Đề tài Lạm phát ở Việt Nam, thực trạng và các giải pháp

-Phần mở đầu : tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài 1

-Nội dung

A-Những vấn đề lí luận về lạm phát 2

I-Bản chất của lạm phát 2

II-Hình thức biểu hiện của lạm phát và các cấp độ của nó 2

1-Hình thức biểu hiện lạm phát. 2

2-Các cấp độ của lạm phát 3

III-Tác động của lạm phát đến nền kinh tế 5

1-Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế 5

2-Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế 5

IV-Yêu cầu phải kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát 6

B-Thực trạng tình hình lạm phát trong nền kinh tế nước ta. 7

I-Lạm phát ở nước ta trước thời kỳ đổi mới(1986) 7

II-Lạm phát ở nước ta từ đổi mới đến nay 7

1-Thời kì bắt đầu đổi mới 1986-1990 7

2-Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định 1991-1995 8

3-Thời kỳ kinh tế có dấu hiệu trì trệ 1996-2000 9

4-Thời kỳ kinh tế có bước phát triển mới 2001-2004 10

III-Những vấn đề đặt ra cần giải quyết 10

C-Các quan điểm và giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát trong nền kinh tế 11

I-Quan điểm của Đảng và Nhà nước về kiềm chế lạm phát 11

II-Các giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát trong nền kinh tế 12

1-Các giải pháp vĩ mô 12

2-Các giải pháp vi mô 15

-Kết luận 16

Tài liệu tham khảo 17

 

 

