Đề tài Mối quan hệ giữa các đồng tiền chủ chốt giai đoạn 2005 đến nay

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT 2

DANH MỤC BẢNG BIỂU 3

Phần I. GIỚI THIỆU VỀ CÁC ĐỒNG TIỀN CHỦ CHỐT TRÊN THẾ GIỚI 4

1. Đồng đô la Mỹ (USD) 4

2. Đông Yên Nhật (JPY) 6

3. Đồng Bảng Anh (GBP) 6

4. Đồng Euro (EUR) 6

Phần II: TỶ GIÁ JPY/USD 8

2.1. Diễn biến tỷ giá JPY/USD giai đoạn 2005 đến nay và những nguyên nhân 8

2.2. Dự báo JPY/USD 19

2.2.1. Dự báo bằng học thuyết ngang giá sức mua (PPP) 19

2.2.2. Dự báo bằng học thuyết ngang giá lãi suất (IRP) 21

2.2.3. Dự báo bằng phương pháp phân tích kỹ thuật 22

2.3. Ảnh hưởng của diễn biến tỷ giá JPY/USD tới Việt Nam 24

Phần III: TỶ GIÁ GBP/USD 28

3.1. Diễn biến tỷ giá GBP/USD giai đoạn 2006 đến nay và những nguyên nhân 28

3.2. Dự báo tỷ giá GBP/USD 43

3.2.1. Dự báo bằng học thuyết ngang giá sức mua (PPP) 43

3.2.2. Dự báo bằng học thuyết ngang giá lãi suất (IRP) 45

3.2.3. Dự báo bằng phương pháp phân tích kỹ thuật 46

3.2.4. Dự báo bằng phương pháp hồi quy 47

Phần IV: TỶ GIÁ EUR/USD 56

4.1. Diễn biến tỷ giá EUR/USD giai đoạn 2006 - nay và những nguyên nhân 56

4.2. Dự báo tỷ giá EUR/USD 66

4.2.1 Dự báo bằng học thuyết ngang giá sức mua (PPP) 66

4.2.2. Dự báo bằng học thuyết ngang giá lãi suất (IRP) 68

4.2.3. Dự báo bằng phương pháp phân tích kỹ thuật 69

4.3. Ảnh hưởng của tỷ giá EUR/USD tới Việt Nam 71

KẾT LUẬN 75

PHỤ LỤC 79

 

 

