Đề tài Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới - Thực trạng và giải pháp

 

MỤC LỤC

Trang

Lời mở đầu 1

Phần I: TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 2

I- Ngân hàng trung ương 2

II- Vai trò, chức năng của Ngân hàng trung ương 3

1. Ngân hàng trung ương là ngân hàng phát hành 3

2. Chức năng ngân hàng của các ngân hàng 4

3. Chức năng ngân hàng của Nhà nước 4

III- Các vấn đề cơ bản 5

1. Quyền phát hành giấy bạc 5

2. Chính sách chiết khấu 6

3. Chính sách thị trường mở 7

4. Chính sách dự trữ tối thiểu 7

5. Chính sách lãi suất tín dụng 8

Phần II: HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 10

I- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - những bước đi khởi đầu 10

II- Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới - thực trạng và giải pháp 11

1. Về mô hình tổ chức ngân hàng Nhà nước Việt Nam 12

2. Vấn đề xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ 13

3. Về việc điều hành chính sách tỷ giá 16

4. Vấn đề phát hành tiền mặt và hoạt động thanh toán 17

Phần III: ĐÁNH GIÁ CHUNG 19

Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng động. Ngân hàng TW xác định “mức” có lợi trong việc mua bán chứng khoán để cố găng tác động vào số lượng dự trữ của ngân hàng TM nằm ở ngân hàng TW, trên thực tế là tác động vào quy mô cho vay của các ngân hàng TM đối với nền kinh tế và dân cư. Vào bất kỳ thời điểm nào ngân hàng TW cũng có thể mua chứng khoán. Họ sẵn sàng mua khi các khả năng khác để điều chỉnh chứng khoán không còn. Ngân hàng TW không sử dụng độc quyền hành chính về việc bán chứng khoán trong tay mình. Nếu nó cần thực hiện chính sách tiền tệ hạn chế nhằm giảm khả năng thanh toán của các ngân hàng TM thì nó khuyến khích các ngân hàng TM mua chứng khoán trên thị trường mở. Để khuyến khích họ mua, ngân hàng TW phải đưa ra lãi suất có lợi cho các ngân hàng khi mua các chứng khoán này, đối với chứng khoán không có lãi thì phải có khoảng cách lớn giữa thị giá bán và giá trị danh nghĩa. Nếu ngân hàng TW thành công trong việc bán chứng khoán cho ngân hàng TM thì các ngân hàng TM sẽ cho vay ít đi. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, nhưng lại có vai trò rất quan trọng đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và là nguồn chính sách gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ. Đặc điểm của nghiệp vụ này là dễ dàng đảo ngược lại. Khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, ngân hàng TW có thể đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nếu ngân hàng TW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua trên thị trường mở quá nhiều, thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán. 4. Chính sách dự trữ tối thiểu: Một công cụ khác giúp ngân hàng TW điều tiết hoạt động của ngân hàng TM đó là chính sách dự trữ tối thiểu. Tuỳ theo tình hình, luật các nước có cơ chế duy trì mức dự trữ tối thiểu khác nhau, song họ đều theo đuổi một mục tiêu chung- các ngân hàng TM bắt buộc phải để lại một phần tiền huy động tại ngân hàng TW. Chính sách dự trữ tối thiểu bắt buộc xuất phát từ yêu cầu đảm bảo khả năng thanh toán tiền mặt khi cần thiết của ngân hàng TM . Hiện nay qui mô dự trữ tối thiểu có ý nghĩa hai mặt. Thứ nhất nó đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên ở các ngân hàng. Thứ hai nó là công cụ của ngân hàng TW để điều chỉnh khối lượng tiền tệ và khả năng cho vay của các ngân hàng TM. Dự trữ bắt buộc xác định bằng cách Tiền dự trữ bắt buộc = Tỷ lệ dự trữ bắt buộc * Tổng số tiền gửi nhận được Hệ số nhân tiền mở rộng = 1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khả năng mở rộng tiền gửi Tiền gửi ban đầu x 5. Chính sách lãi suất tín dụng: Cũng như chính sách thị trường mở, chính sách lãi suất tín dụng cũng là công cụ gián tiếp để điều chỉnh cung và cầu về tín dụng qua giá cả của nó. Thông thường lãi suất tiền gửi