Đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế với vấn đề an ninh quốc gia

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU

Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ

I. Những vấn đề chung về hội nhập kinh tế quốc tế

II. Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan

III. Việt Nam với hội nhập kinh tế quốc tế - Những thành tựu và hạn chế

Chương II: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI VẤN ĐỀ AN NINH QUỐC GIA

I. Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế đến an ninh quốc gia Việt Nam

II. Những thách thức về an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

1. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế tạo môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các nước thế lực thù địch thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta.

2. Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng cạnh tranh quyết liệt hơn, an ninh kinh tế bị đe doạ.

3. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự lệ thuộc nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới. Độc lập tự chủ và định hướng XHCN nền kinh tế sẽ đứng trước thách thức lớn.

III. Một số quan điểm và giải pháp cơ bản

1. Những quan điểm cơ bản.

2. Những giải pháp cơ bản.

KẾT LUẬN

 

 

doc37 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8720 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế với vấn đề an ninh quốc gia, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uộc khủng khoảng tài chính tiền tệ năm 1998 của một số nước Châu á. Mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, kích thẳng nền kinh tế phát triển. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 160 nước năm 1990 xuất khẩu mới đạt 2,404 tỷ USD, đến năm 2000 đạt gần 15 tỷ USD. Nhờ đó mà sản xuất trong nước phát triển, mở rộng được nhiều ngành nghề mới, tạo thêm được nhiều việc làm cho người lao động. Thông qua hội nhập các tổ chức kinh tế quốc tế và ký kết nhiều Hiệp định, song phương, đa phương và khu vực, chúng ta đã thu hút được nguồn vốn lớn từ đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến hết năm 2000 đã có 66 nước và vùng lãnh thổ với nhiều tập đoàn, công ty đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Có 3265 dự án được cấp giấy phép, vốn đăng ký 38,6 tỷ USD và đã thực hiện được 15 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chiếm 30% vốn đầu tư toàn xã hội, đóng góp hơn 13,3% GDP, 6 - 7% thu ngân sách, chiếm 35% sản lượng công nghiệp, 23% kim ngạch xuất khẩu, thu hút 30 vạn lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp. Nguồn viện trợ phát triển ngày càng tăng, đến nay tổng mức cam kết tài trợ cho Việt Nam là 13,04 tỷ USD, ta đã ký được 10 tỷ và giải ngân được 6 tỷ. Với việc khai thông quan hệ với IMF và WBđã tạo điều kiện cho Việt Nam đàm phán xoá, giảm nợ nước ngoài, từng bước cân đối thu chi ngân sách. Cùng với việc thu hút vốn đầu tư, Việt Nam tiếp thu được nhiều thành tựu khoa học - công nghệ mới, kỹ năng quản lý, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Quá trình hội nhập, Đảng, Nhà nước đã từng bước rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích, tạo cơ sở cho sự điều chỉnh lộ trình, nội dung hội nhập thích hợp có hiệu quả kinh tế xã hội cao. Tuy nhiên, đối với nước ta, hội nhập kinh tế toàn cầu còn là vấn đề hết sức mới mẻ, nên không tránh khỏi những hạn chế, thậm chí thua thiệt, có cái mất nhiều hơn được. Cụ thể là: - Nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế của ta còn chậm chưa đầy đủ và chưa có sự nhất trí cao, nên có ảnh hưởng tới quá trình đề xuất chính sách và triển khai thực hiện. Không ít người cho rằng hội nhập là của Trung Ương, do đó, công tác chuẩn bị cho hội nhập ở các cấp, các ngành, các doanh nghiệp còn rất chậm. - Trong quá trình hội nhập một số người chỉ nhấn mạnh thời cơ mà không thấy hết được những thách thức đặt