doc36 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2820 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát ở Việt Nam, thực trạng và các giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. III-Tác động của lạm phát đến nền kinh tế. 1-Tác động tích cực của lạm phát đến nền kinh tế. Một chút lạm phát là tốt cho nền kinh tế.Trước hết hãy xem xét về những chi phí kinh tế của lạm phát.Khi lạm phát ở mức cao,dân chúng nhận thấy rằng việc phân biệt giữa những thay đổi trong mức giá bình quân và những thay đổi trong mức giá tuyệt đối là rất khó.Nếu lạm phát tăng sẽ làm kìm hãm tăng trưởng kinh tế,nếu lạm phát giảm sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Nếu chính sách tiền tệ tập trung vào việc giữ lạm phát ở mức thấp và ổn định,nó sẽ giúp ổn định mức tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm. Với tỉ lệ lạm phát nhỏ hơn hoặc bằng 2%,hầu hết các nước giàu đã đạt ít nhiều”sự ổn định giá cả”.Theo qui luật kinh tế trước đây,nếu tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống dưới NAIRU(được cho vào khoảng 5,5%)thì tỷ lệ lạm phát sẽ bắt đầu tăng.Điều này,đến lượt nó có hàm ý rằng tỷ lệ tăng trưởng tối đa mà nền kinh tế Mỹ có thể duy trì một cách an toàn (phù hợp với mức tăng trưởng của lực lượng lao động và của năng suất lao động)là khoảng 2,25%-2,5%.Hiện nay,tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ là 4,2% mức thấp nhất trong 30 năm qua và GDP đã tăng với một tốc độ trung bình là gần 4%/năm trong 3 năm qua.Theo các sách giáo khoa thì lạm phát sẽ tăng lên trong trường hợp của Mỹ.Nhưng thực tế,tỷ lệ lạm phát của Mỹ vẫn thấp . Một số nhà kinh tế cho rằng lạm phát vừa phải là 3-4% là tốt cho tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm. Họ cho rằng ,mức lương danh nghĩa có xu hướng khó giảm xuống.Công nhân có thể được chuẩn bị để chịu đựng được mức tiền công thấp khi tỷ lệ lạm phát là 3%,một tỷ lệ tương đương với một sự suy giảm của thu nhập thực tế,nhưng họ lại không muốn chấp nhận một sự cắt giảm tiền lương,họ mang về nhà sẽ ít hơn.Do vậy nếu tỷ lệ lạm phát là zero thì không thể điều chỉnh giảm mức lương thực tế trong những nghành công nghiệp hay khu vực đang suy thoái,mà sự suy thoái này đồng nghĩa với việc gia tăng trong tỷ lệ thất nghiệp. Những nhà kinh tế trên cho rằng lạm phát làm “bôi trơn “ những bánh xe của thị trường lao động,cho phép tiền lương thực tế có thể được điều chỉnh dễ dàng hơn. Vì thế để có tốc độ tăng trưởng cao hay không thì phải duy trì một tỷ lệ lạm phát nhất định nào đó. 2-Tác động tiêu cực của lạm phát đến nền kinh tế. Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế.khi lạm phát xảy ra nó sẽ làm lệch lạc cơ cấu giá cả,kéo theo là nguồn tài nguyên,vốn và nguồn nhân lực không được phân bố một cách có hiệu quả,kết cục là làm cho tăng trưởng chậm lại. Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài hạn.Nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắn hoặc không thể dự đoán được mức giá cả trong tương lai,kéo theo là không thể biết được lãi xuất thực thì không ai trong số họ dám liều lĩnh đầu tư,nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn,mặc dù có thể các điều kiện đầu tư khác là khá ưu đãi và hấp dẫn.Tính không chắc chắn của mức độ lạm phát sẽ đẩy lãi suất thực lên cao bởi chủ nợ muốn có sự bảo đảm cho mức rủi ro lớn .Mức lãi suất thực cao này sẽ kìm hãm đầu tư và làm chậm tốc độ tăng trưởng. Điều này có thể minh hoạ về tình hình lạm phát cao ở Indonesia và Thái Lan trong giai đoạn 1999-2000 khi lạm phát cao thì tăng trưởng thấp. Lạm phát cao khuyến khích người dân quan tâm tới lợi ích trước mắt. Khi có lạm phát xẩy ra ở một nước thay cho việc ký thác tiền trong ngân hàng để hưởng lãi suất hay đầu tư vào khu vực sản xuất kinh doanh hòng tìm kiếm lợi nhuận, dân chúng có thể đổ xô mua hàng để dự trữ vì kỳ vọng giá hàng hoá còn tăng nữa. Điều này vô hình dung làm tăng cầu hàng hoá một cách giả tạo và do vậy càng làm cho lạm phát có nguy cơ bùng nổ đến mức độ cao hơn. Lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của quốc gia. Chính phủ các nước đã từng trải qua lạm phát cao (Inđônêxia 1967, Anh 1979…) đều cho rằng không kiểm soát được lạm phát là điều đáng sợ nhất.Toàn bộ hoạt động kinh tế bị méo mó,biến dạng nghiêm trọng gây tâm lý xã hội phức tạp và làm lãng phí ghê gớm trong sản xuất.