. JIS áp dụng đối với với tất cả các sản phẩm công nghiệp, trừ các sản phẩm chịu sự điều tiết của luật cụ thể của quốc gia hoặc chịu sự điều chỉnh của các hệ thống tiêu chuẩn khác như luật về các vấn đề dược phẩm và các tiêu chuẩn nông nghiệp của Nhật Bản. Hệ thống tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản (JAS) cũng là một hệ thống tiêu chuẩn tự nguyện nhưng được áp dụng rộng rãi. JAS được áp dụng cho các đồ uống, các sản phẩm chế biến, lâm sản và các mặt hàng nông nghiệp, thú nuôi, dầu và chất béo, thuỷ hải sản, và các sản phẩm chế biến có nguồn gốc nông, lâm , thuỷ sản. Nhãn hiệu JAS cũng áp dụng cho cả các loại gỗ dán, gỗ ván, ván lát sàn, gỗ sẻ và gỗ thịt. Hệ thống JAS do Bộ Nông nghiệp Nhật Bản, bộ Lâm nghiệp cùng bộ Thuỷ sản quản lý. Bộ Y tế, Bộ lao động xã hội quản lý các tiêu chuẩn riêng về nhãn mác chất lượng của các mặt hàng đồ uống và các sản phẩm chế biến. Kinh tế Như đã phân tích Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên ngoại trừ gỗ và hải sản, trong khi dân số thì quá đông, phần lớn nguyên nhiên liệu phải nhập khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh, nhưng với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi (1945_1954), phát triển cao độ (1955_1973). Từ 1974 đến nay tốc độ phát triển tuy chậm lại, song Nhật Bản tiếp tục là một nước có nền kinh tế-công nghiệp-tài chính thương mại-dịch vụ-khoa học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên thế giới (chỉ đứng sau Hoa Kỳ), GDP trên đầu người là 36.217 USD (1989). Cán cân thương mại dư thừa và dự trữ ngoại tệ đứng hàng đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều, là nước cho vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới. Nhật Bản có nhiều tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu thế giới. Đơn vị tiền tệ là: đồng yên Nhật. Tình hình xuất nhập khẩu của Nhật Bản Xuất khẩu: Những mặt hàng xuất khẩu chính của Nhật là thiết bị giao thông vận tải, xe cơ giới, hàng điện tử, máy móc điện tử và hóa chất. Những đối tác xuất khẩu chính của Nhật là Hoa Kỳ 22.9%, Trung Quốc 13.4%, Hàn Quốc 7.8%, Đài Loan 7.3% và Hồng Kông 6.1% Quốc gia Tỷ trọng (%) Hoa Kỳ 22.9% Trung Quốc 13.4% Hàn Quốc 7.8% Đài Loan 7.3% Hồng Kông 6.1% Dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, bán lẻ, giao thông, viễn thông tất cả đều là ngành công nghiệp lớn của Nhật Bản. Nhật Bản có năng lực rất lớn về công nghiệp, và đây là trụ sở của nhiều nhà sản xuất công nghệ tiên tiến bậc nhất thế giới về các sản phẩm xe có động cơ, trang thiết bị điện tử, công cụ máy móc, thép, phi kim loại, công nghiệp tàu thủy, hóa học, dệt may, thức ăn chế biến. Đây cũng là nơi đặt trụ sở của các tập đoàn đa quốc gia và nhiều mặt hàng thương mại trong lĩnh vực công nghệ và máy móc. Xây dựng từ lâu đã trở thành một trong những nền công nghiệp lớn nhất của Nhật Bản. Nhật Bản là trụ sở của ngân hàng lớn nhất thế giới, tập đoàn tài chính Mitsubishi UFJ (Mitsubishi UFJ Financial Group) với số vốn ước tính lên đến 1.7 nghìn tỉ đô la Mỹ. Nhật Bản cũng là nơi có thị trường chứng khoán lớn thứ hai thế giới - thị trường chứng khoán Tokyo với khoảng 549.7 nghìn tỉ yên vào tháng 12/2006. Đây cũng là trụ sở của một số công ty dịch vụ tài chính, những tập đoàn kinh doanh và những ngân hàng lớn nhất thế giới. Ví dụ như những tập đoàn kinh doanh và công ty đa quốc gia như Sony, Sumitomo, Mitsubishi và Toyota sở hữu hàng tỉ và hàng nghìn tỉ đô la đang hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, nhóm