Đề tài Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở ngân hàng công thương hoàn kiếm

Lời mở đầu 1

Chương I 3

Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng 3

I- Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 3

1/ Khái niệm về Ngân hàng thương mại. 3

2- Vai trò của Ngân hàng thương mại . 3

2.1.Ngân hàng tạo ra tín dụng giúp cho nhà kinh doanh có điều kiện mở rộng sản xuất . 3

2.2- Ngân hàng giúp cho các tổ chức sản xuất kinh doanh quản lý doanh nghiệp có hiệu quả. 4

2.3- Ngân hàng khích lệ sự tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và dân cư. 4

2.4- Ngân hàng giúp cho nền kinh tế phân bổ vốn giữa các vùng trong một quốc gia tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của đất nước. 5

2.5- Ngân hàng góp phần chống lạm phát và là một trong những công cụ quản lý Nhà nước có hiệu quả tạo nên sự công bằng và ổn định. 5

2.6-Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa trong nước và thế giới bên ngoài tạo nên môi trường quyết định phát triển ngoại thương, công nghiệp và các ngành có liên quan . 5

3- Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại . 6

3.1- Huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế và cá nhân. 6

3.2- Nghiệp vụ đầu tư tín dụng. 7

3.3- Nghiệp vụ thanh toán 7

3.4-Tham gia vào hoạt động thị trường hối đoái . 8

3.5- Tham gia vào hoạt động trên thị trường chứng khoán. 8

3.6- Thực hiện các dịch vụ đối với khách hàng . 8

II- Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng . 9

1/ Khái niệm về rủi ro. 9

2- Các loại rủi ro chủ yếu mà ngân hàng thương mại thường gặp. 10

2.1- Rủi ro thuần tuý. 10

2.2- Rủi ro lãi suất: 10

2.3- Rủi ro tín dụng. 10

2.4- Rủi ro hối đoái. 11

2.5- Rủi ro nguồn vốn 11

3- Rủi ro tín dụng 12

3.1- Thực trạng về rủi ro tín dụng ở các Ngân hàng thương mại. 12

3.2- Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng . 15

3.2.1. Nguyên nhân khách quan. 15

3.2.2- nguyên nhân chủ quan. 16

3.3- Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng 19

3.3.1. Nợ quá hạn 19

3.3.1.1- các loại nợ quá hạn. 20

3.3.1.2- Nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn. 21

3.3.2- Một số dấu hiệu khác. 23

3.4- Tác hại của rủi ro tín dụng. 24

3.5. Đo lường rủi ro . 25

Chương II 27

Thực trạng rủi ro tín dụng ở Ngân hàng công thương hoàn kiếm 27

I- Tổng quan về ngân hàng công thương hoàn kiếm 27

II- Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. 29

1- Tình hình huy động vốn. 29

2- Tình hình sử dụng vốn. 31

2.1- Sự biến động về dư nợ 31

2.2- Cơ cấu cho vay. 33

3- hiệu quả sử dụng vốn. 35

4- hiệu quả sử dụng vốn. 35

III- rủi ro tín dụng ở ngân hàng công thương hoàn kiếm. 36

1- Nợ quá hạn. 36

2- Nguyên nhân gây nên tình trạng nợ quá hạn cao ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. 40

2.1- nguyên nhân khách quan. 40

2.1.1- Môi trường kinh tế của việt nam chưa lành mạnh. 40

2.1.2- môi trường pháp lý không thuận lợi 41

2.1.3- nguyên nhân từ phía người vay 41

2.1.3.1. Năng lực của khách hàng yếu kém. 41

2.1.3.2- Rủi ro do thiếu thông tin 42

2.1.3.3- rủi ro do thiếu thích nghi với cạnh tranh. 43

2.1.3.4 Tư cách người vay kém. 43

2.1.4 Một số nguyên nhân khác 44

2.2 Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng 45

2.2.1 Cho vay không đúng nguyên tắc. 45

2.2.2 Kiểm tra kiểm soát không tốt 45

2.2.3-Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp. 46

2.2.4- Ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận, mở rộng kinh doanh tín dụng một cách quá tải. 47

2.2.5- Thông tin tín dụng không đầy đủ. 47

3- Kết quả thu hôi nợ quá hạn ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. 48

4. Các biện pháp mà NHCT Hoàn kiếm đã áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. 48

4.1- Công tác tổ chức cán bộ. 49

4.2- Chú trọng công tác đánh giá khách hàng. 49

4.4 Đặc biệt, bước sang năm 2002, NHCT Hoàn Kiếm có những bước thay đổi rõ rệt trong công tác đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng. Phòng kinh doanh thường xuyên cử người đi học các lớp nâng cao nghiệp vụ quản lý tín dụng, phòng ngừa rủi ro, thường xuyên tổ chức các buổi giảng dạy, học chế độ kế toán mới áp dụng cho các đơn vị kinh tế nhằm nâng cao trình độ hiểu biết cho cán boọ tín dụng, tránh xảy ra những sai lầm không đáng có trong quá trình cho vay. 49

