Đề tài Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế nước ta

Lời mở đầu 1

Mục lục 3

I.Chương I: Lí luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản 4

 1.1 Lí luận tuần hoàn của tư bản 4

 a. Giai đoạn 1 4

 b. Giai đoạn 2 5

 c. Giai đoạn 3 6

 d. Sự biến chuyển của tư bản 6

 1.2 Chu chuyển tư bản 7

 a. Thời gian chu chuyển 8

 b. Tốc độ chu chuyển 9

 c. Tư bản cố định và tư bản lưu động 10

 1.3 Tác dụng , ý nghĩa, phương pháp của việc rút ngắn thời gian 11

chu chuyển

 II.Chương II. Vận dụng của học thuyết tuần hoàn và chu 14

chuyển tư bản vào thực tế của việc quản lý,sử dụng vốn .

 2.1 Vận dụng thực tế của học thuyết 14

 2.2 Vốn –vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả 15

 2.3 Khái niệm, đặc điểm, phân loại vốn 16

 2.4 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 18

III.Chương III : Thực trạng, một số đánh giá và biện pháp về 21

vốn ở Việt Nam

 3.1 Nhu cầu về vôn ở nước ta 21

 3.2 Kết qủa thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội 22

 3.3 Một số tồn tại và yếu kém trong sử dụng vốn. 29

 3.4 Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 29

 3.5 Các giải pháp huy động vốn 31

 3.6 Biện pháp sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm 35

 3.7 Biện pháp nâng c hiệu quả vốn đầu tư 36

Kết luận 39

Tài liệu tham khảo 40

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 810 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Học thuyết tuần hoàn và chu chuyển tư bản và sự vận dụng nó vào nền kinh tế nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hụ sản phẩm. Để rút ngắn thời gian tiêu thụ cần phải có các xúc tiến marketing hỗn hợp. Việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả trong giai đoạn này được thể hiện qua hiệu quả của các chiến lược marketing. Chiến lược marketing phù hợp sẽ giúp làm tăng doanh thu, giảm chi phí lưu thông và đương nhiên lúc đó, hiệu quả của tư bản sẽ là cao nhất. 2.2. Vốn – vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả. Như đã trình bày ở trên, việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là một chìa khoá quan trọng cho thành công của các doanh nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Tuy nhiên do có những hạn chế nhất định, đề án này chỉ nghiên cứu về vốn và việc quản lý và sử dụng vốn ở phương diện vĩ mô. Để thấy được vai trò của việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả, chúng ta hãy nhìn lại tình hình kinh tế nước ta thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Với tham vọng mau chóng xây dựng một nền kinh tế phát triển toàn diện tự chủ, trong đó công nghiệp hiện đại, giao thông, bưu điện, thương nghiệp quốc doanh tiên tiến, các nhà hoạch định chính sách đã đưa ra chiến lược “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng”. Như chúng ta đều biết, công nghiệp nặng là ngành đòi hỏi phải có một lượng tư bản ứng trước lớn, thời gian chu chuyển của các tư bản cố định rất dài, do đó hiệu quả của tư bản đương nhiên không cao và hiệu quả kinh tế thu được rất chậm. Trong điều kiện nước ta lúc bấy giờ, nền kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát gia tăng, vốn đầu tư hầu hết chỉ dựa vào ngân sách quốc gia. Với điều kiện nguồn vốn ít ỏi, thực lực kinh tế còn yếu, đáng ra tư bản phải được đầu tư vào các ngành có thời gian chu chuyển hay tốc độ chu nhanh, còn việc phát triển công nghiệp nặng chỉ có thể phát triển một cách có hiệu quả khi nền kinh tế đã đạt được một số thành tựu nhất định, nguồn vốn lớn. Chính vì sai lầm này, mọi nguồn lực đều được sử dụng vô tội vạ, các nguồn vốn vay nước ngoài, các nguồn viện trợ đều được đổ vào công nghiệp nặng bất chấp hiệu quả, bất chấp quy luật cung cầu. Hậu quả là ngân sách nhà nước cạn kiệt, nợ nước ngoài chồng chất, lạm phát tăng, hệ thống công nghiệp nặng đồ sộ không còn được nuôi dưỡng bỗng chốc trở thành gánh nặng kinh tế. Như vậy, có thể thấy rằng việc quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả là hết sức quan trọng, đặc biệt là trong việc xác định mục tiêu và hoạch định chiến lược kinh tế, từ đó có chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn thích hợp. Nước ta hiện nay đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với một nền kinh tế hết sức nhạy cảm với các tác động chủ quan cũng như khách quan. Vì thế việc xác định chính sách công nghiệp hay chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá sao cho phù hợp là bước quan trọng đầu tiên và quan trọng nhất. 2.3. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp. a)Khái niệm : Vốn là một trong những nhân tố có tầm quan trọng quyết định đối với hoạt động của nền kinh tế .Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp.Vốn được biểu hiện dưới dạng vật chất và giá trị. Về phương diện vật chất, vốn bao gồm các loại máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu, nhiên liệu,thành phẩm hàng tồn khovốn là nhân tố đầu vào đồng thời bản thân nó là kết quả đầu ra của kinh tế.Vốn luôn chuyển động và chuyển hoá hình thái vật chất, cũng như từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ.Vốn là tiền tệ là “trung gian” cần thiết để đảm bảo cho quá trình tái sản xuất diễn ra liên tục. Trong cơ chế thị trường, ngoài sự tồn tại dưới dạng vật chất, còn có loại vốn tồn tại dưới dạng tài sản có giá trị vô hình như: bằng phát minh,sáng chế, kinh nghiệm tay nghề,bí quyết. Xét trên diện rộng, người ta có thể coi tài nguyên lao động cũng là vốn. Chính vì thế vốn là một nhân tố quan trong không thể thiếu được đối với một doanh nghiệp. Bởi vì phải có vốn thì doanh nghiệp mới đảm bảo được sự vận hành thường xuyên và có khả năng tăng trưởng trong tương lai. Nói một cách khác vốn chính là một tất yếu khách quan của doanh nghiệp.Như vậy chúng ta có thể hiểu một cách khái quát như sau: Vốn là toàn bộ giá trị ứng ra cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vốn được biểu hiện ở nhiều hình thái và tài sản vô hình, cũng như mọi kiến thức tích luỹ của doanh nghiệp, trình độ quản lý và tác nghiệp của cán bộ công nhân viên chức. Sự bảo tồn và tăng trưởng của vốn là nguyên lý và là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp. b)Đặc điểm của vốn: Vốn kinh doanh là phương tiện để đạt mục đích phát triển kinh tế nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người lao động. - Vốn kinh doanh có giá trị và giá trị sử dụng. - Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn vận đông không ngừng tạo ra sự tuần hoàn và chu chuyển vốn theo sơ đồ sau: T-H SLĐ TLLĐ SX .H’ ..T’(T’>T) ĐTLĐ Sức lao động tiềm ẩn trong mỗi con người c)Phân loại vốn kinh doanh. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta chia thành các loại vốn sau. + Vốn cố định + Vốn lưu động Vốn cố định của doanh nghiệp Khái niệm vốn cố định . Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về tài sản cố định mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần trong nhiều chu kì sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi tài sản cố định hết hạn sử dụng. Đặc điểm Vốn cố định tham gia vào nhiều quá trính sản xuất kinh doanh Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong quá trình sản xuất khi tham gia vào quá trình sản xuất. Sau nhiều chu kì sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển sau mỗi chu kỳ sản xuâts phần vốn đươc lưu chuyển vao giá trị sản phẩm dần dần tăng lên, song vốn đầu tư ban đầu vào tài sản cố định lại dần giảm xuống cho tới khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng giá trị của nó dược chuyển dịch hết vao giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Vốn lưu động của các doanh nghiệp *Khái niệm Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động trong doanh nghiệp. Tài sản lưu động có ba bộ phận : TSLĐ lưu trữ. TSLĐ trong sản xuất. TSLĐ trong lưu thông. Tài sản lưu động của doanh nghiệp trong