các nhà đầu tư hoặc dịch vụ tài chính như ngân hàng Sumitomo, ngân hàng Fuji, ngân hàng Mitsubishi, các định chế tài chính của Toyota và Sony. Công nghiệp ô tô Nhật Bản là quốc gia sản xuất ôtô nhiều thứ 2 trên thế giới, sau Mỹ, và sản lượng ôtô của Nhật Bản trong những năm gần đây chiếm tới hơn 30% số xe sản xuất toàn cầu. Điều đáng nói đó là ngành công nghiệp ôtô của Nhật khởi sự đều sau cả Mĩ và các nước phương Tây nhưng đến thời điểm Nhật trở thành một trung tâm lớn thứ 2 thế giới thì ngành công nghiệp ôtô đã là một ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế và hiển nhiên ôtô Nhật cũng trở thành đối thủ cạnh tranh nặng kí của ôtô Mĩ và các nước phát triển khác. Ngành công nghiệp ô tô Nhật với nhiều hãng nổi tiếng khác nhau: Toyota, Honda, Lexus, Daihatsu, Mazda, Subaru và Suzuki … Công nghiệp ô tô Nhật phát triển mạnh do những nguyên nhân sau : Kinh tế phát triển mạnh, ngành sản xuất ôtô đã tăng cường sản xuất để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trên các thị trường trong nước và xuất khẩu, rồi nhanh chóng trở thành một phần quan trọng của hệ thống sản xuất ôtô toàn cầu. Tiêu thụ nội địa là một trong những yếu tố quan trọng giúp phát triển ngành sản xuất xe hơi. Tỉ lệ sở hữu xe hơi của các gia đình ở Nhật Bản tăng đều đặn vào cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80, và vào tháng 3/85 đạt tới 65,8%, tức là cứ 3 gia đình thì có 2 xe hơi. Thậm chí tới 14,6% các hộ gia đình có từ 2 xe hơi trở lên. Trong vòng 10 năm kể từ năm 1987, số lượng xe ôtô các loại sử dụng ở Nhật Bản tăng trung bình 2 triệu chiếc mỗi năm và đến năm 97 tổng cộng là 70.003.297 chiếc. Tuy tỉ lệ xe hơi tính theo đầu người của Nhật thấp hơn Mỹ và một số nước châu Âu, theo số liệu thống kê năm 1996, cứ 1000 người thì có 386 xe hơi. Một yếu tố quan trọng khác là chính phủ Nhật Bản, đi đầu là Bộ Công nghiệp và Ngoại thương, đã ủng hộ và bảo vệ ngành công nghiệp ôtô quốc nội, chẳng hạn ưu đãi cấp ngoại tệ để thu hút công nghệ tiên tiến, hạn chế nhập khẩu xe và đầu tư nước ngoài đồng thời giúp phát triển ngành sản xuất phụ tùng ôtô. Sở dĩ ôtô Nhật Bản được ưa chuộng như vậy là vì tính ưu việt hơn so với các hãng ôtô khác? Một lý do thường được đưa ra trước đây là xe Nhật nhỏ gọn, ít tốn nhiên liệu và giá thành hợp lý, tiết kiệm nhiên liệu, ít trục trặc. Điều đó chứng tỏ quản lý chất lượng của các công ty Nhật rất tốt. Do sự liên kết cùa các hãng sản xuất ô tô Nhật với các công ty hàng đầu của các nước công nghiệp tiên tiến và việc thiết lập mối quan hệ hợp tác và sản xuất với công ty của nhiều nước đang phát triển, trong đó có các nước thuộc khu vực châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Philippin, v,v…cũng dẫn đến sự thành công của công nghiệp ô tô Nhật. Trong số 11 hãng sản xuất ôtô của Nhật Bản, đến 8 hãng có mặt tại Việt Nam là Toyota, Hino, Isuzu, Mitsubishi, Suzuki, Mazda, Daihatsu và Công ty công nghiệp nặng Fujijyuko. Ngoài các chiến lược liên kết giữa các công ty và cố gắng hạ giá thành, có thể nói việc chuyển sang hướng sản xuất các loại xe hiện đại và không gây tác hại cho môi trường là chìa khóa cho sự sống còn của các hãng xe hơi trong cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Thêm vào đó còn không ngừng ngiên cứu nhằm sản xuất ra nhiều loại xe mới hiện đại hơn để không bị tụt hậu so với thị trường. Các nhà kinh doanh biết nắm bắt thị trường. Tại thời điểm hiện tại bắt đầu vào cuối năm 2007 tới những tháng đầu năm 2008 ở các