4.5 Ngăn ngừa các khoản vay khó đòi và tổn thất tín dụng. 50

4.6- Công tác thu hồi nợ quá hạn, xử lí các khoản nợ khó đòi. 50

chương III 52

giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm 52

I/ Giải pháp chung cho toàn bộ hệ thống NHTM. 52

1- Tổ chức hợp lý và khoa học quy trình cho vay. 52

2. Các giải pháp an toàn đối với nợ quá hạn. 54

3- Thế chấp không phải là chỗ dựa vững chắc cho khoản tiền vay 57

4- Nhân tố con người. 58

II- Một số kiến nghị đối với các cơ quan chức năng (Chính phủ, ngân hàng nhà nước, cơ quan pháp luật.) 60

1- Hình thành quỹ bảo hiểm tín dụng. 60

2- Tăng cường hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng (CIC) 60

3- Cần phải hoàn thiện văn bản pháp luật về tài sản thế chấp. 61

4- Các biên pháp khác. 62

III- Một số kiến nghị với Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh. 62

1- Tăng cường tổ chức hoạt động kiểm soát nội bộ ngân hàng. 62

2- Công tác tổ chức cán bộ. 63

3- Công tác thu hồi nợ quá hạn. 63

4- Chế độ khen thưởng với cán bộ tín dụng. 64

5- Thực hiện nghiêm túc các qui chế tín dụng. 64

Kết luận chung 66

tài liệu tham khảo 67

 

 