doanh nghiệp sản xuất là những vật tư dự trữ như nguyên vật liệuvà sản phẩm dở dang trong quá trình sản xuất. TSLĐ trong lưu thông bao gồm: sản phẩm hàng hoá chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán,cac khoản chi phí chờ kết chuyển,chi phí trả trước Đặc điểm: - Khởi đàu vòng tuần hoàn vốn lưu động từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vạt tư, hang hoá dự trữ. Qua giai đoạn sản xuất vật tư hàng hoá trở thành bán thành phẩm và thành phẩm kết thúc vòng tuần hoàn khi sản phẩm được tiêu thụ, vốn lưu động lại trở về hình thái tiền tệ ban đầu nhưng với một lương lớn hơn (T’ > T). Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra một cách thường xuyên, liên tục lên cùng một thời điểm vốn lưu động thường tồn tại dưới tất cả các hình thái khác nhau trong các giai đoạn dự trữ sản xuất lưu thông của quá trình sản xuất . Vốn lưu động hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất . 2.4. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp Xuất phát từ vai trò của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Một doanh nghiệp với bát kỳ quy mô nào cần phải có mmột lượng vốn tiền tệ nhất định và việc huy động kịp thời các nguồn vốn có ý nghĩa vô cùng qúa trình quan trọng để các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất và chớp được cơ hội kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển cạnh tranh gay gắt. Do đó để tồn tại và phát triển trong cơ chế này tất yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường ,đổi mới máy móc thiết bị , cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm , nâng cao chất lượng sản phẩm và giá thành hợp lý nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá ,mang lai lợi nhuận cao. Muốn vậy doanh nghiệp phải có vốn .Vốn trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với tất cả các doanh nghiệp cho qúa trình sản xuất kinh doanh phát triển nghành nghề mới. *Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Mục đích hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cung ứng sản phẩm lao động, dịch vụ cho xã hội nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất . Để đạt được mục đích đó các doanh nghiệp phải phối hợp tổ chức ,phải thực hiện đồng bộ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó vấn đè nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong cơ chế bao cấp các doanh nghiệp nhà nước coi nguồn vốn cấp phats từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với việc “cho không” nên tìm mọi cách để xin được nguồn vốn ,vì tiền không phải “mua” mà được cấp phát nên khi sử dụng nguồn vốn, doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả kinh doanh. Vì nếu thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp trang trải mọi thiếu hụt. Sự ỷ lại vào nhà nước, không quan tâm đến hiệu qủa sử dụng vốn là căn bệnh phổ biến của các doanh nghiệp nhà nước trong cơ chế thị trường hiện nay. Chuyển sang nền kinh tế thị trường các khoản bao cấp về vốn không còn nữa. Cùng với việc chuyển giao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, nhà nước còn giao quyền tự chủ tài chính. Với quyền này các doanh nghiệp phải đảm bảo vốn sau khi trang trải mọi chi phí đảm bảo kinh doanh có lãi và có hiệu quả. Do đó đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý đồng vốn một cách có hiệu quả hơn, mặt khác việc quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước hiện nay còn khác trước là do các doanh nghiệp phải bảo toàn số vốn được giao kể cả khi trượt giá và phải đầu tư mở rộng phát triển quy mô sản xuất kinh doanh. Như vậy thế nào là sử dụng vốn có hiệu quả? Theo cách hiểu đơn giản nhất nghĩa là với một lượng vốn nhất định bỏ vào sản xuất kinh doanh mang lại lợi nhuận cao nhất làm cho đồng vốn sinh sôi nảy nở. Nừu các doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đều phấn chấn đạt hiệu quả vốn kinh doanh sẽ góp phần đẩy GDP của nền kinh tế tăng