ra về kinh tế, chính trị, xã hội quốc phòng an ninh. Nên họ chủ trương hội nhập mọi giá, thậm chí vô nguyên tắc. Ngược lại có một số lại run sợ trước những thách thức của hội nhập, muốn đóng cửa để giữ độc lập tự chủ. Những khuynh hướng sai lầm trên đã ảnh hưởng xấu, làm yếu đi sức mạnh của Việt Nam trong quá trình hội nhập. - Cán bộ quản lý doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước còn mang nặng thói quen bao cấp, chưa nêu cao tính tự chủ, năng lực quản lý kinh tế và sự hiểu biết về kỹ thuật, công nghệ kém, nên đã gây thiệt hại không nhỏ trong liên doanh, liên kết. Nhiều xí nghiệp liên doanh thua lỗ, nhưng đó lại là "lỗ giả", "lãi thật". Để đối tác đầu tư vào công nghệ lạc hậu nhiều thế hệ, hiệu quả sản xuất thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá trên thương trường quốc tế kém, làm mất đi những thị phần ngoài nước quan trọng. - Trong quá trình hội nhập, chúng ta chưa lựa chọn kỹ các đối tác, hoặc chưa hiểu biết đầy đủ những thông tin của đối tác nước ngoài, nên nhiều dự án tính khả thi thấp, phải huỷ bỏ nửa chừng, gây thất thoát tài sản các doanh nghiệp và Nhà nước. - Hệ thống luật pháp, chính sách quản lý kinh tế, thương mại, tài chính chưa hoàn chỉnh, còn nhiều kẽ hở để đối tác lợi dụng. Nhà nước chưa có cơ chế có hiệu lực nhằm kích thích các doanh nghiệp gắn sự tồn tại phát triển của mình với khả năng cạnh tranh trên thương trường quốc tế. - Vấn đề an ninh quốc phòng chưa được quán triệt sâu sắc ở các cấp, các ngành trong quá trình hội nhập. Do đó, không ít doanh nghiệp và một số người trực tiếp làm công tác hợp tác kinh tế quốc tế chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế, không đặt ra những yêu cầu quốc phòng an ninh, dẫn đến mất cảnh giác, để kẻ địch lợi dụng hội nhập tiến hành âm mưu "diễn biến hoà bình" chống phá cách mạng nước ta. Tóm lại: Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế toàn cầu là xu thế khách quan của thời đại, đang tác động sâu sắc đến toàn bộ đời sống kinh tế chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh quốc gia của mỗi nước. Trong xu thế chung đó, các nước công nghiệp phát triển trước hết là Mỹ, do có ưu thế về sức mạnh kinh tế và quân sự đã ra sức thao túng, chi phối kinh tế, chính trị thế giới, áp đặt điều kiện đối với các nước chậm phát triển hơn, thậm chí dùng những biện pháp thô bạo như bao vây, cấm vận, trừng phạt, can thiệp nội bộ các nước, làm thiệt hại lợi ích kinh tế, gây mất ổn định về chính trị của các nước đang phát triển và chậm phát triển. Do đó, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, chúng ta không thể không chú ý đến vấn đề an ninh quốc gia, độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Chương II Hội nhập kinh tế vớI vấn đề an ninh quốc gia Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc vẫn diễn ra gay gắt. Toàn cầu hoá kinh tế đang là xu thế khách quan lôi cuốn hàng trăm quốc gia dân tộc khác nhau về chế độ kinh tế xã hội, trình độ phát triển tham gia hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Vì vậy quá trình tham gia hội nhập kinh tế, mỗi nước đều theo đuổi nhưng mục tiêu khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Các nước tư bản phát triển tham gia hội nhập không chỉ theo đuổi mục tiêu lợi nhuận thuần tuý mà còn tìm cách chi phối, khống chế thị trường, áp đặt chính trị, chuyển hoá nền kinh tế các nước đi theo quỹ đạo Tư bản chủ nghĩa. Các nước kinh tế đang phát triển tham gia hội nhập để tận dụng cơ hội phát triển, thoát khỏi đói nghèo lạc hậu. Đồng thời tập hợp lực lượng đấu tranh chống lại chính sách cửa quyền áp đặt của Mỹ để bảo vệ lợi ích của mình vì một trật tự kinh tế quốc tế bình đẳng công bằng. Các nước xã hội chủ nghĩa chủ động hội nhập để tranh thủ những mặt có lợi trên thị trường thế giới, phát huy lợi thế, phục vụ mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn về kinh tế, rút ngắn, trình