doc70 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1079 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở ngân hàng công thương hoàn kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh vẫn là khu vực nhiều rủi ro hơn nên ngân hàng luôn tìm cách thu hút khách hàng là các doanh nghiệp lớn về phía mình. Năm 2000, 2001 Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã rất thành công, kéo được nhiều khách hàng quốc doanh lớn như: Tổng công ty xây dựng Sông Đà, Công ty dịch vụ khách sạn Hồ Tây, Tổng công ty lắp máy Việt Nam, Tổng công ty rau quả Việt Nam... làm cho tỷ trọng cho vay khu vực quốc doanh tăng nhanh đến trên 70% tổng dư nợ. 2- Số lượng khách hàng có quan hệ vay vốn. - Kinh tế quốc doanh - Kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì số doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH cũng chỉ chiếm một phần nhỏ, còn lại là tư nhân và hộ cá thể (chiếm 90 - 95% trong tổng số). Với cơ cấu khách hàng mà đại đa số là kinh tế ngoài quốc doanh, còn khu vực kinh tế quốc doanh chỉ chiếm vị trí thứ yếu như vậy đã tác động lớn tới hoạt động của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. trong những năm qua Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã phải trăn trở vật lộn để tìm ra con đường thích hợp, mang lại chất lượng, hiệu quả, an toàn cho hoạt động tín dụng của họ; tìm kiếm, lôi kéo thêm những khách hàngthuộc khối kinh tế quốc doanh đồng thời sàng lọc, giám sát và có quy định chặt chẽ với khách hàng vay vốn là tư nhân, hộ cá thể, HTX... Bởi vì qua nghiên cứu từ thực tế những năm trước cho thấy: - Số lượng khách hàng vay vốn có hệ thống sổ sách kế toán (doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh) vốn dĩ đã ít, lại có quy mô nhỏ, vốn tự có thấp để hoạt động sản xuất kinh doanh được các đơn vị này phải dựa vào phần lớn vốn vay của ngân hàng. Mặt khác, các doanh nghiệp này đã số hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ đây là lĩnh vực rất nhậy cảm với nhu cầu thị trường do đó chịu ảnh hưởng nhiều của biến động về môi trường kinh doanh. Với năng lực tài chính nghèo nàn, thêm vào đó năng lực quản lý kinh doanh còn non lớt yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tế nên các doanh nghiệp rất khó có thể đạt được hiệu quả kinh tế cao. - Số lượng khách hàng vay vốn của Ngân hàng không phải là đơn vị hạch toán kế toán lại chiếm đa số (tư nhân và hộ các thể chiếm 82% năm 1999; 80% năm 2000 và 75% năm 2001). loại hình kinh doanh này rất phức tạp, khó có thể dự đoán được tình hình tài chính của họ nên việc cho vay với các khách hàng thuộc đối tượng này là phức tạp, mạo hiểm đòi hỏi cán bộ tín dụng phải linh hoạt nhạy bén, có phương pháp hữu hiệu đối với từng khách hàng cụ thể. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn phức tạp, còn có nhiều sai sót cũng như thất bại song không thể không công nhận răng trong những năm gần đây Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã có những chuyển biến tích cực nhanh nhạy với yêu cầu đổi mới của nền kinh tế quốc dân nói chung và ngành Ngân hàn nói riêng. thông qua việc mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã đẩy mạnh công tác huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất lưu thông và kinh doanh dịch vụ trên địa bàn quận ngày một tốt hơn. II- Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. 1- Tình hình huy động vốn. Xuất phát từ nguyên tắc của Ngân hàng là "đi vay để cho vay", công tác huy động vốn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm luôn được quan tâm đúng mức, chỉ đạo kịp thời, chính xác, nhịp nhàng ăn khớp với sự biến động về cho vay. Qua phân tích tình hình huy động vốn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm trong 3 năm 1999, 2000, 2001 ta thấy rằng với hệ thống huy động vốn bao gồm 10 quỹ tiết kiệm, 3 phòng giao dịch và một trụ sở chính, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã rất năng động trong việc huy động vốn. Biểu hiện cụ thể là: - Nguồn vốn huy động bình quân tăng nhanh trong 3 năm. năm 2000 nguồn vốn tăng so với 1999 là 29268 triệu, năm 2001 tăng so với 2000 là 15949 triệu. Trên thực tế nguồn vốn huy động của ngân hàng không những đáp ứng kịp thời tiến độ cho vay và thanh toán giao dịch của Ngân hàng đang trên đà phát triển mà còn có một khối lượng lớn vốn dư thừa nhằm bổ sung cho nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương Việt Nam dưới hình thức cho vay điều hoà