lên, nền kinh tế có điều kiện phát triển ổn định, vững chắc tạo ra tốc độ tăng trưởng nhanh và ngược lại. Từ những vấn đề nêu trên cho thấy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Nó quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chương III Thực trạng về quản lý và sử dụng vốn ở nước ta một số đánh giá và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nếu so với các nước công nghiệp phát triển, nước ta đã tụt hậu tới cả trăm năm về trình độ, công nghệ. So với các nước trong khu vực, nước ta đã tụt hậu tới vài chục năm. Trong thời đại hiện nay, khi mà những thành tựu về khoa học công nghệ là một nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tụt hậu về kinh tế. Đại hội 8 đã chỉ rõ: “Giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Để đạt được mục tiêu này, chúng ta cần và đã thực hiện hàng loạt các chính sách mà trong đó vấn đề quan trọng nhất là vốn đầu tư, vì vốn là một tiền đề cơ bản cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. 3.1. Nhu cầu về vốn Kinh nghiệm các nước cho thấy rằng trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhu cầu về vốn thường hết sức căng thẳng. ậ nước ta, để đạt được tăng trưởng 9 – 10% từ năm 1997 – 2000 như đại hội 8 của Đảng đã đề ra, thì chúng ta đã phải nâng dần tỉ lệ đầu tư toàn xã hội (so với GDP) lên tới 30% vào đầu năm nay, tức là nhu cầu về vốn trong giai đoạn 1996 – 2000 phải cần 41 – 42 tỉ USD (theo mặt bằng giá năm 1995). Trong tổng nhu cầu vốn nói trên, 50% huy động được từ các nguồn lực trong nước, số còn lại đã được huy động từ bên ngoài dưới các hình thức khác nhau. Vốn trong nước đã được huy động theo 4 nguồn chủ yếu sau: - Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn từ 1996 – 2000, số vốn huy động được từ nguồn vốn đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước đạt 6,2% GDP và bằng 21% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. - Vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước đạt 17,6% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội, trong đó huy động từ dân cư dưới hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và thu hồi nợ cũ chiếm 7%, vốn huy động từ nước ngoài cho vay lại chiếm 9,6%. - Vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước chiếm 15% tổng vốn đầu tư xã hội. - Vốn đầu tư phát triển của dân cư chiếm 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 1996 – 2000. Tuy nhiên, nếu tính riêng cơ cấu vốn đầu tư phát triển trong nước thì vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm 25%, vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước chiếm 14%, vốn đầu tư của doanh nghiệp chiếm 28% và vốn của dân cư chiếm 33%. Một nguồn đầu tư phát triển rất quan trọng khác đã được huy động rất hiệu quả, đó là các nguồn vốn nước ngoài. Trong đó, tập trung vào đầu tư trực tiếp nước ngoài (F.D.I), vay O.D.A và các hình thức vay nợ với lãi suất ưu đãi khác. Trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn này, nguồn vốn F.D.I chiếm 31% và vốn O.D.A chiếm 17%. Tuy nhiên, để huy động được nguồn vốn với cơ cấu như trên không phải là đơn giản. 3.2. Kết quả thực hiện vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ở Việt Nam những năm gần đây. Thực trạng quản lý vốn : Bước vào thiên niên kỷ mới, nước ta đã đạt nhiều thành tựu đáng khích lệ về phát triển kinh tế xã hội, trong đó đầu tư phát triển đóng vai trò hết sức quan trọng. Việc huy động tương đối đầy đủ các nguồn lực cho đầu tư; cơ cấu lại các nguồn vốn đầu tư, coi trọng nguồn vốn của dân cư và tư nhân; chuyển dịch cơ cấu đầu tư hợp lý theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, điều chỉnh cơ cấu giữa các ngành, vùng, bước đầu đã hình thành một cơ cấu đầu tư hợp lý, tạo ra thế và lực cho nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập khu vực và cộng đồng quốc tế. Nhà nước đã áp dụng nhiều chính sách và cơ chế quản lý mới, có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong nước và ngoài nước, nhất là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (O.D.A) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (F.D.I). Do đó, vốn đầu tư phát triển hàng năm không ngừng tăng, các nguồn vốn huy động tham gia đầu tư ngày càng đa dạng. Kết quả là đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, nhiều khu công nghiệp, nhiều khu chế xuất, các ngành công nghiệp then chốt của đất nước, hạ tầng giao thông vận tảiHạ tầng xã hội đã được chú trọng đầu tư và được cải thiện đáng kể, tạo ra tiền đề cần thiết và quan trọng trong thời kỳ phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành kinh tế. Trong 5 năm 1996 – 2000 tổng vốn đầu tư phát triển ước thực hiện khoảng 397 nghìn tỷ đồng gấp 1,74 lần thực hiện thời kỳ 1991 – 1995, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 6,4%, trong đó vốn ngân sách nhà nước tăng bình quân 6,4%, vốn tín dụng đầu tư tăng 42%, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước tăng 20,2%, vốn đầu tư của dân và tư nhân tăng 1,4%, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài duy trì ở mức độ khoảng trên 2 tỷ USD một năm Trong 2 năm 2001 – 2002, tổng vốn đầu tư toàn bộ nền kinh tế đã thực hiện gần 350 nghìn tỷ đồng, hàng năm huy động gần 34% GDP cho đầu tư phát triển, tăng bình quân hàng năm 19,2%, trong đó vốn ngân sách nhà nước chiếm 22,3%, vốn tín dụng đầu tư chiếm 12,9%, vốn doanh nghiệp nhà nước chiếm 16,6%, vốn đầu tư của dân và tư nhân chiếm 24,2%, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài 19% tổng vốn đầu tư xã hội. Nhà nước điều hành trực tiếp và chủ động bố trí cơ cấu đầu tư theo kế hoạch nguồn vốn ngân sách nhà nước chiếm khoảng 22% trong tổng vốn đầu tư của xã hội. Nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư của nhà nước, nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước tự đầu tư chiếm khoảng 29%. Cả 3 nguồn vốn này chiếm khoảng 52% tổng nguồn. Các nguồn vốn khác điều hành gián tiếp qua cơ chế, chính sách. Tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP năm 2000 đạt 29,1% tăng lên 33,7% năm 2001. Do huy động được nguồn vốn khá, bố trí đầu tư hợp lý hơn nên nhiều công trình đã hoàn thành, được bàn giao đưa vào sử dụng; năng lực của hầu hết các ngành sản xuất dịch vụ và kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội được nâng lên rõ rệt. Thực trạng quản lý vốn và tài sản đối với các doanh nghiệp nhà nước : Quy mô và hiệu quả kinh doanh: tính đến nay, cả nước hiện có 5.700 doanh nghiệp Nhà nước (trong đó 1.802 doanh nghiệp TW, 3.898 doanh nghiệp địa phương) so với năm 1990 (12.300). Số lượng doanh nghiệp giảm như trên là do việc thực hiện sắp xếp lại theo chủ trương của Nhà nước như: Cổ phần hoá, đa dạng hoá hình thức sở hữu và quản lý, sát nhập, giải thể. Tính đến năm 1999, số lượng doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá là 366 doanh nghiệp; 4 doanh nghiệp được bán và một số doanh nghiệp được sát nhập, giải thể. Đến nay đã có 17 công ty 91 và gần 80 tổng công ty 90 với 1.300 doanh nghiệp thành viên. Các công ty Nhà nước nắm giữ 65,5% tổng số vốn Nhà nước doanh nghiệp. Về hiệu quả hoạt động kinh doanh: lợi nhuận của doanh nghiệp những năm 96 – 99 tăng chưa tương xứng với sự quan tâm và ưu đãi của nhà nước về vốn thị trường tỷ suất lợi nhuận trên vốn từ 96 – 99 không tăng. Về tài sản cố định và vốn kinh doanh của doanh nghiệp: tính đến nay tài sản cố định của các doanh nghiệp ước là 156.000 tỷ đồng, so với năm 96 tăng 53%, vốn kinh doanh ước là 112.000 tỷ đồng, so với năm 98 tăng 4,6% trong đó bổ sung từ: quỹ đầu tư phát triển 31.000 tỷ đồng bằng 27% tổng số vốn Nhà nước. Trong tổng số vốn hiện có của các doanh nghiệp, vốn đầu tư vào tài sản cố định khoảng 90.000 tỷ đồng. Vốn dùng cho đầu tư tài sản theo cơ chế hiện hành chủ yếu doanh nghiệp phải tự huy động bằng vốn tín dụng của ngân hàng, nhà nước và các tổ chức kinh tế