nước Đông Nam Á ôtô Nhật tiêu thụ rất mạnh mẽ nhất là tại Thái Lan và không có gì là bất ngờ khi đánh giá rằng Thái Lan trở thành “sân sau của nền công nghiệp ôtô Nhật Bản”. Khu vực Đông Nam Á trong đó có Việt Nam là khu vực đang phát triển rất năng động, chính vì vậy các nước phát triển ngành công nghiệp ôtô không dại gì mà bỏ qua một thì trường tiềm năng như vậy, và đương nhiên các ông chủ thông minh, nhạy bén với thị trường của Nhật cũng sẽ không bao giờ để cơ hội vuột mất một cách dễ dàng. Chính điều này tạo nên sự cạnh tranh khốc liệt về thị trường xe hơi, không ngừng giảm giá và cải tiến kĩ thuật, điều đó mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng nhưng đặt ra với các nhà sản xuất trong các nước ĐNA là một tương quan lực lượng không cân xứng, sự thua kém có thể sẽ trượt dài hơn về mọi mặt, điều quan trọng cần tận dụng được lợi thế cả nội lực và ngoại lực phát triển một cách nhanh nhưng bền vững nhất. Ngành công nghiệp điện tử: Ngành công nghiệp điện tử của Nhật Bản là một trong những ngành lớn nhất và tiên tiến nhất trên thế giới, phát triển vô cùng nhanh chóng từ sau Thế chiến 2. Đây cũng là một ngành đóng vai trò quan trọng và quyết định nhất trong cơ cấu ngành công nghiệp của Nhật. Nhờ một loạt những nỗ lực của chính phủ Nhật Bản, ví dụ như hạn chế đầu tư vốn nước ngoài, đề ra những biện pháp thuế đặc biệt nhằm thu hút đầu tư, khuyến khích thành lập các dự án nghiên cứu và sản xuất, v.v… ngành công nghiệp điện tử có mức phát triển 20% trong 10 năm liên tục kể từ năm 1955, và rồi đạt tới mức cạnh tranh quốc tế vào năm 1965. Đứng đầu ngành này là 3 hãng sản xuất điện tử lớn (Hitachi, Toshiba, Mitsubishi Electric), 4 hãng sản xuất đồ điện dân dụng (Matsushita Electric, Sanyo Electric, Sony, Sharp) và 3 hãng sản xuất thiết bị viễn thông (Nec, Fujitsu, Oki Electric) Lý do giúp Nhật Bản đứng đầu thế giới về ngành sản xuất hàng điện tử: Công ty Nhật có ưu điểm là rất giỏi về ứng dụng kỹ thuật, đặc biệt là sản xuất đồ điện-điện tử có chất lượng cao và với số lượng lớn. Những chiếc máy với hình thức đẹp, ngày càng trở nên nhỏ gọn, và có mức giáï phải chăng… . Công nghiệp rô bốt Hiện nay công nghiệp robot của Nhật đã rất quen thuộc với các nước trên Thế giới với hệ thống những chú robot thông minh có thể nghe và hiểu được những ngôn ngữ cơ bản của người, có thể thực hiện được những công việc theo ý muốn con người. Đó là những robot phục vụ cho cuộc sống con người như robot giúp việc, robot vệ sinh đường phố, khách sạn....những chú robot này được dùng nhiều cho việc chăm sóc người già, và giúp việc cho các gia đình có con nhỏ. Ngoài ra chế tạo ra những robot tự động hoá trong công nghiệp cũng được ứng dụng mạnh mẽ. Sản xuất robot công nghiệp tại Nhật Bản đạt kim ngạch hơn 300 tỉ yen vào năm 1985 rồi lên tới hơn 600 tỉ yen vào năm 1991. Do suy thoái kinh tế, kim ngạch giảm xuống còn 400 tỉ yen vào năm 1993. Trong tương lai, có lẽ nhu cầu robot công nghiệp sẽ gia tăng đáng kể trong các ngành phi sản xuất, ví như năng lượng hạt nhân, phát triển đại dương, kỹ thuật dân sự, cũng như trong các ngành dịch vụ như y tế, giao thông vận tải, nhà hàng-khách sạn, hoặc giáo dục và các hoạt động xã hội cũng như cá nhân khác. Theo số liệu thống kê năm 1995 của Hiệp hội robot Nhật Bản, 49% robot công nghiệp được sử dụng trong ngành sản xuất máy móc điện tử, 18% trong ngành sản xuất ôtô, 6% trong ngành xử lý và làm khuôn, 5% trong ngành chế tạo máy móc, 4% trong ngành thép, 4% trong ngành thực