vốn. - Cơ cấu nguồn vốn huy động của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm sau so với năm trước tỏ ra hợp lý hơn, cho phép ngân hàng hạ lãi suất đầu vào xuống mức thấp nhất có thể được và chủ động trong việc sử dụng vốn. Ngân hàng huy động vốn chủ yếu bằng cách nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức, cá nhân và dân cư (thường phần này chiếm 80 - 90% vốn huy động), tiền gửi của khách hàng để giao dịch ngày một tăng lên, chứng tỏ dân cư ngày càng hiểu biết và tin tưởng vào ngân hàng hơn (tiền gửi của khách hàng đã tăng từ 13% năm 1999 lên đến 38% năm 2001 tức là tăng gần 3 lần). Thông thường kỳ phiếu ngân hàng có mức lãi suất huy động cao hơn so với lãi suất tiền gửi ngân hàng lên huy động bằng kỳ phiếu chỉ áp dụng trong những trường hợp ngân hàng có nhu cầu cấp bách về vốn. Thực tế nguồn vốn huy động bằng kỳ phiếu chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn huy động: Năm 1999 là 0,3% đến năm 2000 chỉ còn 0,18%. Nhưng năm 2001 nguồn tiền huy động bằng kỳ phiếu đã tăng lên nhiều đạt 0,78% (vì năm 2000 nợ quá hạn của ngân hàng rất lớn không đòi được làm cho quỹ tiền cho vay giảm nhiều trong khi đó ngân hàng lại cần có tiền để vực mình lên do đó phải phát hành kỳ phiếu với tổng số lượng tiền lớn ). Sở dĩ có được nguồn vốn huy động lớn như trên một phần do vị trí địa bàn hoạt động của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm mang laị. Quận Hoàn Kiếm là nơi đông đúc dân cư, phần nhiều làm nghề buôn bán do đó các hộ hầu hết thuộc loại kinh tế trung bình và giàu có, ít có hộ nghèo tạo điều kiện dễ dàng trong việc huy động vốn cũng như cho vay. Tính đến thời điểm cuối năm 2001, dư có huy động của chi nhánh đạt khoảng gần 600 tỷ đồng, tính trung bình là 500 tỷ. Trong đó, nguồn huy động của dân cư lên đến gần 300 tỷ, còn lại là từ các nguồn khác. Rõ ràng nguồn đầu vào của chi nhánh là rất lớn so với các ngân hàng khác đến nỗi hầu như Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm không bao giờ sử dụng hết phải điều chuyển vốn về NHCT TW chứ không rơi vào tình trạng khó khăn như nhiều ngân hàng thiếu vốn cho vay. 2- Tình hình sử dụng vốn. Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn, đầu tư vốn đã huy động được vào đâu cho có hiệu quả là vấn đề mang tính sống còn đem lại lợi nhuận chủ yếu cho nhà ngân hàng. Thời gian qua Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếmđã áp dụng nhiều hình thức cho vay đa dạng và phong phú như cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn, cho vay vốn đặc biệt, cho vay tài trợ uỷ thác các dự án (dự án RAP, EC, KFW ...) nhằm khai thác triệt để nhu cầu tín dụng của khách hàng của mọi thành phần kinh tế. Đặc biệt trong chiến lược kinh doanh tín dụng của mình, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã rất chú trọng đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh - một hướng phát triển hoàn toàn đúng đắn, biểu hiện sự phù hợp giữa điều kiện thực tế của ngân hàng với đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng việc thực hiện tín dụng với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở nưóc ta nói chung là rất phức tạp. Để thành công trong lĩnh vực này yêu cầu đầu tiên là ông chủ ngân hàng phải có tinh thần trách nhiệm cao, năng lực quản lý kinh doanh giỏi và phải có trong tay đội ngũ cán bộ tín dụng lành nghề, có tư cách đạo đức tốt. Thực tế về sự đổ vỡ ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm năm 2000 đã phản ững rõ điều này. 2.1- Sự biến động về dư nợ Khối lượng tín dụng nhìn chung là tăng lên qua các năm kể từ năm 1999 đến năm 2001 và đầu năm 2002. Năm 1999, dư nợ tín dụng là 213 tỷ đồng thì đến năm 2001 con số này đã tăng lên đến 353 tỷ, tức là đã tăng 65% so với năm 1999, tương đương 140 tỷ đồng. Việc dư nợ tín dụng tăng lên như vậy chủ yếu là do sự gia tăng của tín dụng ngắn hạn. Đặc biệt năm 2001, tín dụng ngắn hạn đối với khu vực kinh tế quốc doanh đã tăng lên một cách chóng mặt: Từ 4 tỷ năm 2000 đã đạt tới 187 tỷ năm 2001 (tăng gấp hơn 46 lần). điều này cho thấy chiến lược khách hàng của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã có sự thay đổi cơ bản, ngân hàng chuyển hướng từ cho vay phần lớn là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sang cho vay nhiều đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Ta thấy được diễn biến phức tạp trong hoạt động kinh doan tín dụng của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm: - Năm 1999: Ngân hàng đang ở đỉnh cao của sự thành công do đó hầu hết các loại hình cho vay đều tăng (thể hiện ở sự chênh lệch % của năm 1999 so với 1998 đều mang dấu "+"). Duy chỉ có khoản cho vay tài trợ uỷ thác và cho vay vốn đặc biệt là giảm. Từ năm 1999 ngân hàng không còn áp dụng hình thức cho vay vốn đặc biệt nữa mà chỉ còn món nợ quá hạn của loại hình nàydo các năm trước để lại. - Năm 2000: Cả cho vay ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn đều giảm. Cho vay ngắn hạn giảm 13%, cho vay trung và dài hạn giảm 23% khiến cho tổng dư nợ cho vay cũng giảm 14%. lý do cơ bản của sự sụt giảm này là sau cơn khủng hoảng và đổ bể của ngân hàng năm 1999 để lại. Do đó cán bộ tín dụng không giám cho vay co cụm lại, khách hàng thì không muốn quan hệ với ngân hàng. - Năm 2001 : Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm dần dần lấy lại được phong độ và tinh thần, thể hiện ở dư nợ tín dụng tăng gấp gần 2 lần so với năm 2000 trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn tăng hơn 100% còn dư nợ cho vay chung và dài hạn cũng tăng gần 50%. Điểm đặc biệt cần lưư ý ở đây là trong cơ cấu cho vay thì khoản vay của doanh nghiệp nhà nước là rất lớn (đạt 187 tỷVNĐ) Còn cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh (đặc biệt là tư nhân và hộ cá thể) được hạn chế và kiểm soát chặt chẽ tránh gây ra những rủi ro không đáng có như các năm trước. Có thể kể ra đây một số nguyên nhân chính dẫn tới dư nợ tín dụng tăng với tốc độ cao như vậy: * Nguyên nhân thứ nhất: là trong những năm gần đây tốc độ phát triển kinh tế ở nước ta khá cao, sản xuất kinh doanh trở nên sôi động hơn nhất là trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ. Mặt khác, do thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã có những bước phát triển đáng kể khiến cho nhu cầu tín dụng ngân hàng có su hướng tăng lên. đặc biệt đối với quận Hoàn kiếm - Một trung tâm văn hoá kinh tế thương mại và dịch vụ lớn của cả nước thì sự gia tăng về nhu cầu tín dụng trong thời gian qua là rất dễ thấy. * Nguyên nhân thứ 2: Dẫn đến sự gia tăng về tín dụng ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếmphải kể đến sự thay đổi về cơ chế quản lý lãnh đạo và chiến lược của Ngân hàng . Từ quý III /2000 ban lãnh đạo mới lên kế nhiệm đã thay đổi cách nghĩ, cách làm với phương châm "lùi một bước để tiến hai bước", đã bám sát vào những quy chế tín dụng, cương quyết loại bỏ những khách hàng mạo hiểm, tích cực mở rộng lôi kéo các doanh nghiệp nhà nước về phía mình. Do đó dư nợ tín dụng của năm 2001 đã tăng lên nhiều như vậy. 2.2- Cơ cấu cho vay. Xem xét về cơ cấu cho vay ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm trong giai đoạn vừa qua ta thấy nổi bật nên một số điểm sau: * Thứ nhất: Xét theo thành phần kinh tế. Do có những nét đặc thù riêng về phạm vi, địa bàn hoạt động, về đối tượng khách hàng, về môi trương kinh doanh... mà trong cơ cấu tín dụng của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, sự phân bố giữa tín dụng cho khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh không đồng đều. xét giai đoạn từ năm 2000 trở về trước thì khách hàng vay vốn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm chủ yếu là tư nhân, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH: Chiếm 91% năm 1999 và 90% năm 2000. Cho vay đối với các khách hàng này bên cạnh những ưu điểm lớn lại bộc lộ nhiều hạn chế, dễ ràng cho ngân hàng khi tìm kiếm khách hàng vay song lại là mạo hiểm bởi vì thông thường các đối tượng thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hoạt động nhỏ bé, chế độ sổ sách kế toán không chặt chẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc thẩm định, kiểm tra giám sát. mặt khác họ có những thủ thuận lừa đảo tinh vi, khôn khéo và bài bản hơn so với các doanh nghiệp Nhà nước. Song kể từ cuối năm 2000 đầu năm 2001 khi ban lãnh đạo mới lên thay thế, đối mặt với những đổ vỡ thất bại của năm trước, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếmđã chuyển hướng từ cho vay chủ yếu đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sang cho vay nhiều đối với kinh tế quốc doanh. Cho đến nay, ngân hàng đã kéo được một số công ty lớn về mở tài khoản giao dịch ở ngân hàng làm cho dư nợ tín dụng đối với khu vực này tăng lên nhiều lần. Cụ thể hãy xem xét các số liệu sau: Dư nợ cho vay tính đến quý I/2002 của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. 