độ phát triển so với các nước phát triển trên thế giới. Điều đó chứng tỏ xu thế hội nhập kinh tế phản ánh cục diện vừa đẩy mạnh hợp tác, vừa đấu tranh khốc liệt. Nó vừa có tác động tích cực và tiêu cực đến toàn bộ đời sống kinh tế chính trị xã hội, an ninh quốc gia của mỗi nước. I Những tác động tích cực của hội nhập kinh tế đến an ninh quốc gia của Việt Nam. An ninh quốc gia là: "Trạng thái của quốc gia có sự ổn định về mọi mặt, các lợi ích quốc gia được toàn vẹn, không bị xâm phạm hoặc bị đe doạ..." có nước quan niệm an ninh quốc gia bao gồm có quốc phòng. An ninh quốc gia cần phải được hiểu với nghĩa rộng bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.v.v.. Một nước có sự an ninh quốc gia được bảo đảm là nước có trạng thái ổn định trên các mặt đó và các lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội được bảo vệ toàn vẹn, không bị xâm phạm hoặc đe doạ. Theo đó, hội nhập kinh tế có tác động tích cực đến tăng cường an ninh quốc gia trên những vấn đề sau đây. Một là: Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường, thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến phát triển kinh tế tăng cường an ninh quốc gia. Thị trường có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Việc mở rộng và khai thông thị trường quốc gia với quốc tế sẽ cho phép bổ sung những mặt yếu, thiếu, phát huy những lợi thế của nền kinh tế trong nước. Dưới tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, các thị trường thế giới (Vốn, tài chính, thương mại.v.v..) từng bước được thống nhất và phát triển. Xu thế này sẽ loại bỏ dần các rào cản thương mại (thuế, chính sách bảo hộ) và điều chỉnh các quy tắc vận hành. Các dòng vốn, kỹ thuật công nghệ, tri thức, hàng hoá, dịch vụ ngày càng mở rộng và đẩy nhanh tốc độ. Theo đó, nước ta là nước đang phát triển, chủ động hội nhập nền kinh tế toàn cầu sẽ từng bước mở rộng thị trường ra bên ngoài và có thêm cơ hội thu hút và sử dụng các dòng vốn khu vực và quốc tế, đồng thời mở ra điều kiện thực hiện các dự án đầu tư ra nước ngoài theo lợi thế của ta. Thực tế cho thấy, với một đất nước có số dân 78 triệu người như nước ta, thu nhập bình quân đầu người thấp, chỉ hơn 400 USD thì dung lượng thị trường trong nước sẽ là nhỏ so với khả năng phát triển. Do đó, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế để mở rộng thị trường có ý nghĩa hết sức quan trọng. Hiện nay chúng ta đang thực hiện đầy đủ lộ trình cắt giảm thuế quan đã cam kết với AFTA, để đến 2006 hàng hoá Việt Nam có thể tiêu thụ trên cả thị trường ASEAN với dân số 500 triệu người và GDP trên 700 tỷ. Nếu đàm phán gia nhập được WTO, Việt Nam sẽ được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc trong quan hệ thương mại với 132 nước thành viên. Sau 15 năm đổi mới, thực hiện chính sách mở cửa hội nhập, thực hiện luật đầu tư nước ngoài thông thoáng, đã có 3600 dự án được đăng ký với tổng lượng vốn hơn 41 tỷ USD, trong đó đã giải ngân hơn 21 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài giữ vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước ta: 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công nghiệp, 20% xuất khẩu, giải quyết việc làm cho khoảng hơn 40 vạn lao động và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Bên cạnh cơ hội tận dụng và nâng cao khả năng sử dụng vốn, nước ta còn được thụ hưởng những thành quả tiến bộ của khoa học - công nghệ thế giới, thông qua chuyển giao công nghệ để đổi mới kỹ thuật công nghệ, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong những năm đổi mới vừa qua chúng ta đã tận dụng được cơ hội đó, nền kinh tế tăng trưởng cao, hạ tầng công nghệ thông tin được đánh giá là một trong những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất, kinh tế chính trị xã hội ổn định, an ninh quốc phòng được tăng cường. Trạng thái đó phản ánh tính vững chắc của an ninh quốc gia. Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế tạo thế đan cài lợi ích kinh tế quốc phòng an ninh giữa các nước trong khu vực và thế giới, cho phép nước ta có thể kết hợp sức mạnh trong nước và sức mạnh thời đại thành sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hội nhập kinh tế gắn kết nền kinh tế của mỗi nước với hệ thống kinh tế khu vực và thế giới. Mức độ gắn kết phụ thuộc vào chính sách mở cửa của mỗi quốc gia. Sự hưng thịnh, khủng hoảng hay suy thoái kinh tế của nước này đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến trạng thái phát triển kinh tế và an ninh kinh tế của các nước khác trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng và khả năng ứng phó trước những chấn động kinh tế, chính trị, xã hội bên ngoài đến đâu là tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, dữ trữ ngoại tệ và sức gắn kết kinh tế của mỗi nước trong khu vực và thế giới. Thực tế những thập kỷ qua cho thấy một nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, có dự trữ ngoại tệ lớn, sẽ có sức chịu đựng cao hơn các nền kinh tế lạc hậu khác. Chẳng hạn, sức cạnh tranh của các nền kinh tế Hồng Công, Xingapo lớn, lại có dự trữ ngoại tệ lớn nên đã hạn chế được tác động xấu của cuộc khủng hoảng khu vực năm 1997. Một nước có nền kinh tế hội nhập quốc tế cao, lợi ích quốc gia đan xen chặt chẽ với lợi ích của nhiều quốc gia khác, nhiều trung tâm kinh tế, thì sẽ có nhiều khả năng kết hợp sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế để bảo vệ đất nước tốt hơn. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực 1997, các quốc gia Thái Lan, Hàn Quốc, Inđônêxia vì là thành viên của IMF và lợi ích của các quốc gia này đã liên kết khá chặt chẽ với lợi ích quốc tế, nên quỹ tiền tệ quốc tế đã hỗ trợ tài chính cho các quốc gia này khá lớn, giúp nền kinh tế các nước này nhanh chóng phục hồi thoát ra khỏi khủng hoảng. Trong điều kiện hội nhập quốc tế tiến triển như hiện nay, mọi nền kinh tế đều tuỳ thuộc nhiều hơn vào bền ngoài. Nhưng nếu sự tuỳ thuộc nhiều hơn đó đảm bảo tốt hơn cho lợi ích phát triển quốc gia thì không có lý gì lại không chấp nhận. Theo đó, nền kinh tế nước ta ngày càng tích cực tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực, thế giới và cũng ngày càng tuỳ thuộc hơn vào nền kinh tế bên ngoài. Lợi ích kinh tế của nước ta đang từng bước đan cài và gắn kết với nền kinh tế khu vực và thế giới, nhất là từ sau khi khởi xướng đường lối đổi mới "Mở cửa" hội nhập, Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á, ký hiệp ước song phương, đa phương và nhiều nước trên thế giới. Điều đó được thể hiện rõ trong lượng vốn đầu tư của các nước vào Việt Nam và kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam tăng lên đáng kể. Tính đến năm 1999 kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta đã chiếm tới trên 90% GDP, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chiếm 28% tổng đầu tư xã hội. Đầu tư vào nước ta không chỉ có các nước trong khu vực mà còn có nhiều nước tư bản phát triển khác như: Mỹ, Pháp, Đức, Nhật.v.v... làm cho lợi ích các nước và nước ta đan xen vào nhau, tạo lên sự tương đồng nhất định về lợi ích. Do đó, để tồn tại phát triển đòi hỏi các nước phải hợp tác, đấu tranh bảo đảm môi trường an ninh, hoà bình, ổn định, để bảo vệ lợi ích các bên tham gia. Sự đe doạ độc lập chủ quyền an ninh quốc gia của Việt Nam cũng gián tiếp đe dọa lợi ích kinh tế và an ninh của các quốc gia khác trong cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới. Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam có nhiều điều kiện hợp tác, giao lưu kinh tế, văn hoá, tri thức, thông tin với các nước trong khu vực và thế giới. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện và nâng cao, quốc phòng an ninh được giữ vững và tăng cường. Toàn cầu hoá kinh tế - Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tự do hoá thương mại, tự do hoá tài chính và đầu tư, kéo theo đó là sự mở rộng giao lưu văn hoá, thông tin tham gia AFTA, thực hiện lịch trình cắt giảm thuế quan, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào các nước thành viên có sức cạnh tranh cao hơn. Mặt khác, hàng hoá Việt Nam nhập từ các nước thành viên (bao gồm cả hàng hoá tiêu dùng và hàng hoá là yếu tố đầu vào của sản xuất) sẽ rẻ hơn. Khi hàng hoá tiêu dùng rẻ thì người tiêu dùng càng có lợi, đời sống sẽ được cải thiện và nâng cao. Khi hàng hoá là yếu tố đầu vào của sản xuất sẽ làm cho giá thành sản phẩm hạ xuống, sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta trên thị trường thế giới tăng lên đáng kể, lợi nhuận siêu ngạch qua đó tăng lên tương ứng, an ninh kinh tế được tăng cường. Ngày nay trong môi trường toàn cầu hoá, cùng với việc xuất hiện của mạng Internet, các thông tin, tri thức mới lan truyền nhanh chóng giữa các quốc gia dân tộc, sự ngăn cách về không gian, thời gian không còn ý nghĩa. Các phương tiện hiện đại đã giúp các nước trên các Châu Lục khác nhau, các vùng xa xôi hẻo lánh tiếp cận với tri thức văn hoá tiên tiến, giúp cho sự hoà hợp, hiểu biết lẫn nhau tin tưởng nhau hơn. Trên cơ sở đó xây dựng môi trường hoà bình ổn định và hợp tác. Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho các nước cùng nhau hợp tác giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu để giữ gìn hoà bình ổn định quốc gia, khu vực và thế giới. Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh chóng, đồng thời cũng nảy sinh những vấn đề toàn cầu mới, đe doạ nghiêm trọng đến hoà bình, ổn định và an ninh của mỗi quốc gia như: Chiến tranh công nghệ cao, phòng chống tội phạm, quốc tế, ma tuý, môi trường sinh thái.v.v.. Những vấn đề có tính toàn cầu đó không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được mà phải có sự hợp tác, các quốc gia phải chủ động tham gia vào các tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn đề đó. Mặt khác thông qua các tổ chức này, các nước trao đổi thông tin, kinh nghiệm, phối hợp hành động để phòng chống giữ vững hoà bình ổn định, an ninh để phát triển. II Những thách thức về an ninh quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh mang tính giai cấp sâu sắc. Nên nó không chỉ tạo cơ hội để giữ vững hoà bình an ninh ổn định mà còn tạo ra những thách thức đối với an ninh quốc gia của mỗi nước tham gia hội nhập. 1. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế tạo môi trường thuận lợi cho chủ nghĩa đế quốc và các nước thù địch thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ chống phá cách mạng nước ta. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy giao lưu hợp tác kinh tế giữa các nước, đồng thời cũng tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ lợi dụng thân thiện hợp tác để thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình". Chống phá các nước có xu hướng phát triển tiến bộ đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, lập lại trật tự kinh tế, chính trị thế giới mới do Mỹ đứng đầu. Đối với nước ta hiện nay, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng chính sách "mở cửa", hội nhập của Đảng và Nhà nước ta để tiến hành diễn biến hoà bình trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị , tư tưởng văn hoá, nhất là về kinh tế. Chúng đánh giá rất cao vai trò của kinh tế tư nhân, cơ chế thị trường. Các chính khách chóp bu trong các nước tư bản phát triển đều cho rằng: "Chìa khoá cải cách chính trị ở Việt Nam là doanh nghiệp tư nhân. Chủ nghĩa Cộng sản Việt Nam đã chống lại một cách oanh liệt và giành thắng lợi vĩ đại trước cuộc tấn công bằng sức mạnh quân sự của Pháp, Mỹ. Nhưng nó không thể tồn tại lâu dài trước những cơ hội tích cực do doanh nghiệp tư nhân mở ra". Vì vậy chúng luôn khuyến khích hỗ trợ đầu tư, viện trợ cho thành phần kinh tế tư nhân phát triển để lấn át các thành phần kinh tế