Đặc biệt khi lạm phát cao xẩy ra, sức mua đối nội của đồng tiền vào hệ thống ngân hàng và cao hơn nữa là vào chính phủ sẽ bị xói mòn. Điều này gây tác hại vô cùng lớn lao đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế đất nước. Vả lại, từ khi rơi vào tình trạng lạm phát cao đến khi ra khỏi tình trạng đó nhìn chung đều cần một thời gian dài với sự hao tổn lớn về mặt vật chất và uy tín. Lạm phát cao làm giảm các nguồn thu từ thuế cho ngân sách nhà nước. Những tác động làm giảm này xét trên cả hai phương diện trực tiếp và gián tiếp. Một mặt, lạm phát cao dẫn đến sản xuất bị đình đốn làm cho nguồn thuế bị giảm sút cả về mặt qui mô và chất lượng. Mặt khác, lạm phát cao đồng nghĩa với việc sự mất giá của đồng tiền, do đó với cùng một số lượng tiền thu được từ thuế thì giá trị nguồn thu thực tế của nó bị giảm xuống khi có lạm phát cao.Ví dụ,ở Mexico lạm phát làm giảm nguồn thu thực tế năm 1981 là 2,6% GDP và giai đoạn 1983-1987 là 1,6% GDP. IV.-Yêu cầu phải kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát. Thực tế hơn 20 năm điều hành nền kinh tế và với những kinh nghiệm thực tiễn sinh động chống lạm phát đã có thể kết luận rằng lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn của mọi nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Một khi lạm phát cao xuất hiện thì tổn thất về kinh tế cũng như xã hội là rất lớn. Do vậy, bất cứ nền kinh tế nào khi có lạm phát xuất hiện thì phải có ngay các giải pháp để chống. Sự thành công trong chống lạm phát là nhờ sự điều hành thông minh và sáng tạo của chính phủ mỗi nước. Lạm phát thường xuất hiện khi mất cân đối nghiêm trọng giữa tổng cung và tổng cầu hàng hoá, mất cân đối giữa cung tiền tệ và cầu tiền tệ. Tuy nhiên mỗi giai đoạn khi lạm phát xuất hiện với hình thức và dáng vẻ khác nhau thì lại có nhiều câu hỏi và tranh luận được đặt ra : chống lạm phát bằng giải pháp nào? Có thể chống lạm phát bằng một vài giải pháp riêng lẻ không? Còn nếu chống lạm phát bằng một tập hợp các giải pháp gì? Lạm phát ở mức nào thì có thể chấp nhận được?Trả lời được những câu hỏi đó thì chúng ta sẽ kiềm chế và khắc phục được tình trạng lạm phát. B –Thực trạng tình hình lạm phát trong nền kinh tế nước ta I – Lạm phát ở nước ta trong thời kỳ đổi mới(1986) Trước thời kỳ đổi mới,nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp nên vấn đề giá cả chưa chịu tác động của quy luật thị trường,mà được định ra theo mệnh lệnh và qui định ,do vậy lạm phát không xuất hiện. Tuy nhiên bước vào giai đoạn 1976-1985,nền kinh tế đã có nhiều biểu hiện suy thoái, khủng hoảng và lạm phát. Lạm phát thời kì này là lạm phát phi mã 700-800%.Lạm phát này phá vỡ hoàn toàn mọi cân đối và hệ thống tài chính-tiền tệ rối loạn,kinh tế-xã hội có nhiều biến động xấu.Sản xuất đình đốn, kinh doanh kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, chi phí vật chất cao, thu nhập quốc dân tăng không đáng kể, đời sống của người dân giảm sút, giá cả ở thị trường chính thức và thị trường chợ đen có khoảng cách khá xa. Nông nghiệp với tỷ trọng chiếm trên 40%tổng sản phẩm xã hội và khoảng 50% thu nhập quốc dân nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân chỉ ở mức 3,8%/năm.