1- Tổng công ty đường sông miền bắc: 1.856 triệu đồng 2- Tổng công ty than Việt Nam: 119.968 triệu đồng 3- Tổng công ty Sông đà : 14.669 triệu đồng 4- Tổng công ty lắp máy Việt Nam : 25.230 triệu đồng 5- Tổng công ty Hồ tây: 2.097 triệu đồng 6- Tổng công ty công nghiệp tàu thuỷ: 1.770 triệu đồng 7- Tổng công ty rau quả Việt Nam: 5.646 Triệu đồng Từ chỗ chỉ chiếm 9 - 10% doanh số cho vay trong các năm trước, đến năm 2001 doanh số cho vay đối với kinh tế quốc doanh đã lên tới 85% tổng doanh số cho vay cuả ngân hàng. Phải công nhận rằng đây là thành công đáng khích lệ và phát huy của tập thể cán bộ và nhân viên Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Hiện nay Ngân hàng vẫn duy trì chiến lược này nhằm đảm bảo an toàn hơn cho nguồn vốn cho vay. * Thứ hai: Theo thời hạn tín dụng Ta thấy ngay tín dụng cho vay của ngân hàng hầu như tập trung hết vào cho vay ngắn hạn. Trong cả 3 năm 1999, 2000, 2001 thì không có năm nào cho vay tín dụng ngắn hạn ở mức dưới 90%. Điều này cũng tương đối dễ hiểu vì khách hàng của Ngân hàng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại và dịch vụ, sản xuất rất ít nên vốn lưu chuyển nhanh, khách hàng chỉ cần vay trong một thời gian ngắn là đã có thể thu hồi lại vốn để trả nợ Ngân hàng và khi cần sẽ vay món mới tạo điều kiện cho vốn lưu chuyển nhanh có hiệu quả. Mặt khác, kahchs hàng của NHCT Hoàn kiếm thuộc đối tượng kinh tế quốc doanh ít, và nếu có thì cũng chủ yếu là các đơn vị kinh doanh nên các dự án cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng rất nhỏ (chỉ từ 5-10%) . Xem xét dư nợ tín dụng ta còn thấy một vấn đề nổi lên đó là: Các đơn vị vay vốn chủ yếu xin vay bằng nội tệ, vạy bằng ngoại tệ không đáng kể (thông thường cho vay bằng ngoại tệ chiếm từ 15-20%, cá biệt năm 1999 chỉ có 5% vốn cho vay bằng ngoại tệ). Điều này chứng tỏ rằng hoạt động ngoại tệ chưa phải là hoạt động sôi động của ngân hàng. Chỉ có các khách hàng (mà chủ yếu là KTQD) có quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá, thiết bị nguyên vật liệu với các công ty nước ngoài mới cần vay ngoại tệ, mà số khách hàng đó đóng trên địa bàn quận Hoàn kiếm rất ít hoặc nếu có các doanh nghiệp này lại quan hệ với Hội sở chính của Ngân hàng công thương Việt Nam hay Ngân hàng ngoại thương. Hơn nữa, do quy chế quản lý ngoại hối của ngân hàng Nhà nước Việt nam khá chặt chẽ nên việc trao đổi và vay mượn ngoại tệ còn gặp nhiều khó khăn khiến cho khách hàng chưa thích thú và còn hạn chế toói đa các hoạt động liên quan đến ngoại tệ. * Thứ ba: Theo ngành kinh tế, theo các báo cáo tổng hợp tín dụng của Ngân hàng thì khối lượng tín dụng cho ngành thương mại và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao (thông thường lớn hơn 50%) trong tổng dư nợ, trong khi đó khối lượng tín dụng cho sản xuất (công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) chỉ chiếm khoảng từ 12% - 18%, tiếp theo là tín dụng đối với ngành xây dựng chiếm tỷ trọng từ 6% - 12%, số còn lại là khối lượng tín dụng thuộc các ngànhkinh tế khác, và một bộ phận tín dụng không phân loại. 3- hiệu quả sử dụng vốn. thông qua việc phân tích tình hình huy động và cho vay vốn của kcho ngành thương mại và dịch vụ chiếm tỷ trọng cao (thông thường lớn hơn 50%) trong tổng dư nợ, trong khi đó khối lượng tín dụng cho sản xuất (công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) chỉ chiếm khoảng từ 12% - 18%, tiếp theo là tín dụng đối với ngành xây dựng chiếm tỷ trọng từ 6% - 12%, số còn lại là khối lượng tín dụng thuộc các ngànhkinh tế khác, và một bộ phận tín dụng không phân loại. 4- hiệu quả sử dụng vốn. thông qua việc phân tích tình hình huy động và cho vay vốn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, chúng ta có thể khái quát đwocj kết quả hoạt độngkinh doanh của ngân hàng này bằng việc tính toans chỉ tiêu "hiệu quả sử dụng vốn", chúng ta có thể phản ánh tình hình huy động và cho vay của mỗi ngân hàng. Chỉ tiêu này được tính như sau: Hiệu quả = Nguồn vốn huy động bình quân sử dụng vốn Dư nợ bình quân Như vậy trong cả 3 năm 1999, 2000, 2001 Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếmnhìn chung làm ăn chưa đạt hiệu quả cao. Hiệu quả sử dụng vốn của ngân hà mới chỉ ở mức trên 50%. Vốn huy động được mà không thể cho vay khiến cho các ngân hàng chịu tổn thất lớn vì nguồn huy đôngj vẫn phải trả lãi cao trong khi số tiền này không cho vay được phải đem gửi vào Ngân hàng Nhà nuức hưởng lãi xuất thấp. nguyên nhân cũng một phần