và tiền vay biến động cùng chiều: khi lãi suất tiền gửi được nâng lên thì lãi suất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại. Làm sao dung hoà được hai yêu cầu : nâng lãi suất huy động để thu hút được nguồn vốn và kiềm chế lạm phát. Hạ lãi suất tiền gửi để hạ lãi suất cho vay nâng đỡ sản xuất. Để lãi suất phát huy được vai trò của mình trong quá trình vận hành lãi suất cần tuân thủ các nguyên tắc sau: +Lãi suất thực phải bằng tỷ suất lợi nhuận bình quân. +Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát danh nghĩa +Lãi suất huy động vốn danh nghĩa cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (dương). +Lãi suất cho vay trung bình cao hơn lãi suất huy động trung bình. + Lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn. + Lãi suất nội tệ tương đương lãi suất ngoại tệ (trừ trượt giá) + Lãi suất phải bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. *Chính sách lãi suất được vận hành theo nhiều cách khác nhau ở nhiều quốc gia khác nhau. + ấn định lãi suất: Để tránh rủi ro cho các ngân hàng trung gian, các ngân hàng TW thường ấn định mức lãi suất “sàn” tối thiểu cho tiền gửi và lãi suất “trần” tối đa cho tiền vay. Cũng có trường hợp người ta chỉ khống chế lãi suất trần (đầu ra, lãi suất cho vay) còn lại giao quyền chủ động cho các ngân hàng TM. + Thả nổi lãi suất: Lãi suất là giá bán và giá mua của quyền sử dụng vốn. Lãi suất phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về vốn. Với quan điểm cho rằng, đã là giá cả thì lãi suất phải biến dộng, phải được tư doanh hoá, nhiều nước đã từ bỏ biện pháp ấn định lãi suất khung cứng nhắc, chuyển qua thả nổi lãi suất trên thị trường tiền tệ: Quy trình hình thành lãi suất: Cạnh tranh nội địa Nhu cầu vay. Khả năng cho vay Lãi suất thị trường Chính sách tiền tệ. Các công cụ tác động Hệ thống tín dụng Chiến lược phát triển Thị trườngtín dụng quốc tế Là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng TW tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi và tiền vay của ngân hàng TM bằng cách thay đổi lãi suất tái chiết khấu, làm “đắt” hoặc “rẻ” tín dụng nhằm “hạn chế”, “khuyến khích” các ngân hàng TM trong hoạt động vay vốn của ngân hàng TW. Từ đó có ảnh hưởng đến cung cầu tín dụng. Phần II: Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp I. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam- những bước đi khởi đầu. Từ một nước thuộc địa không có chủ quyền về tiền tệ, ngay sau Cách mạng tháng 8/1945 thành công, bằng ý chí và sự sáng tạo của mình, dựa vào lòng yêu nước của nhân dân, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã từng bước thiết lập được một nền tiền tệ, ngân hàng độc lập với những bước đi phù hợp và đầy sáng tạo. Tháng 12/1945 chính quyền cách mạng đã phát hành đồng bạc Việt Nam đầu tiên được nhân dân hết sức hoan ngân hàng nghênh, hưởng ứng và được gọi là “tờ giấy bạc cụ Hồ”. Ngày 3/2/1947, tổ chức tín dụng đầu tiên của Việt Nam- Nha tín dụng sản xuất được thành lập. Ngày 6/5/1951 tại Hang Bòng thuộc xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, Tỉnh Tuyên Quang, chủ tịch HCM đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập ngân hàng Quốc gia Việt Nam- chính thức khai sinh một ngành kinh tế mới cho đất nước ngành ngân hàng . Ngân hàng quốc gia Việt Nam ra đời thực sự là một bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển nền tiền tệ- ngân hàng của Việt Nam. Lần đầu tiê nước ta có một ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân, là kết quả của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Từ ngày thành lập đến trước đổi mới, gần 40 năm hoạt động và phát triển theo mục tiêu xây dựng CNXH trong điều kiện cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, ngân hàng Nhà nước đã được xây dựng và hoạt động phù hợp với yêu cầu của cơ chế kinh tế đó, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, đồng