khác. Đặc biệt một số doanh nghiệp vay vốn của các tổ chức tín dụng quốc tế. Tình trạng vật tư ứ đọng kém phẩm chất ngày càng lớn. Năm 98 giá trị tài sản của doanh nghiệp Nhà nước (không bao gồm doanh nghiệp ngân hàng) là 354.000 tỷ đồng, trong đó vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chỉ là 109.000 tỷ đồng. Do vậy các doanh nghiệp phải đi vay ngân hàng, chiếm dụng vốn lẫn nhau hoặc nợ ngân sách số phải nộp Số nợ phải trả của doanh nghiệp Nhà nước thường cao hơn số vốn Nhà nước từ 13 – 16%. Nhiều doanh nghiệp có số nợ lớn như tổng công ty điện lực, tổng công ty bưu chính viễn thông, tổng công ty mía đường, tổng công ty dệt may, tổng công ty than Đến nay ước số nợ vay đầu tư phải trả 885 tỷ đồng nhưng nguồn để trả chỉ có 702 tỷ đồng, số phải thu của các doanh nghiệp chiếm hơn 50% số vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Các tổng công ty việc quản lý vốn và tài sản chưa tốt, việc điều hành, quản lý giữa công ty mẹ và các đơn vị thành viên còn lúng túng. Hiện nay đối với toàn bộ vốn và tài sản giao cho các tổng công ty, các tổng công ty có quyền sử dụng để phục vụ sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn. Nhưng trong những năm qua một số doanh nghiệp có công nghệ hiện đại nhưng chi phí đầu tư cao, trình độ quản lý còn thấp kém do đó hiệu quả các công trình đầu tư còn thấp, số vốn không phát huy được sử dụng còn nhiều, vật tư ứ đọng kém phát triển còn nhiều, tài sản không sử dụng ngày một tăng. Việc thành lập một số tổng công ty chủ yếu gồm các đơn vị liên kết theo chiều ngang mà chưa tổ chức lại một cách tổng thể theo cơ cấu phù hợp với mô hình Tổng công ty, chưa chuẩn bị các điều kiện tối thiểu cần thiết để tổng công ty hoạt động nên sau khi thành lập theo Quyết định hành chính theo kiểu gom đầu mối, nhiều tổng công ty đã lúng túng trong điều hành giữa công ty mẹ và các đơn vị thành viên. Các tổng công ty chưa thực sự là một tổng thể kinh tế thống nhất và phát huy được sức mạnh tổng hợp. Chưa khắc phục được tình trạng hoạt động rời rạc của các doanh nghiệp thành viên bằng các cơ chế, tổ chức điều hành. Sự liên kết, gắn bó về lợi ích và thị trường giữa Tổng công ty với các doanh nghiệp thành viên còn rất lỏng lẻo. Quy mô về vốn : Vốn ban đầu của doanh nghiệp ở nông thôn rất thấp so với thành thị năm 1992 ở nông thôn vốn sản xuất bình quân của kinh tế hộ gia đình là 1010 USD, của doanh nghiệp tư nhân là 2500 USD; ở thành thị tương ứng là 4200 USD và 15140. Có sự khác nhau rất lớn về quy mô ban đầu giữa các tỉnh và giữa các doanh nghiệp trong cùng một tỉnh. Tỉnh có mức cao nhất và tỉnh có mức thấp nhất chênh lệch đến gần 4 lần. Tín dụng của khu vực Nhà nước hầu như có vai trò trong việc đào tạo vốn ban đầu cho các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn, 60% doanh nghiệp dựa vào vốn tự có và vốn vay không có lãi của bạn bè, người thân; khoảng 15% kinh tế hộ gia đình và 29% doanh nghiệp tư nhân có tạo thêm vốn từ các nguồn vốn không chính thức. Thực tế cho thấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng rất lớn bởi quy mô vốn, những doanh nghiệp vốn quá nhỏ dưới 100 triệu đồng thường hoạt động kém hiệu quả, ngược lại vốn càng lớn thì doanh nghiệp làm ăn càng có các giải pháp hỗ trợ vốn, để các doanh nghiệp phát triển theo chiều sâu. Hơn nữa, hầu hết các máy móc thiết bị và quy trình công nghệ trong các doanh nghiệp sử dụng trong qúa trình sản xuất đều đã cũ, hao mòn lạc hậu so với thời đại, nó đã được sử dụng trong suốt thời kỳ bao cấp và cho đến nay. Do đó để có thể cạnh tranh trên thị trường thì buộc các doanh nghiệp phải đầu tư máy móc thiết bị và quy trình công nghệ mới vì thế tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp hiện nay là phổ biến. Nừu không vay vốn ngắn hạn để đầu tư thì bỏ lỡ cơ hội, hướng nào doanh nghiệp cũng găp rủi ro. Hiện nạy nhà nước đã có nhiêu biện pháp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn bằng nhiều