ảnh hưởng bởi tình hình chung của toàn ngành Ngân hàng. đặc biệt ở các năm 2000 và 2001, toàn bộ hệ thống ngân hàng còn tồn gần 3000 tỷ đồng, mặc dù lãi suất cho vay bình quân giảm 0,1% so với lãi suất trần quy định. III- rủi ro tín dụng ở ngân hàng công thương hoàn kiếm. Rủi ro tín dụng là rủi ro truyền thống của ngân hàng mà trước tiên là người vay không có khả năng thanh toán cả lãi và gốc, sau cùng là vỡ nợ, kế theo là mất khoản tín dụgn và nếu nó lớn, như trường hợp vụ rủi ro bất động sản ở Texas và New England vào những năm 80, thì sau đó cả tổ chức sẽ bị xoá sổ. Rủi ro tín dụng tồn tại bất cứ lúc nào khi tổ chức tài chính (ngân hàng) mở rộng tín dụng trên cơ sở khoản tín dụng đó sẽ được hoàn trả vào một thời điểm trong tương lai. Vì vậy phân tích và kiểm soát tín dụng không những được xem xét ở khả năng hoàn trả gốc và lãi của người đi vay mà còn phân tích các hoạt động khinh doanh và điều hành Nhà ngân hàng cần phải xem xét rủi ro tín dụng một cách trực tiếp và cụ thể hơn. Nghiên cứu hoạt động kinh doanh tín dụng ở Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, trong thời gian qua chúng ta thấy rằng vấn đề cần được quan tâm xem xét nhiều nhất đó là tình trạng nợ quá hạn cao. 1- Nợ quá hạn. Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, do đó trong hoạt động của mình Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm không thể tránh khỏi rủi ro, mà chủ yếu và hàng đầu là rủi ro tín dung. Biểu hiện trực tiếp và đầu tiên của rủi ro tín dụng là tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi. Ta thấy rằng dư nợ quá hạn trong các năm 2000, 2001 tăng nhanh về số tuyệt đối. năm 2000 dư nợ quá hạn là 59 tỷ đồng, tăng hơn 7 lần so với năm 1999. Năm 2001, nợ quá hạn còn cao hơn con số nợ quá hạn lên tới hơn 75 tỷ đồng tức tăng 9 lần so với năm 1999 và 1,3 lần so với năm 2000. Sở dĩ xẩy ra hiện tượng nợ quá hạn cao như vậy là vì Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã chủ quan trong cho vay, quan niệm cho rằng đó là những khách hàng quen thuộc nên không cần giám sát chặt chẽ và giải quyéet cho vay chỉ dựa vào thông tin do khách hàng đó cung cấp thay cho những số liệu tài chính đáng tin cậy. Mặt khác, trong quan hệ tín dụng còn có "mối liên kết đen" giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng nên việc giải quyết cho vay đã hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay để tham ô trục lợi. Nhiều khoản tiền vay đã vi phạm nguyên tắc của tín dụng lành mạnh. Tình trạng nợ quá hạn cao, dù cho đến nay còn khoảng 10% nhưng vẫn là một con số không an toàn chút nào cho nhà ngân hàng. Số nợ này đều nằm trong các khoản cho vay ngoài quốc doanh. Nợ khó đòi phát sinh, khó có khả năng thu hồi, lãi treo, dẫn đến kết quả kinh doanh thua lỗ. Chi phícho quá trình thu nợ lớn, liên quan đến nhiều vụ án. Chỉ tính riêng năm 2001, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếmđã thua lỗ hơn 4 tỷ đồng trong đó chủ yếu là do vẫn phải trả lãi cho vốn huy động trong khi nợ không thu hồi về đwocj, phải bỏ ra nhiều chi phí cho việc giám sát, thu hồi nợ, chi phí cho điều tra vụ án... Từ năm 2000 trở về trước do không có yêu cầu phân loại nợ quá hạn theo thời gian như 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng hay nợ khó đòi mà chỉ phân theo nợ quá hạn theo nội tệ và ngoại tệ đã gây nên khó khăn cho việc theo dõi, khó thấy được tính cấp thiết của các khoản nợ khó đòi. Vì vậy, bắt đầu từ năm 2001, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã thực hiện vệc phân loại nợ quá hạn theo những tiêu thức khác nhau và chi tiết hơn nhiều. Với sự phân loại chi tiết như trên, (bao gồm cả phân loại nợ quá hạn theo nguyên nhân sẽ được đề cập đến ở mục 2.3 )sẽ cho chúng ta thấy được bức tranh toàn cảnh về nợ quá hạn. Nợ quá hạn bình thường chiếm tỷ lệ bao nhiêu? Nợ khó đòi có lớn hay không? bao nhiêu phần trăm phải thu hồi bằng tài sản thế chấp? ... Trong số nợ quá hạn của năm 2001 thì phần lớn là nợ khó đòi (trên 12 tháng), nó chiếm tới 71% tổng dư nợ quá hạn; quí I năm 2002 con số này còn lớn hơn: 79,5%. Cần phải phân chia nợ quá hạn một cách rõ ràng, chi tiết như vậy chúng ta mới thấy được từng nguyên nhân cụ thể gây ra nợ quá hạn để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn và sử lý kịp thời nợ quá hạn. Cuối quý IV năm 2001 chỉ có 10% nợ quá hạn có thể được thu hồi, 11% khó thu hồi và còn lại 79% số nợ quá hạn phải thu hồi bằng cách bán tài sản thế chấp , gây