Độc canh cây lúa với tổng sản lượng lương thực chỉ đạt 18,2 triệu tấn vào năm 1985 nên tình trạng thiếu lương thực và đói ăn của người dân kéo dài triền miên,công nghiệp cũng chỉ tăng 5,2%/năm.Dịch vụ hầu như không phát triển, xuất khẩu thì với số lượng nhỏ bé, chỉ đạt khoảng 746 triệu USD vào năm 1985, trong khi thâm hụt cán cân thương mại lại cao(844 triệu USD năm1985) gấp 1,13 lần so với xuất khẩu. Thời kì 1976-1980, vay nợ và viện trợ nước ngoài chiếm 38,2% tổng số thu ngân sách Nhà nước và bằng 61,9% tổng số thu trong nước. Bội chi ngân sách Nhà nước vào 1980 là 18,1% và năm1985 là 36,6% so với GDP. Đây là tình trạng đất nước làm không đủ ăn, tình hình kinh tế –xã hội khó khăn không thể kể hết. II-Lạm phát ở nước ta từ đổi mới đến nay 1-Thời kì bắt đầu đổi mới 1986-1990 Bước sang thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Sau Đại hội Đảng lần VI, công cuộc đổi mới đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, nhất là từ năm 1989.Tuy nhiên,nền kinh tế nước ta vẫn đang ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội:kinh tế phát triển chậm không ổn định;bình quân thời kì 86-90 tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất nông nghiệp là 3,5%, công nghiệp là 6,2% và tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 3,9%,trong khi dân số tăng 2,3%. Trong giai đoạn này hầu hết các cân đối lớn đều căng thẳng:thâm hụt ngân sách ở mức 8% so với GDP, kim nghạch xuất khẩu chỉ đạt ở mức thấp và chỉ bằng 54% kim nghạch nhập khẩu(1986,kim nghạch xuất khẩu đạt 499 triệu USD và năm 1990 đạt 1734 triệu USD. Lạm phát phi mã tuy đã được đẩy lùi nhưng vẫn còn rất cao(từ 487,2% năm 1986 còn 67,1% năm 1990). Giai đoạn 1986-1990,mặc dù Đảng và chính phủ đã có nhiều biện pháp đổi mới về cơ chế chính sách và có nhiều giải pháp điều hành mới như :đề ra ba chương trình kinh tế lớn(chương trình lương thực –thực phẩm,chương trình sản xuất hàng tiêu dùng và chương trình sản xuất hàng xuất khẩu), nghị quyết 10 của Bộ chính trị (5/4/1988) về đổi mới trong nông nghiệp, quyết định 217/HĐBT trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp quốc doanh, luật đầu tư nước ngoài ra đời(12/1987), thả nổi giá cả đối với tất cả các loại hàng hoá và vật tư, xoá bao cấp qua giá, nhưng đời sống nhân dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn, số người không có việc làm ngày càng lớn, chiếm trên 10% lực lượng lao động xã hội…Thu nhập bình quân trên đầu người thấp cộng với lạm phát cao nên mức sống thực của người dân đã thấp lại còn thấp hơn. Trong giai đoạn 1986-1990,điểm đáng nhớ là hàng hoá sản xuất ra không bán được, hàng hoá tồn đọng, nhiều cơ sở phải thu hẹp hoặc ngừng sản xuất, tài chính doanh nghiệp rối ren, tình trạng ngăn sông cấm chợ vẫn còn diễn ra.Cuối giai đoạn 1986-1990 tình hình kinh tế –xã hội đã có nhiều cải thiện, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân mỗi năm 4,8%, thu nhập quốc dân bình quân đầu người mỗi năm tăng 3,9%, sản lượng lương thực đã đạt 21,5 triệu tấn,phân phối lưu thông đã có những bước tiến quan trọng, nhu cầu tiêu dùng giả tạo đã giảm đáng kể, hoạt động kinh tế đối ngoại có nhiều khởi sắc, tốc độ xuất khẩu có tăng nhanh hơn, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh bắt đầu phát triển. 2-Thời kỳ kinh tế đi vào ổn định(1991-1995) Bước sang giai đoạn 1991-1995, tình hình kinh tế –xã hội nước ta có nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, liên tục và toàn diện, nền kinh tế đã bắt đầu vượt qua khủng hoảng để đi vào thế ổn định. Tổng sản phẩm trong nước thời kì 1991-19995 tăng bình quân 8,2%(năm 1991 tăng 6%,1992 tăng 8,6%,1993 tăng 8,1%,1994 tăng 8,8% và 1995 tăng 9,5%), giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm tăng5,2%, sản lượng lương thực hàng năm tăng 4%, lương thực bình quân đầu người đã tăng liên tục từ 324,9kg năm 1991 lên 400kg năm 1998, và từ nước nhập khẩu gạo đến giai đoạn này đã là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, nhiều nhân tố mới trong nông nghiệp xuất hiện, hình thành nhiều hộ sản xuất kinh doanh giỏi và khoảng 11,5 vạn hộ phát triển kinh tế trang trại. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm khoảng 13%, vượt qua nhiều thử thách gay gắt của thị trường, thích nghi dần với cơ chế mới, nhiều sản phẩm quan trọng tác động quyết định đến nền kinh tế đều tăng trưởng khá. Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế và phục vụ đời sống của nhân dân. Lưu thông vật tư hàng hoá và dịch vụ phát triển phong phú, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội về số lượng, chất lượng và chủng loại đã góp phần tạo nên những biến động sâu sắc trên thị trường trong nước. Trong giai đoạn 1991-1995, điểm nổi bật là sự tăng trưởng kinh tế vượt trội hơn tất cả các giai đoạn trước đó với tốc độ tăng trưởng cao nhất, ổn định và liên tục,tăng trưởng từ bản thân nền kinh tế ít dựa vào bao cấp và trợ lực từ bên ngoài. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng từ 2,9% năm 1991 lên 6,6% năm 1995(năm 1992 tăng 8,4%, 1993 tăng 6,7%,1994 tăng 4,9%).Sản lượng lương thực đã tăng từ 14,3 triệu tấn giai đoạn 1976-1980,17 triệu tấn/năm giai đoạn 1986-1990 lên 25,1 triệu tấn giai đoạn 1991-1995. Thành công trong quá trình đổi mới của nền kinh tế giai đoạn 1991-1995 là bước đầu chặn được lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,1% năm 1990xuống 12,7% năm 1995(năm 1991 tỉ lệ lạm phát là 67,5% , năm 1992 là 17,5%, năm 1993 là 5,2%, năm 1994 là 19,4%, năm 1995 là 12,7%).Mặc dù chỉ số giá tiêu dùng vẫn ở mức hai con số, nhưng đây là một chỉ số rất nhỏ bé so với các năm trước đó, tình hình kinh tế-xã hội đã có nhiều khởi sắc và đang càng ngày đi vào thế ổn định và phát triển, đời sống nhân dân đã được cải thiện một bước. Do vậy, giai đoạn này, tình hình chính trị xã hội đã có nhiều hứng khởi, lòng dân được khích lệ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước hơn. 3-Thời kỳ kinh tế có nhiều dấu hiệu trì trệ(1996-2000) Bước sang giai đoạn này, tình hình kinh tế –xã hội đã đi vào thế ổn định và phát triển. Đây là giai đoạn được xác định là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới-đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Năm 1996,kế thừa những thành quả đã đạt được trong giai đoạn trước, tình hình kinh tế xã hội có những chuyển biến tích cực,đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao(9,3%). Tuy nhiên khủng hoảng kinh tế khu vực đã có tác động không nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Nền kinh tế nước ta đã phải đối mặt với những thách thức quyết liệt từ những yếu tố không thuận lợi bên ngoài và thiên tai liên tiếp ở trong nước. Bên cạnh đó lại có những yếu kém từ nội tại nền kinh tế bộc lộ ra:Sản xuất kinh doanh một số nghành có phần bị trì trệ, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, tốc độ tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài chậm lại. Trước tình hình đó,Đảng và chính phủ đã có nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn, hạn chế sự giảm sút, duy trì và ổn định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên tốc độ tăng GDP theo các năm có giảm chút ít và năm 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế có tăng lên, chặn được đà giảm sút các năm trước đó(GDP năm 1996 tăng 9,34%, 1997 tăng 8,15%,1998 tăng 5,76%,1999 tăng 4,77%,năm 2000 đạt 6,79%). Trong giai đoạn 1996-2000,đã bảo đảm duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá ,GDP bình quân tăng 7%/năm,giá trị sản xuất nông,lâm,ngư nghiệp tăng 5,8%/năm,giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/năm,giá trị