phẩm. Ngoài ra, robot cũng được sử dụng trong các ngành hóa chất, máy chính xác, gốm, giấy, nông nghiệp và lâm nghiệp, v,v… cho thấy robot công nghiệp phổ biến trong nhiều lĩnh vực ở Nhật Bản. Nhật Bản còn xuất khẩu robot sang nhiều nước khác. Năm 1995, do nhu cầu trong nước giảm, xuất khẩu chiếm tới 48% tổng sản lượng. Con số xuất khẩu có lẽ sẽ khoảng 25% vào năm 2000 và 19% vào năm 2005. Hiện tại 40% robot xuất khẩu của Nhật Bản là sang Mỹ, chủ yếu cho 3 hãng sản xuất ôtô lớn, ngoài ra dùng trong các ngành điện tử và điện dân dụng. Tại châu Á, robot Nhật Bản được xuất sang Hàn Quốc, Đài Loan, Xinhgapo, Trung Quốc, Malaixia, Hong Kong, Indonesia, v,v… Xuất khẩu sang Việt Nam bắt đầu vào năm 1995 với 1 robot hàn. Năm 1996, số lượng xuất khẩu sang Việt Nam tăng lên 18 robot - trong đó 13 robot cho ngành lắp ráp và 5 robot để chế tạo khuôn, và trong năm 97 lên tới 39 chiếc (23 robot lắp ráp, 14 robot tạo khuôn, 1 robot hàn và 1 robot đúc). Lý do giúp Nhật phát triển mạnh ngành công nghiệp robot: Chính phủ Nhật Bản rất chú trọng khuyến khích phổ biến sử dụng, nghiên cứu và phát triển robot tại Nhật, nhất là kể từ năm 80, bằng các biện pháp như lập cơ cấu cho vay dài hạn với lãi xuất thấp để khuyến khích đầu tư vào các thiết bị tiết kiệm nhân lực, lập một cơ cấu thuế để khuyến khích đầu tư vào thiết bị hiện đại trong các công ty vừa và nhỏ, trợ cấp đặc biệt cho những công ty vừa và nhỏ sử dụng robot công nghiệp để đảm bảo an toàn lao động, thực hiện chương trình ưu đãi nghiên cứu công nghệ cao, v,v…Bên cạnh đó có thể kể đến yếu tố nhân công thiếu hụt cực kì trầm trọng ở Nhật buộc đất nước này phải đẩy nhanh việc “phổ cập” robot , khiến nó ứng dụng sâu sắc vào cuộc sống người Nhật như ngày nay. Nhập khẩu: Do hạn chế về tài nguyên thiên nhiên để duy trì sự phát triển của nền kinh tế, Nhật Bản phải phụ thuộc vào các quốc gia khác về phần nguyên liệu vì vậy đất nước này nhập khẩu rất nhiều loại hàng hóa đa dạng. Đối tác nhập khẩu chính của Nhật là Trung Quốc 21%, Hoa Kỳ 12.7%, A Rập Xê Út 5.5%,UAE 4.9%, Australia 4.7%, Hàn Quốc 4.7% và Indonesia 4% (số liệu 2005). Những mặt hàng nhập khẩu chính của Nhật Bản là máy móc, thiết bị, chất đốt, thực phẩm (đặc biệt là thịt bò), hóa chất, nguyên liệu dệt may và những nguyên liệu cho các nghành công nghiệp của đất nước. Nhìn chung, đối tác buôn bán tổng thể lớn nhất của Nhật Bản là Trung Quốc. Quốc gia Tỷ trọng (%) Trung Quốc 21 Hoa Kỳ 12.7 A Rập Xê Út 5.5 UAE 4.9 Australia 4.7 Korea 4.7 Indonesia 4 Bên cạnh đó thuỷ sản, dệt may, đồ gỗ, rau hoa quả, hàng thủ công mỹ nghệ bao gồm gốm sứ, mây tre lá,… cũng là những ngành có khối lượng nhập khẩu lớn ở Nhật. Gốm sứ: Bao thế kỷ qua, người Nhật đã làm đố gốm, đồ sứ ở nhiều nơi trên khắp đất nước. Dù chịu ảnh hưởng của Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên, nhưng gốm sứ Nhật phát triển theo phong cách rất riêng, độc đáo và đầy tính sáng tạo. Phong phú các chủng loại, đa dạng màu sắc và kiểu dáng, tinh tế ở độ nhẵn trên bề mặt. Mặc dù gốm sứ Nhật đa dạng về mẫu mã, nhưng người Nhật cũng có xu hướng ưa chuộng gốm sứ ngoại do thói quen thích trang trí nhà cửa, thích tặng quà cho nhau. Đây là mặt hàng có tiềm năng phát triển rất lớn tại thị trường Nhật. Nhập khẩu đồ gốm sứ của Nhật đang tăng rất mạnh trong những năm gần đây (năm 1996 nhập khẩu đồ gốm tăng tới 40% s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích MT Nhật và đưa ra phương thức kdqt mặt hàng gốm sứ vào Nhật.doc
Tài liệu liên quan