thiệt hại lớn cho ngân hàng vì tài sản thế chấp thường khó bán giá rẻ lại chậm trễ về thời gian trong việc thu hồi vốn làm tăng chi phí, giảm vòng quay vốn dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn bị giảm. Như vậy chúng ta thấy được rằng nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đa số tập chung vào khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Thông thường mức nợ quá hạn của khu vực này chiếm từ 97 đến 99% trong khi khu vực quốc đoanh có nợ quá hạn chỉ chiếm 1 - 3% tổng dư nợ quá hạn mỗi năm. Qua đây thấy rõ việc đầu tư tín dụng vào khối kinh tế ngoài quốc doanh là kém an toàn và kém hiêụ quả hơn nhiều so với việc đầu tư vốn vào các doanh nghiệp Nhà nước. Vì vậy bắt đầu từ năm 2001, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã dùng mọi biện pháp hữu hiệu để mở rộng tín dụng với các doanh nghiệp quốc doanh và hạn chế kiểm soát chặt chẽ công tác cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, tư nhân và hộ cá thể, chỉ cho vay đối với những đơn vị quen thuộc có uy tín với ngân hàng và các đơn vị xét thấy dự án kinh doanh thực sự khả thi, có năng lực tài chính trong việc hoàn trả nợ và có tài sản thế chấp tốt. Cũng thông qua số liệu này ta có thể lý giải vì sao nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm lại cao hơn nhiều so với các Ngân hàng thương mại khác (nợ quá hạn của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm hiện nay chiếm hơn 10% trong khi ở Ngân hàng Công thương đống đa và Ngân hàng Công thương Ba Đình, con số này chỉ là 2.3%, hãn hữu mới có quý lên đến 4-5% ). Mặt khác, nếu xét theo thời hạn của khoản cho vay thì NQH của NHCT Hoàn Kiếm thường tập trung vào khối lượng tín dụng ngắn hạn, NQH của khoản cho vay trung và dài hạn chiếm tỉ trọng nhỏ, không đáng kể (thường từ 7 - 8%). Qua các năm 1999 - 2001, tình trạng nợ quá hạn của khoản cho vay ngắn hạn hầu như không thay đổi bởi lẽ hoạt động tín dụng của NHCT Hoàn Kiếm tập trung phần lớn vào cho vay ngắn hạn, rất ít các dự án trung và dài hạn được xét duyệt cho vay. ở đây có hai lý do cần quan tâm đó là: - Thứ nhất là vè phía Ngân hàng: Việc huy động vốn trung và dài hạn gặp nhiều khó khăn do tích luỹ nội bộ chưa cao, đồng tiền chưa thật ổn định (tỉ giá đang trong quá trình điều chỉnh) nên người dân chưa sthực sự yên tâm gửi tiền vào Ngân hàng, Ngân hàng còn thiếu các công cụ huy động vốn dài hạn và thiếu thị trường thứ cấp để luân chuyển và tạo ra ? thanh khoản dễ dàng của các công cụ này. Mâu thuẫn của mặt bằng lãi suất (lãi suất thường xuyên bị điều chỉnh theo hướng giảm xuống để khuyến khích người vay) đã hạn chế khả năng huy động vốn của NHCT Hoàn Kiếm, từ đó hạn chế khau năng cho vay của họ - Thứ hai là vè phía khách hàng: Do khách hàng của NHCT Hoàn Kiếm chủ yéu hoạt động trên lĩnh vực thương mại - dịch vụ, nên vốn quay vòng nhanh do đó họ chỉ cần vay trong thời gian ngắn khi thu được tiền về thì trả luôn Ngân hàng, nếu cần thiết họ xin vay tiếp. Mặt khác, số DNNN quan hệ với Ngân hàng không nhièu nên còn thiếu các dự án hoạt động trong thời gian dài, nếu có lại không khả thi, không đủ điều kiện vay vốn ở Ngân hàng. *ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của NHCT Hoàn Kiếm. Rủi ro tín dụng đa ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh tín dụng ở NHCT Hoàn Kiếm trong giai đoạn hiện nay.Nó đa để lại hậu quả nặng nề cho đến nay vẫn chưa chấm dứt. -Rủi ro tín dụng làm giảm tương đối lớn tổng lai thu được từ hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng .Tính đến ngày 31-12-2001 tổng lai thu được từ hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng chỉ đạt 32.886 triệu đồng ,giảm so với cùng kỳ năm trước là 30.880 triệu đồng. -Rủi ro tín dụng đa gây sức ép nặng nề về tâm lý đối với hầu hết cán bộ tín dụng của ngân hàng. -Vấn đề nợ quá hạn tồn đọng lớn trong thời gian gần đây ,buộc ngân hàng công thương Hoàn Kiếm phải thành lập “Ban thu nợ” , nên đa gây không ít tốn kém về vật lực và trí lực củangân hàng .Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm đáng kể doanh số cho vay của ngân hàng trong hiện tại. -Rủi ro tín dụng quá lớn ,buộc ngân hàng phải thắt chặt qui chế tín dụng nên rất có thể sẽ bỏ qua những khoản cho vay “hơi mạo hiểm “mả các thời điểm bình thường khác ngân hàng có thể chấp nhận cho vay. 2- Nguyên nhân gây nên tình trạng nợ quá hạn cao

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0370.doc
Tài liệu liên quan