các nghành dịch vụ tăng 6,8%/năm,GDP bình quân đầu người năm 2000 tăng gấp 1,8 lần năm 1990. Trong giai đoạn này, điều đặc biệt làm chúng ta quan tâm là đi cùng với tốc độ tăng trưởng nền kinh tế có chiều hướng chững lại và đi xuống thì tỷ lệ lạm phát được kiểm soát, giảm xuống mức thấp đáng kể và chuyển sang xu thế thiểu phát. Điều này được thể hiện ở chỗ tỷ lệ lạm phát năm 1995 là 12,7% thì năm 2000 là một số âm (-0,6%)(năm 1996 tỷ lệ lạm phát là 4,5%,1997 là 3,6%,1998 là 9%, 1999 là 0,1%) Vào các năm cuối của giai đoạn 1996-2000,tình hình lạm phát có thay đổi,tỷ lệ lạm phát ở mức thấp như không thể thấp hơn được nữa và nguy cơ thiểu phát đã xuất hịên. Đi cùng với chỉ số giá ở mức 0,1% năm 1999 và (-0,6%)năm 2000 là sản xuất trì trệ,các hoạt động kinh doanh có nhiều dấu hiệu đình đốn. Chúng ta đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát bảo đảm lạm phát từ 3 con số xuống còn 2 con số và giữ nguyên ở mức 1 con số. Nhưng kiềm chế được lạm phát thì lại phát sinh vấn đề thiểu phát và từ thiểu phát tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm xuống. Như vậy diễn biến tình hình lạm phát và tăng ttrưởng trong giai đoạn 1996-2000 là không tốt đối với nền kinh tế. 4-Thời kỳ kinh tế có bước phát triển mới (2001-2004) Với những vấn đề nêu trên, những năm đầu của giai đoạn 2001-2005,chúng ta đã áp dụng nhiều biện pháp hạn chế thiểu phát, kích cầu nhằm đưa tỷ lệ lạm phát lên một mức hợp lí và nhằm đạt được tộc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh , bền vững và ổn định,trong bốn năm vừa qua 2001-2005, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khả quan:năm 2000 chặn đứng đà giảm sút của tốc độ tăng trưởng GDP, năm 2001 tốc độ tăng trưởng GDP được cải thiện, bắt đầu tăng và đạt 6,89%,năm 2002 tốc độ này đạt 7,04%, năm 2003 tăng 7,24% và năm 2004 tăng 7,62%. Trong bốn năm vừa qua kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao , cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo định hướng công nghiệp hoá, hiên đại hoá, vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế đã tăng lên đáng kể, đời sông của nhân dân tăng lên rõ rệt,tỷ lệ đói nghèo đã giảm đi trông thấy, xã hội đang đi vào thế ổn định và hưng thịnh. Mọi mặt của đời sống xã hội đã được cải thiện và phát triển. Tỷ lệ lạm phát trong các năm trong giai đoạn này cũng tăng dần lên từ (-0,6%) năm 2000 lên 9,5% năm 2004(năm 2001 chỉ số giá ở mức 0,8%, 2002 là 4%, năm 2003 là 3%). Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển mạnh của nền kinh tế trong giai đoạn 2001-2004 như đã nói ở trên, thì lạm phát lại có nguy cơ tái diễn. Năm 2004 tình hình biến động trên thị trường thế giới và biến động trên thị trường trong nước lạm phát lại như một bóng ma một lần nữa rập rình gây bất ổn nền kinh tế. Với chỉ số tiêu giá 9,5% năm 2004 là một ranh giới mỏng manh giữa lạm phát kiểm soát được và lạm phát cao. Năm 2005, chỉ số giá 2 tháng đầu năm ở mức 1,1%(tháng 1)và 2 tháng là 3,6% cũng không phải là thấp, cần phải cảnh giác và tìm biện pháp ngăn chặn ngay từ bây giờ, không để cho lạm phát có thể trở thành 2 con số trong năm 2005 như cha ông thường nói nước nhỏ thành lũ lớn. Vậy một lần nữa câu hỏi lạm phát là gì, tại sao nó luôn đe doạ chúng ta, có cách gì thoát khỏi nó một cách tuyệt đối không? III-Những vấn đề đặt ra cần giải quyết Do mối tương quan giữa độ mở của nền kinh tế với xu hướng biến động của tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển dịch có mối tương quan khá chặt chẽ và ngược chiều trong giai đoạn 1987-2003 là -0,69, trong giai đoạn 1987-1990 là 0,96 , trong giai đoạn 1990-2004 là 0,48 nên để duy trì sự ổn định của tỷ lệ lạm phát ở mức thấp ,thì điều cần thiết là phải tiến hành đẩy nhanh hơn nữa tiến trình hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Phải