thời hoạt động của ngân hàng cũng phản ánh đặc trưng của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Với tư cách là cơ quan Nhà nước quản lý tập trung thống nhất trong cả nước về: Phát hành tiền, quản lý tiền mặt và tổ chức kế khoạch hoá lại vốn dưới hình thức tín dụng ngân hàng , quản lý quỹ ngân sách Nhà nước , quản lý ngoại hối vàng, bạc, tín dụng và thanh toán quốc tế, kiểm soát bằng đồng tiền các hoạt động kinh tế quốc dân. Đồng thời là một tổ chức kinh tế của Nhà nước kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. Về hệ thống tổ chức, trong nền kinh tế quốc dân chỉ có một ngân hàng Nhà nước duy nhất với hệ thống tổ chức 3 cấp trên địa bàn hành chính: TW, tỉnh, huyện để thực hiên đồng thời 2 chức năng quản lý và kinh doanh . Thực chất đó là hệ thống ngân hàng một cấp vừa được thực hiện nhiệm vụ của một ngân hàng TW vừa thực hiện nhiẹem vụ của các tổ chức trung gian tài chính. Tất cả các chủ trương, chính sách hoạt động của ngân hàng TW pải hướng vào thực hiện nhiệm vụ kinh tế , chính trị của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn, từng năm kế hoạch, thể hiện cụ thể bằng các chỉ số phát triển, trên cơ sở đó xác định phương hướng, chỉ tiêu kế hoạch cho các ngân hàng cấp dưới; trong đó chủ yếu là chỉ tiêu thu, chi tiền mặt; mức bội thu, bội chi tiền mặt, chỉ tiêu vay vốn đôí vớitừng ngành kinh tế , từng thành phần kinh tế và chỉ tiêu huy đông tiền tiết kiệm. Coi việc thực hiện các chỉ tiêu đó là một trong những chỉ tiêu chủ yếu của phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch Nhà nước, các ngân hàng các cấp chạy theo thành tích, bỏ qua chất lượng và hiệu quả cuối cùng. Về cơ chế nghiệp vụ, hệ thống chế độ, biện pháp nghiệp vụ về tín dụng, tiền tệ, thanh toán nói chung đêùđược áp dụng theo khuôn mẫu của hệ thống XHCN (Liên Xô) mang nặng tính tập trung bao cấp. Công tác tín dụng thực hiện theo chế độ cho vay trực tiếp, có kế hoạch với chính sách lãi suất mang tính chất giá cung cấp ổn định và bằng nhiều loại biện pháp cho vay khác nhau, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất là lưu thông hàng hoá theo kế hoạch Nhà nước đối với các tổ chức kinh tế . Ngoài ra, phần lớn nhu cầu vốn phát sinh từ nguyên nhân khách quan, và những nguyên nhân do qủn lý yếu kém, kinh doanh thua lỗ, thậm chí cả những nhu cầu vốn nhằm duy trì, củng cố quan hệ sản xuất XHCN, nói chung đều được tín dụng ngân hàng tài trợ. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt, kế hoạch hoá thu nộp tiền mặt và chi tiêu tiền mặt qua quỹ ngân hàng được áp dụng một cách phổ cập và bắt buộc đối với mọi tổ chức kinh tế. Kết quả là trong những năm 75-86 nền kinh tế mất cân bằng về cung cầu vốn. Ngân hàng không kiểm soát được gia tăng tín dụng, gia tăng cung tiền. Trong nhiều năm liên tục cán cân thanh toán quốc tế bội chi lớn, kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, tình hình tài chính tiền tệ căng thẳng, lạm phát phi mã tới 3 con số (1986, làm phát 774%) toàn bộ nền kinh tế suy sụp đình trệ. Thực tế cho thấy cơ chế kế hoạch hoá không còn phù hợp cho giai đoạn mới. II- Hoạt động của ngân hàng Nhà nước Việt Nam sau 10 năm đổi mới. Thực trạng và giải pháp Đại hội Đảng VI họp 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện mang tính chiến lược, mở đầu thời kỳ phát triển mới của đất nước. Bước khởi đầu đầy khó khăn này cũng chính là bước khởi đầu về cải cách hệ thống ngân hàng chuyển dần từ tập trung bao cấp sang hạch toán kinh doanh XHCN. Hai pháp lệnh ngân hàng được công bố vào ngày 24/5/1990 là cơ sở pháp lý cho hệ thống ngân hàng Việt Nam tiến hành một bước chuyển đổi mới cơ bản, chuyển sang hoạt động theo mô hình hai cấp. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng phát hành, đồng thời là ngân hàng của ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam. Qua một số năm thực hiện, hai pháp lệnh ngân hàng trên đã được tổng kết, nâng lên thành luật về ngân hàng được quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Sau 10 năm đổi mới, bộ mặt của toàn ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng Nhà nước Việt Nam nói riêng đã có rất nhiều thay đổi mới mẻ. Yêu cầu đổi mới đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận một cách đầy đủ và toàn diện về những gì đã thực hiện được và chưa làm được, cần đổi mới của ngân hàng Nhà nước. 1. Về mô hình tổ chức ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Điểm 1, điều 1 luật ngân hàng Nhà nước qui định “ngân hàng Nhà nước là cơ quan của chính phủ và là ngân hàng TW của nước CHXHCN Việt Nam”. Trên thực tế, ngân hàng Nhà nước được coi như một bộ đặc thù trong chính phủ. Trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam mô hình này có ưu điểm là thể hiện sự quan tâm, hỗ trợ của chính phủ, hoạt động ngân hàng cũng như phát huy vai trò của ngân hàng Nhà nước trong việc giúp đỡ đắc lực cho chính phủ. Nhưng mô hình này cũng có những hạn chế tương đối. Ngân hàng Nhà nước là thành viên của chính phủ nên ngân hàng Nhà nước không thể trực tiếp trình các dự án quản lý vĩ mô trước quốc hội mà phải thông qua chính phủ, hạn chế cũng thể hiện ở chỗ ngân hàng Nhà nước chưa thực sự chủ động trong việc thực thi chức năng của mình do sự can thiệp quá sâu đối với ngân hàng Nhà nước của các cơ quan, tổ chức. Về tổ chức chi nhánh theo qui định của luật ngân hàng Nhà nước , các chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố được thành lập trên cơ sở địa giới hành chính. Hiện nay, ngân hàng Nhà nước Việt Nam có 61 chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc TW và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng TW trên địa bàn. Tuy nhiên trên thực tế các chi nhánh chỉ tập trung vào 2 nhiệm vụ chủ yếu là kiểm tra, thanh tra các chi nhánh ngân hàng TM quốc doanh và cung cấp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt và cung ứng tiền mặt. Ngoài ra, các chi nhánh ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ tham mưu về lĩnh vực tiền tệ- tín dụng- ngân hàng cho cấp uỷ và chính quyền địa phương. Ưu điểm của mô hình chi nhánh hiện nay là bảo đảm thông tin phục vụ cho hoạch định, điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước , góp phần quan trọng trong quản lý kinh tế địa phương và cung ứng đầy đủ tiền mặt cho các tổ chức tín dụng trong giao dịch với các đối tác trong hoạt độnghàng ngày. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ một số nhược điểm, nhất là làm cho bộ máy ngân hàng Nhà nước khá nặng nề với biến chế đông. Một trong 2 hoạt động của các chi nhánh này là thanh tra, kiểm tra nhưng do chỉ thực hiện với các ngân hàng TMquốc doanh nên hiệu quả đạt được trong công tác này không cao. Như vậy vấn đề đặt ra là cần phải nới lỏng tự do cho ngân hàng Nhà nước , cho phép ngân hàng Nhà nước chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng cho lưu thông tiền tệ, hạn chế sự can thiệp quá sâu của quá nhiều tổ chức vào hoạt động ngân hàng TW trong việc thực thi chính sách tiền tệ. -Hướng đổi mới mô hình tổ chức chi nhánh củangh Nhà nước trong thời gian tới là: vừa phải hình thành một số chi nhánh ngân hàng Nhà nước khu vực, trên cơ sở lựa chọn trong số các chi nhánh ngân hàng Nhà nước hiện nay, tăng chức năng, nhiệm vụ cho các chi nhánh ngân hàng Nhà nước khu vực: 2. Vấn đề xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ: Đây là nhiệm vụ trung tâm, là linh hồn của ngân hàng TW với tư cách là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ của hệ thống ngân hàng 2 cấp. Để chính sách tiền tệ thực thi có hiệu quả, ngân hàng TW sử dụng hàng loạt công cụ như tái cấp vốn, lãi suất tín dụng, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở ...mỗi loại này đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lượng tiền cung ứng. Có thể nói