khác, phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước tạo cơ sở kinh tế xã hội cho các tổ chức chính trị phản động hoạt động chống phá, làm chuyển hoá tận gốc chế độ xã hội chủ nghĩa, định hướng nền kinh tế nước ta phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Tận dụng ưu thế sức mạnh kinh tế trong xu thế "mở cửa" hội nhập, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ tìm mọi cách chi phối đầu tư từ các nước tư bản phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế vào Việt Nam để xâm nhập, lũng đoạn. Chúng chủ định đầu tư không theo vùng lãnh thổ để gây mất cân đối giữa các vùng miền ở nước ta. Hạn chế đầu tư vào các cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, khu vực sản xuất làm cho hiệu quả đầu tư vào Việt Nam thấp. Lợi dụng những yếu kém về nghiệp vụ và sự thoái hoá của một số cán bộ tiếp nhận đầu tư và nhận chuyển giao công nghệ, để chuyển giao vào Việt Nam công nghệ lạc hậu, kìm hãm sự phát triển kinh tế của nước ta. Đồng thời tác động xấu đến tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế. Hội nhập kinh tế quốc tế, dòng vốn lưu chuyển thông qua đầu tư viện trợ giữa các quốc gia tham gia hội nhập ngày càng gia tăng. Đó là quan hệ kinh tế tất yếu trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Song hội nhập quốc tế trong bối cảnh kinh tế chính trị thế giới phức tạp hiện nay, Mỹ và các thế lực thù địch lại sử dụng đầu tư, viện trợ như là một công cụ để thâm nhập phá hoại các nước khác. Đầu tư, viện trợ bao giờ cũng kèm theo điều kiện chính trị hết sức nghiệt ngã, thúc đẩy nền kinh tế thị trường các nước xã hội chủ nghĩa phát triển theo hướng thị trường tự do, thoát ly dần sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước. Chuyển hoá dần nền kinh tế các nước đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Năm 1989 trong " Báo người bảo vệ" của Anh đã công khai tuyên bố "Nguyên tắc cơ bản nhất của chủ nghĩa Bush là: Mục tiêu viện trợ của Phương tây là phải thúc đẩy và khen thưởng quá trình đa nguyên hoá chính trị và kinh tế thị trường tự do trong các nước xã hội chủ nghĩa. Về kinh tế thực hiện đa nguyên hoá, tức là tự do hoá nền kinh tế, chấp nhận kinh tế thị trường tự do hoàn toàn..." theo họ, nếu ai đi theo hướng đó, thì người đó mới nhận được sự ủng hộ đầu tư và cho vay của Mỹ; "Nước nào chấp nhận đầu tiên thì nước đó đầu tiên nhận được viện trợ". Trong bài bình luận đăng trên báo Lơ - pi - ga - rô của Pháp ngày 14 tháng 12 năm 1989 khi đề cập đến vấn đề các nước Phương Tây dùng đô la Mỹ để ủng hộ công cuộc cải cách "mở cửa" của các nước xã hội chủ nghĩa, đã dẫn lời của Brê - dên - Sky lộ rõ thực chất của khoản viện trợ này "là khoản tiền an táng, tiền tuốt hợp với lễ nghi chế độ Cộng sản". Điều đó chứng tỏ Mỹ và các nước Phương Tây luôn dùng viện trợ làm mồi nhử, viện trợ bao giờ cũng gắn với điều kiện chính trị hết sức phản động để can thiệp ngày càng sâu vào các nước xã hội chủ nghĩa để chuyển hoá dần chế độ, tạo thời cơ cho bọn phản động trong nước gây bạo loạn lật đổ chính quyền. ý đồ thâm độc đó thể hiện rõ nét qua sự viện trợ của Mỹ và Phương Tây cho các nước Đông Âu khi cải cách, mở cửa, hội nhập. Gần đây, trước khi ký hiệp ước thương mại song Phương Việt - Mỹ đặt những điều kiện chính trị "luật nhân quyền" hết sức thô bạo. Lợi dụng sức mạnh kinh tế và Liên Hiệp - Quốc, Mỹ khống chế các nước và các tổ chức kinh tế quốc tế như: Quỹ tiền tệ quốc tế , ngân hàng thế giới, tổ chức thương mại thế giới trong việc đầu tư, viện trợ cho vay và buôn bán với Việt Nam. Mặt khác, lợi dụng "mở cửa" hội nhập, giao lưu kinh tế, các thế lực thù địch truyền bá văn hoá xấu độc, tư tưởng phản động, kích động tôn giáo, chia rẽ dân tộc, gây xung đột sắc tộc tôn giáo.v.v.. Thực trạng trên đây phản ánh quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra thách thức lớn đối với công cuộc bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và