xác định quan điểm rõ ràng và nhất quán đó là sự đối mặt với sự biến động mạnh của các cú sốc giá cả thế giới trong quá trình hội nhập là điều không thể tránh khỏi song chúng ta có thể giảm thiểu được những ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực của các cú sốc giá cả đó bằng việc đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc lại thị trường trong nước theo hướng tự do hoá, nhằm gia tăng mạnh những nhân tố khuyến khích tính cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời tiến dần tới việc loại bỏ hoàn toàn các yếu tố độc quyền gây đầu cơ trục lợi mang tính cục bộ-đặc biệt là việc loại bỏ tính độc quyền và lũng đoạn thị trường trong hệ thống lưu thông phân phối các mặt hàng nhạy cảm như dược phẩm,sắt thép , phân bón… Đối với việc giảm thiểu ảnh hưởng ngoại lai tiêu cực các cú sốc giá quốc tế của các yếu tố đầu vào tới lạm phát trong nước, điều cần thiết trước tiên là nên giảm mạnh mức thuế nhập khẩu(tới 0%)đánh vào các mặt hàng yếu tố đầu vào có mức giá quốc tế tăng cao như sắt ,thép,phân bón…nhằm giảm bớt sự gia tăng khuếch đại chi phí của các yếu tố đầu vào đối với sự gia tăng chỉ số của các yếu tố đầu vào đối với sự gia tăng của chỉ số giá của nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng của nhóm lương thực và thực phẩm.. Vấn đề phải giải quyết từ bây giờ nhằm kiểm soát được lạm phát ở mức thấp vừa phải mà vẫn thúc đẩy phát triển kinh tế cao trong dài hạn,đó là:phải đẩy mạnh hơn nữa việc tái cơ cấu lại các cấu trúc thị trường nội địa nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô về tiền-hàng, cân đối thu chi ngân sách, cân đối ngoại tệ, cân đối giữa tích luỹ và tiêu dùng, chủ động kiểm soát chặt tình hình dịch cúm gia cầm và thuỷ cầm, đẩy mạnh chống tham nhũng và thất thoát trong xây dựng cơ bản, tự do hoá thị trường, tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng hơn nữa giữa các thành phần kinh tế.. nhằm giảm thiểu đến mức tối đa các tác động tiêu cực ngoại lai có thể xảy ra đối với việc kiểm soát lạm phát ổn định ở mức hợp lí(6-8%)và phát triển kinh tế Việt Nam. C-Các quan điểm và giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát trong nền kinh tế I-Quan điểm của Đảng và Nhà nước về kiềm chế lạm phát. Những mất cân đối về kinh tế vĩ mô (được thể hiện bằng lạm phát, thâm hụt ngân sách, sự chênh lệch tỷ giá cao của thị trường không chính thức)có tương quan ngược chiều nhau rất rõ đối với sự tăng trưởng. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng không phải là đồ thị đường thẳng và tăng trưởng thấp trong trường hợp có lạm phát cao. Nhiệm vụ hoạch định chính sách là làm thế nào để giảm thiểu được các tác động suy giảm đối với sản lượng, đồng thời tạo được các điều kiện nhằm tăng cường khả năng tăng trưởng lâu dài. Tất cả các chính sách đề ra trên cơ sở đảm bảo hai yêu cầu cơ bản là tăng trưởng cao liên tục vững chắc và giữ mức lạm phát ở một con số. Tăng trưởng cao gắn liền với các yếu tố:duy trì lạm phát thấp và chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt có sức cạnh tranh cao.Đầu tư vào nguồn nhân lực thông qua các khoản chi tiêu công cộng về giáo dục, khuyến khích áp dụng lãi suất tiết kiệm thực dương hợp lí và bảo vệ có hiệu quả các khoản tiền gửi ở các tổ chức tài chính, hạn chế những méo mó,xuyên tạc về giá cả, khuyến khích tiếp thu công nghệ mới và hiện đại từ nước ngoài, tránh đánh thuế ngầm và những bất lợi cho sản xuất nông nghiệp. Nâng tỷ lệ tiết kiệm cao, tăng đầu tư vào nguồn nhân lực và có chính sách ổn định kinh tế vĩ mô là những yếu tố quyết định đến tăng trưởng. Tuy nhiên , tăng trưởng nhanh phải chú ý tránh một số yếu kém xuất hiện: phải hạn chế tối đa việc đầu tư trung và dài hạn bằng vốn ngắn hạn, đặc biệt vốn ngắn hạn vay của