thành công lớn nhất trong điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua đặc biệt trong naưm 1999 là: Tuy trong bối cảnh giá vàng, tỷ giá các đồng mạnh như yên, USD,.. có nhiều biến động lớn, nhưng giá trị đồng Việt Nam vẫn ổn định. Mức dao động trên dưới 14000/1USD. Đây cũng là bước thay đổi trong cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá, phản ánh khách quan sức mua của đồng Việt Nam so với ngoại tệ. Nhìn chung ngân hàng Nhà nước đã có những bước tiến rất đáng kể. *Thay đổi cơ chế điều hành lãi suất Bắt đầu từ 5/8/2000, ngân hàng Nhà nước đã chính thức chuyển sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản, các ngân hàng TM được chủ động quy định các mức lãi suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh mức lãi suất cơ bản, trên cơ sở đó chủ động quy định các mức lãi suất tiền gửi. Theo cơ chế mới, hàng tháng ngân hàng Nhà nước công bố mức lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu. Trong các tháng 8,9,10,11 và 12/2000 lãi suất cơ bản đối với tiền đồng Việt Nam vẫn giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng các ngân hàng TM được quy định mức lãi suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn,0,5% đối với cho vay trung và dài hạnh. Lãi suất cho vay ngoại tệ dựa trên cơ sở lãi suất trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Singapore kỳ hạn 3 tháng, cộng với biên độ 1% đối với cho vay ngắn hạn, 2,5% đối với cho vay trung và dài hạn. Lãi suất tái cấp vốn của ngân hàng Nhà nước được điều chỉnh từ 0,4%/tháng (từ 1/8) lên 0,5%/tháng (từ 1/11) và lãi suất tái chiết khấu tăng từ 0,4% lên 0,45%/tháng. Nếu so sánh với lãi suất cùng kỳ hạn 12 tháng của một số đồng tiền trên khu vực và thế giới thì có thể thấy lãi suất tiền gửi ở Việt Nam là vừa phải. Đó rõ ràng là một ưu việt của cơ chế mới về điều hành lãi suất có lợi cho sản xuất kinh doanh , đồng thời tạo ra sự lựa chọn tối ưu cho người gửi tiền. Lãi suất có tính cạnh tranh thực sự, các doanh nghiệp làm ăn có tín nhiệm, có vốn vay lớn được các ngân hàng TM quốc doanh cho vay với lãi suất chỉ có 0,62%-0,7%/tháng, tương đương 7,5-10%/năm thấp nhất trong hơn 10 năm qua và không chênh lệch nhiều so với lãi suất cho vay bản tệ ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên cũng nảy sinh những bất hợp lý về cơ chế điều hành lãi suất mới. Biên độ lãi suất quá rộng, gây ra sự chênh lệch lớn giữa các đối tượng khách hàng. Do đó, không tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, không thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước . Đồng thời mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ không hợp lý, nên tạo điều kiện cho sự chuyển dịch từ đồng VN sang đôla Mỹ gây nên tình trạng đôla hoá nền kinh tế. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu chưa có tác động tới hoàn thiện lãi suất cơ bản. Cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản chưa có tác dụng tích cực thực sự vào quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Còn có tình trạng lúc thừa lúc thiếu vốn của các NHTM, trong mỗi hệ thống TCTD và giữa các vùng. Do đó, đồng thời với việc triển khai cơ chế lãi suất mới, NHNN theo dõi chặt chẽ diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ xét thấy cần thiết có thể điều chỉnh các công cụ tiền tệ khác đảm bảo cho sự vận hành cơ chế lãi suất phù hợp với mục tiêu đề ra. Ngoài ra: -Tạo điều kiện cho các TCTD và khách hàng gửi vay vốn có thể lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất có điều chỉnh linh hoạt, có lợi cho các bên, khuyến khích TCTD mở rộng huy động và cho vay vốn trung và dài hạn. Riêng lãi suất cho vay bằng ngoại tệ tuy đã tiếp cận dần với thông lệ quốc tế nhưng sẽ thấp hơn mặt bằng thị trường quốc tế phủ hợp với cung cầu vốn ngoại tệ trên thị trường trong nước hiện nay, có lợi cho cả doanh nghiệp và NHTM, tạo điều kiện NHTM mở rộng cho