đe doạ đến hoà bình, an ninh, ổn định chính trị - xã hội của nước ta. Do đó, giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, chính trị trong môi trường hội nhập sẽ gặp vô vàn khó khăn. 2. Hội nhập kinh tế quốc tế làm gia tăng cạnh tranh quyết liệt hơn, an ninh kinh tế bị đe doạ. Hội nhập kinh tế quốc tế với sự tham gia của nhiều chủ thể quốc gia có chế độ chính trị, trình độ phát triển khác nhau vào thị trường khu vực và thế giới thống nhất sẽ làm cho cạnh tranh quyết liệt hơn. Nền kinh tế của các nước kinh tế chậm phát triển sẽ dễ bị tổn thương do áp lực kinh tế từ bên ngoài. Các luồng vốn, công nghệ, hàng hoá dịch vụ sẽ chạy đến nơi nào có môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. Những hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao, giá cả thấp hơn thoả mãn nhu cầu của khách hàng tốt hơn sẽ chiến thắng trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần ngoài nước. Ngược lại những nước kinh tế kém phát triển chất lượng hàng hoá dịch vụ thấp giá cả cao sẽ thất bại trong cạnh tranh và thu hẹp thị phần. Theo đó, cạnh tranh trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhưng cũng là nguyên nhân đổ vỡ, thua thiệt của các nước kinh tế lạc hậu khi tham gia hội nhập. Nước ta tham gia hội nhập kinh tế quốc tế từ một điểm xuất phát thấp, khoảng cách chênh lệch và trình độ, phát triển giữa nước ta với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới khá lớn. Tuy chúng ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH, nhưng thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp (75% lao động trong nông nghiệp). Hệ thống kỹ thuật công nghệ lạc hậu từ 2 - 4 thế hệ so với thế giới, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm một số hàng hoá còn thấp. Do đó, sức cạnh tranh hàng hoá của ta kém, khả năng chiếm lĩnh và mở rộng thị phần trong nước và ngoài nước còn rất hạn chế. Đây thực sự là một nguy cơ, một áp lực lớn khi ta đẩy nhanh nhịp độ mở cửa hội nhập, an ninh kinh tế sẽ bị đe doạ. Mặt khác chúng ta đang trong quá trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN. Các yếu tố của thị trường mới đang được hình thành, chưa hoàn chỉnh. Các luật chơi trong toàn cầu hoá và hội nhập ta chưa thạo, nguy cơ kiến thức về kinh tế thị trường cũng còn nhiều bất cập. Đội ngũ cán bộ quản lý điều hành chưa thật sự sẵn sàng và chưa đủ đáp ứng yêu cầu cao của hội nhập. Việc thiếu hiểu biết về thị trường khu vực và thế giới, thiếu công cụ, phương tiện trong giao dịch, thanh toán quốc tế.v.v.. là thách thức lớn trong tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, tình trạng tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy quản lý đang trở thành quốc nạn, tạo môi trường cho sự xâm nhập bằng kinh tế để phá hoại gây mất ổn định, chuyển hoá chế độ. Điều đó sẽ gây khó khăn không nhỏ cho chúng ta trong bảo vệ an ninh kinh tế, chính trị quốc gia. 3. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự lệ thuộc nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới. Độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế sẽ đứng trước thách thức lớn. Hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Một quốc gia có tỷ lệ ngoại thương cao, thu hút được vốn đầu tư từ ngoài nước sẽ tạo điều kiện tốt cho phát triển, tăng trưởng kinh tế, nhưng cũng gia tăng sự bất ổn từ bên ngoài đưa lại do phụ thuộc vào vốn và thị trường nước ngoài. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Nhật bản là nước có sự phát triển tăng trưởng cao nhất thế giới do hoạt động ngoại thương đem lại, đến đầu những năm 70 do khủng khoảng của nền kinh tế thế giới đã đẩy Nhật vào tình thế khó khăn suy thoái nghiêm trọng. Năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Nam á bắt đầu nổ ra ở Thái Lan đã nhanh chóng lan rộng sang các nước Inđônêxia, Hàn quốc,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQHT35t (4).doc