hình thức khác nhau, nhưng nguồn vốn Ngân hàng đủ đáp ứng được khoang 30% nhu cầu vốn, đặc biệt là vốn đầu tư khi thành lập doanh nghiệp. Tuy vậy, rất hiếm các trường hợp doanh nghiệp Việt Nam vay được vốn Ngân hàng nguyên nhân chủ yếu là do lao động cho thủ tục vay vốn phức tạp khó khăn. Mặt khác các Ngân hàng thường ngại cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay, đặc biẹt đối với những khoản tín dụng trung và dài hạn, do đó doanh nghiệp không đủ tài sản để thế chấp, thiếu năng lực trong việc lập phương án kinh doanh khả thi, chưa có đủ uy tín trên thương trường. Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế : Cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo ngành kinh tế đã dịch chuyển theo hướng ưu tiên cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, hạ tầng cơ sở và lĩnh vực xã hội. Thời kỳ 1996 – 2000, vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp tăng bình quân hàng năm là 30,2%, các ngành công nghiệp là 11%, cho hạ tầng giao thông vận tải và bưu chính viễn thông là 13,5%, cho lĩnh vực khoa học công nghệ, điều tra cơ bản môi trường là 15,8%, cho giáo dục đào tạo là 16,8%, cho ngành kinh tế xã hội là 25,2% và ngành văn hoá thông tin, thể thao là 6,4%. Cơ cấu vốn đầu tư phát triển phân theo vùng kinh tế : Cơ cấu thực hiện vốn đầu tư phát triển theo vùng kinh tế những năm qua như sau: Thời kỳ 1996 – 2000 vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước chiếm 53,5% vốn đầu tư phát triển, các tỉnh miền núi phía Bắc chiếm 7,6%, vùng Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 14,8%. Các tỷ lệ này tương ứng với năm 2001 là 52,75%; 7,79%; 14,9% và năm 2002 là 51,74%; 8,02%; 15,13%. Thực hiện việc thanh quyết toán vốn trong thời gian qua : Hiện nay tình trạng chậm thanh, quyết toán vốn đầu tư đặc biệt cho đối với các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước phổ biến và chưa có xu hướng dừng lại. Theo điều 56 củanghị định 52/CP thì : - Tất cả các dự án đầu tue của cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước sau khi hoàn thành đưa vào khai thcá sử dụng đều phải thực hiện việc toán vốn đầu tư. - Chậm nhất là 6 tháng sau khi hoàn thành đưa vào vận hành, chủ đầu tư phải hoàn thành quyết toán vốn đầu tư. Tuy nhiên, trong thời gian qua, tình hình quyết toán vốn đầu tư rất trì trệ, nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng, khấu hao gần hết vẫn chưa hoàn thành quyết toán vốn đầu tư. Chỉ tiêu đánh giá 1994–1999 2000 2001 Tổng số các dự án hoàn thành 43.196 8.169 11.840 Chia ra : 1. Số dự án đã duyệt quyết toán 37.172 6.024 4.236 % so với tổng số 86% 73,7% 35,8% 2. Số dự án chưa duyệt quyết toán 6.024 2.145 7.604 % so với tổng số 14% 26,3% 64,2% Tổng số dự án hoàn thành đã phê duyệt quyết toán vốn đầu tư từ tháng 5 năm 1994 đến hết tháng 12 năm 1999 là 37.172 với tổng số vốn đầu tư đã được quyết toán: 47.598 tỷ đồng trong đó : - Dự án do trung ương quản lý : 17.258 dự án, vốn đầu tư 29.993 tỷ đồng. - Dự án do điạ phương quản lý : 19.914 dự án, vốn đầu tư 17.604 tỷ đồng. Tổng số dự án hoàn thành từ tháng 10 năm 1994 đến tháng 12 năm 1999 chưa được phê duyệt quyết tóan vốn đầu tư là 6.024 dự án với tổng số vốn đầu tư khoảng 22.997 tỷ đồng, trong đó : - Dự án do trung ương quản lý : 2.386 dự án, vốn đầu tư 19.495 tỷ đồng. - Dự án do điạ phương quản lý : 3.638 dự án, vốn đầu tư 3.502 tỷ đồng. Hiện nay tình trạng chậm thanh, quyết toán vốn đầu tư đặc biệt cho đối với các dự án sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước phổ biến và chưa có xu hướng dừng lại. Theo điều 56 củanghị định 52/CP thì : - Tất cả các dự án đầu tue của cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước sau khi hoàn thành đưa vào khai thcá sử dụng đều phải thực hiện việc toán vốn đầu tư. - Chậm nhất là 6 tháng sau khi hoàn thành đưa vào vận hành, c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV130.doc
Tài liệu liên quan