vay vốn ngoại tệ, hạn chế việc gửi vốn ngoại tệ ở nước ngoài. -Tạo khuôn khổ linh hoạt cho các TCTD khi áp dụng lãi suất phù hợp với đặc điểm từng vùng và mức độ rủi ro trong thời hạn cho vay và đối tượng khách hàng nhưng NHNN vẫn kiểm soát được lãi suất. -Làm cho mối quan hệ lãi suất VNĐ- tỷ giá- lãi suất ngoại tệ linh hoạt hơn phản ánh được chính xác hơn cung cầu về vốn, ngoại tệ, tạo cơ sở cho NHNN khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường. *Đột phá vào thị trường mở nhưng còn buồn tẻ: Thị trườngmở được ngân hàng Nhà nước chính thức khai trương và đưa vào hoạt động từ 7/7/2000 Đến nay nghiệp vụ thị trường mở đã đi vào ổn định, đạt được mục tiêu đề ra của việc sử dụng công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các giao dịch trên thị trường mở đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng và đã góp phần thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, thúc đẩy chu chuyển vốn trong nền kinh tế, có tác động nhất định đến thị trường chứng khoán. Tuy chưa có kinh nghiệm thực tiễn nhưng các qui định về hoạt động thị trường mở đã ban hành trong thời gian qua là phù hợp với các tổ chức tín dụng,với điều kiện hiện nay và sát gần với thông lệ quốc tế. Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở của NHNN chỉ đạo bài bản và sát sao tới các hoạt động của thị trường. Hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở đã bộc lộ một số hạn chế. Về mặt khách quan, do hàng hoá của thị trường mở là các loại tín phiếu ngắn hạn chỉ tập trung vào một số các NHTM quốc doanh cho nên chưa thu hút nhiều các tổ chức tín dụng tham gia nghiệp vụ thị trường mở, vì vậy người ta cho rằng đây chỉ là thị trường của NHTM quốc doanh. Các phiên đấu thầu mua vào và bán ra các loại tín phiếu còn thời hạn ngắn có tính cạnh tranh cao, cả trên thị trường sơ cấp và thị trường mở nên các tổ chức tín dụng nhỏ không đủ điều kiện cạnh tranh với các TCTD với qui mô lớn. Vì thế, thị trường chưa thực sự sôi động, nếu không nói là buồn tẻ. Các thị trường khác của ngành ngân hàng như thị trường liên ngân hàng, thị trường mua bán lại tín phiếu giữa các TCTD với khách hàng chưa phát triển, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc hoạt động chưa ổn định và chưa thu hút được đông đảo các TCTD tham gia nên cũng ảnh hưởng tới hoạt động thị trường mở. Mặt khác, do các TCTD chưa hiểu biết nhiều về thị trường này. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền hướng dẫn đối với các TCTD để hiểu sâu về thị trường này còn hạn chế. Hệ thống máy móc thiết bị thông tin giữa trung tâm giao dịch của thị trường mở với một số TCTD còn có một số trục trặc chậm được khắc phục. Trình độ cán bộ ngân hàng còn hạn chế. Tính đến 18/12/2000 thị trường mở của NHNN đã tổ chức được 15 phiên giao dịch, với tổng khối lượng các loại tín phiếu mua bán trên thị trường này là 2,113 tỷ đồng, trong đó NHNN mua vào 2,563 tỷ đồng tín ra và bán ra 550 tỷ đồng tín phiếu. Lãi suất trúng thầu là 4,4 đến 5,78% /năm. Các thành viên tham gia chủ yếu là các NHTM quốc doanh, đứng đầu là NHCT Việt Nam. Hầu hết các NHTM cổ phần và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh chưa tham gia thị trường. Để nghiệp vụ thị trường mở phát huy được vai trò tác động đến lượng tiền cung ứng: -NHNN phải tạo điều kiện cho các TCTD ngoài quốc doanh tham gia nghiệp vụ thị trường mở một cách thực sự, tạo cho họ một sân chơi bình đẳng, tức là giảm cho vay theo chỉ định, phân biệt rõ ràng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Ngoài ra, cần tuyên truyền thường xuyên, sâu rộng cho các TCTD về nghiệp vụ này. -Cho phép nghiệp vụ thị trường mở được phép sử dụng các trái phiếu kho bạc đã phát hành khi chúng còn thời gian đáo hạn ngắn làm cho luân chuyển vốn đa dạng hơn. -Đa dạng hoá phương thức giao dịch. -Hoàn thiện thị trường liên ngân hàng. Trên đây là hai sự kiện thể hiện một bước