nước ngoài,tránh làm mất các giá trị truyền thống, khai thác các nguồn nhân lực phải có qui hoạch và kế hoạch trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế- xã hội cao làm thước đo. Đẩy mạnh việc chấn chỉnh hệ thống doanh nghiệp nhà nước để hoạt động có hiệu quả cao hơn, trong đó có xúc tiến nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Sắp xếp mạng lưới lưu thông hàng hoá, tạo khối lượng dự trữ lưu thông đủ mạnh, nhất là những mặt hàng thiết yếu để nhà nước có khả năng can thiệp thị trường trong những trường hợp cần thiết, nhằm bình ổn giá cả và tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động bình đẳng ,tham gia tích cực vào cạnh tranh lành mạnh trên thị trường trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy hàng hoá lưu thông suốt từ sản xuất đến tiêu dùng. Đặc biệt đẩy mạnh khuyến khích sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu. Đổi mới và hoàn thiện các cơ sở pháp lí cho hoạt động sản xuất kinh doanh đối với tất cả các thành phần kinh tế khác nhau. II-Các giải pháp nhằm kiềm chế và khắc phục tình trạng lạm phát trong nền kinh tế. 1-Các giải pháp vĩ mô. a,chính sách tiền tệ tín dụng. Trong lĩnh vực tiền tệ,tín dụng cần xử lí hợp lí các vấn đề sau :Nhu cầu về vốn để phát triển kinh tế cao,khả năng đáp ứng vốn và kiềm chế lạm phát ở mức hợp lí với ổn định đồng tiền: Hàng năm hệ thống ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế một lượng vốn khoảng vài chục đến vài trăm nghìn tỷ đồng để đầư phát triển. Thực tế , nhu cầu tăng tín dụng rất cấp bách với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và chất lượng tín dụng. Tình hình cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp ở khu vực và thế giới với sự khó khăn bên trong nền kinh tế nước ta, việc đòi hỏi tiếp tục giảm lãi suất “đầu vào” của các doanh nghiệp là đặc biệt chính đáng và những diễn biến lãi suất thị trường để có thể huy động vốn cho vay nền kinh tế lại là vấn đề nan giải. Vốn vay tăng nhanh và vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đang có dấu hiệu tăng không nhiều, công với việc ổn định tỷ giá theo hương khuyến khích xuất khẩu và đẩy mạnh sản xuất trong nước là vấn đề đau đầu của nhiều nhà kinh tế . Để xử lý tốt các vấn đề nêu trên, cần tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ thận trọng hợp lý, song phải điều chỉnh kịp thời ,linh hoạt theo tín hiệu thị trường để góp phần kiềm chế lạm phát khi giá cả tăng lên hoặc chống lại tình trạng giảm phát khi giá giảm xuống liên tục. Các công cụ lãi suất , tỷ giá, hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc ..phải được sử dụng hết sức nhạy bén phù hợp với diễn biến cung cầu hàng hoá và giá cả thị trường. Cần khống chế mức tăng tổng phương tiện thanh toán ở mức hợp lí ,từ đó tính toán tổng lượng tiền cung ứng của ngân hàng trung ương hàng năm sẽ tăng tương ứng so với năm trước đó. Bên cạnh khống chế dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế ở mức vừa phải,bảo đảm sử dụng đồng vốn có hiệu quả , thì nâng cao chất lượng tín dụng và thu hồi được nợ ,trong đó tín dụng cho khu vực kinh tế quốc doanh tăng hợp lý , đẩy mạnh tăng tín dụng cho khu vực ngoài quốc doanh. Phấn đấu nguồn vốn huy động tăng nhanh ngày một đáp ứng đủ nhu cầu vốn trong nước đảm bảo đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao. Tuy vậy , cần đẩy mạnh việc phát hành tín phiếu,trái phiếu kho bạc , trái phiếu công ty của Bộ Tài chính và các doanh nghiệp,Ngân hàng nhà nước cần chuẩn bị tốt công tác phát hành tín phiếu ngân hàng để bán ra thị trường thu hút tiền dư thừa trong lưu thông khi có dấu hiệu lạm phát gia tăng. Bảo đảm viẹc mua bán ngoại tệ được thực hiện bình thường,ổn định ở cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0748.doc
Tài liệu liên quan