tiến lớn trong việc thực thi chính sách tiền tệ của NHNN. Ngoài ra, NHNN còn thực thi chính sách dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, chính sách này tỏ ra kém hiệu quả mặc dù NHNN đã thực hiện với tần suất mạnh các lần điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Ví dụ như: năm 1999 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được điều chỉnh 2 lần trong năm giảm từ mức 5% -7 % xuống còn 1%- 3% -5% (từ 1/9/99 ).Hạn chế ở chỗ NHNN Việt Nam không có khả năng kiểm soát chính xác sự biến động số dư dự trữ của hệ thống ngân hàng. Số dự trữ vượt mức của hệ thống ngân hàng biến động hàng ngày phụ thuộc vào mối quan hệ của nó với các chủ thể phi ngân hàng như quan hệ tiền mặt với công chúng, quan hệ vay mượn với chính phủ, hoặc với NHNN. Khả năng cập nhật thông tin và phương tiện kỹ thuật phụ trợ hiện tại làm hạn chế khả năng của NHNN trong việc kiểm soát và dự báo chính xác sự biến động mức dự trữ của hệ thống ngân hàng. Thực trạng trên cho thấy NHNN cần phải hoàn thiện hệ thống kiểm tra, giám sát các NHTM, mở rộng đối tượng NHTM phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc, xử phạt đối với những biểu hiện vi phạm. Đồng thời NHNN cần thực hiện các biện pháp thích hợp để có thể đưa ra tỷ lệ dự trữ phù hợp diễn biến và mục tiêu chính sách tiền tệ trong mỗi thời kỳ. Ngoài ra, NHNN thực hiện trả lãi cho các khoản dự trữ ngoài quy định. Các khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc phải thật sự trở thành một khoản dự trữ an toàn của tất cả các ngân hàng và điều tiết khối lượng tiền cho lưu thông. 3. Về việc điều hành chính sách tỷ giá. Có thể nói việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá là một bước tiến quan trọng có tính đột phá của chính phủ và NHTW để đưa hệ thống ngân hàng Việt Nam từng bước hội nhập quốc tế. Trước tháng 2 năm 1999 cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam là cơ chế can thiệp trực tiếp bằng cách ấn định chính sách tỷ giá chính thức với biên độ giao dịch ở thời điểm tương ứng có khi lên đến + 10%. Nhưng từ tháng 2/99, NHNN đã bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức nói trên và thay vào đó là công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Các NHTM được phép xác định tỷ giá mua và tỷ giá bán đối với đôla Mỹ không vượt quá biên độ 0,1% so với tỷ giá giao dịch thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN công bố hàng ngày. Với cơ chế này tỷ giá hối đoái trên thị trường hoạt động một cách khách quan, phản ánh đúng hơn cung cầu về ngoại tệ ở trên thị trường. Thông qua việc can thiệp và công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá giữa đồng VN và đôla Mỹ (USD) dần dần, đều đặn qua các phiên giao dịch, không gây ra các cú sốc về tăng đột biến tỷ giá, gây bất lợi cho các doanh nghiệp và thị trường. Trong các tháng cuối năm 2000 bình quân mỗi phiên giao dịch tỷ giá tăng từ 5-7 đồng/ 1USD. Đến cuối năm 2000, tỷ giá trên cả 3 thị trường đã tăng so với đầu năm như sau: Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tăng 3,5%, thị trường mua bán của các NHTM tăng 3,4%, thị trường tự do tăng 3,3%. Mặc dù vậy mức mất giá của đồng VN vẫn thấp hơn mức mất giá của các đồng tiền khác trong khu vực so với đôla Mỹ. Tỷ giá VNĐ /USD liên tục tăng chậm dần trong năm. Bên cạnh đó lãi suất tiền gửi nội tệ giảm thấp, lãi suất tiền gửi ngoại tệ tăng cao. Do đó, người vay thì thích vay tiền đồng VN còn người gửi lại chọn đôla Mỹ để gửi. Do đó, lượng tiền gửi đôla Mỹ trong các NHTM ở Việt Nam tăng nhanh. Trong năm 2000, tốc độ tăng tiền gửi ngoại tệ gấp 3 lần tốc độ tăng tiền gửi VNĐ và chiếm khoảng 40% tổng số dư tiền gửi. Nền kinh tế lâm vào tình trạng đôla hoá, xuất hiện nghịch lý là trong khi nền kinh tế thiếu vốn, chính phủ và các doanh nghiệp phải đi vay v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35102.doc
Tài liệu liên quan