doc85 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2818 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa các đồng tiền chủ chốt giai đoạn 2005 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
D so với các đồng tiền chủ chốt khác đã tạo tâm lý không thoải mái khi nhiều ngân hàng Trung Ương đang nắm giữ tỷ trọng lớn các giấy tờ có giá bằng đồng USD trong dự trữ ngoại tệ. Do vậy trong ngày 30 tháng 4 năm 2006, GBP/USD = 1,7685 Ngày 22 tháng 6 Ủy ban chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương Anh đã thông qua quyết định về giữ nguyên mức lãi suất 4,5% , mặc dù đã có những lo ngại về nguy cơ lạm phát. Lạm phát của Anh trong năm 2006 vào tháng 6 là 2,5% và có lúc đạt đến xấp xỉ 3% vào tháng 12 trong khi con số trong cả năm là 2,3335% cách khá xa so với mức 2,0% mà chính phủ đặt ra. Nguyên nhân của việc lạm phát tăng là do giá điện và giá xăng dầu liên tục leo tháng trong năm này. Ngoài ra, giá nhập khẩu biến động và công suất các nhà máy trong nước hạn chế cũng là những nhân tố không kém phần quan trọng để gây áp lực lên tỷ lệ lạm phát. Do những quyết định nâng lãi suất của ngân hàng TW Anh khiến có NHTW các nước tăng dần lượng ngoại hối dự trữ của mình bằng đồng bảng Anh thay thế cho đồng Yên Nhật như trước do bị hấp dẫn xét về khía cạnh tiền gửi. Theo thống kê của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) công bố hôm 10/7, ngân hàng trung ương các nước hiện đang giữ một lượng tiền dự trữ bằng đồng bảng Anh trị giá khoảng 115 tỷ USD, tương đương 4% tổng dự trữ ngoại hối của các quốc gia, cao nhất kể từ khi IMF bắt đầu thống kê vào năm 1999. Như vậy, đồng bảng Anh đã chiếm vị trí thứ 3 của Yên Nhật trong số các đồng tiền được chọn lưu trữ nhiều nhất thế giới. Hai đồng tiền đứng đầu bảng là USD, chiếm 66,3% và EUR, chiếm 24,8%. Đồng bảng Anh ngày càng hấp dẫn do lãi suất tiền gửi của nó có khả năng còn cao hơn nữa từ mức 4,5% vào tháng 6, so với các ngoại tệ khác, chẳng hạn mức 2,75% của euro. Ngày 9/8, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tuyên bố ngừng tăng lãi suất đồng USD sau khi đã có chuỗi tăng lãi suất 17 lần liên tiếp trong vòng 2 năm qua (từ tháng 6/2004). Lãi suất cơ bản đồng USD đứng lại ở mức 5,25%. Ngay sau khi có thông tin về quyết định của FED Đồng Euro cũng lập tức lên giá so với đồng USD, tăng 0,15% và ở mức 1,286 USD; đồng Bảng Anh cũng tăng thêm 0,14% trong tỷ giá với đồng USD, bằng 1,9096 USD. Tháng 9, đồng bảng Anh mất giá khoảng 0.5% ở mức 1 bảng Anh = 1.8736 đôla. Nguyên nhân là do những biến động liên quan tới cương vị lãnh đạo của Thủ tướng Anh và ngày ông rời sở nhiệm. Đồng Bảng Anh đang đứng ở mức thấp nhất so với đồng đôla sau khi Thủ tướng Blair từ chối nói rõ ngày về hưu là ngày nào. Giai đoạn từ 1/2007 – 10/2007 Theo Cục Thống kê quốc gia của Anh (ONS), lạm phát giá cả tiêu dùng tăng 3,1% trong tháng 3/2007 đồng thời tỷ lệ lạm phát giá bán lẻ cũng tăng tới 4,8%. Tỷ lệ lạm phát tăng cao trong những tháng đầu năm khiến áp lực phải tăng lãi suất cơ bản của đồng bảng Anh ngày càng cao. Đồng bảng Anh đã lên tới ngưỡng 2 USD lần đầu tiên kể từ năm 1992 trong lúc các nhà đầu tư đặt cược vào tỷ lệ lãi suất bảng Anh sẽ tiếp tục tăng để kìm hãm tốc độ lạm phát. Vào ngày 31 tháng 7, 1 đồng bảng Anh tăng ở mức cao nhất là 2.0338. Tỷ lệ lãi suất cơ bản trong tháng 4 của Anh ở mức 5,25%. Biểu đồ 3.3: Tỷ giá GBP/USD 10 tháng đầu năm 2007 Nguồn: YahooFinance Xu hướng tăng giá của GBP cũng là xu hướng chung của các đồng tiền chủ chốt ở Châu Âu cũng như Châu Á trong khi đồng USD thì lại sụt giá. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến giá các đồng tiền, đặc biệt là tầm ảnh hưởng của chính sách lãi suất trên khắp thế giới, sự mất cân đối thương mại, những điểm khác biệt về tăng trưởng kinh tế và chính sách kiểm soát tiền tệ. Đồng USD đã chịu sức ép trong 4 năm qua do tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai của Mỹ và quyết định giữ nguyên lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) trong năm qua. Gần đây, là những lo ngại về lĩnh vực cho vay thế chấp yếu, gây tác động tiêu cực đến nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Một nhân tố khác cũng có tác động đồng thời lên đồng USD là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đồng USD yếu đã kích thích luồng vốn lớn từ nước ngoài đổ vào Mỹ. Nhờ vào việc đồng bảng Anh có sức mua mạnh, Anh có thể đẩy mạnh chuyển hướng đầu tư và mua lại các công ty Mỹ. Năm 2000, châu Âu đã đầu tư 125 tỷ USD vào Mỹ dưới dạng FDI. Năm 2006, con số này đã giảm xuống chỉ còn 122 tỷ USD và trong 6 tháng đầu năm 2007 mới chỉ có 12,1 tỷ USD được giải ngân trong lĩnh vực này. Trong khi đó, luồng FDI từ Mỹ sang châu Âu đã tăng từ 77 tỷ USD năm 2000 lên 127 tỷ USD năm 2006, và trong 6 tháng đầu năm 2007, con số này cũng đã đạt 85 tỷ USD. Như vậy, tính từ năm 2006 đến nay, dòng vốn FDI có xu hướng chảy từ Mỹ sang châu Âu. Và xu hướng này cũng đã được kiểm chứng trên phạm vi toàn cầu khi mà trong 6 tháng đầu năm 2007, lượng vốn FDI vào Mỹ là 85 tỷ USD, trong khi lượng vốn chạy ra khỏi Mỹ lại lên tới 150 tỷ USD. Thêm vào đó là cán cân tài khoản vãng lai bị thâm hụt từ năm 1989 khiến cho các luồng tài chính phải chịu sức ép không thuận lợi của việc đồng USD mất giá. Đồng USD đang chịu sức ép từ việc giá dầu mỏ gần tiến tới ngưỡng 100 USD/thùng và việc các nhà đầu tư đang xem vàng là tài sản đầu tư hấp dẫn. Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện những dấu hiệu về một cuộc khủng hoảng tài chính mới lan rộng trong nền kinh tế Mỹ do các ngân hàng tiếp tục thắt chặt các điều kiện cho vay đối với các khoản vay thế chấp, các khoản nợ mua ô tô và các khoản vay tiêu dùng. Trong khi đó, đồng bảng Anh có lãi suất hấp dẫn các nhà đầu tư ở mức trên 5% trong năm 2007 dẫn đến việc tăng giá đồng tiền ở nước này. Tăng trưởng kinh tế cũng làm gia tăng nhu cầu đối với tiền tệ và nâng giá trị đồng tiền. Trong năm 2007, GDP của Anh đã tăng 3,1% so với năm 2005. Đồng bảng Anh tăng mạnh chính là do tình trạng phục hồi chắc chắn của nền kinh tế Anh cũng như tỷ lệ lạm phát tưởng đối cao và mức lãi suất hấp dẫn. Tháng 11/2007 – tháng 7/2008 Lạm phát ở Anh bắt đầu tăng cao từ tháng 10 năm 2007 ở mức 2,0349% và xu hướng tăng vẫn tái diễn cho đến năm 2008. Trong cả năm 2008, mức lạm phát là 3,6132% - một mức lạm phát cao đủ khiến cho Anh nói riêng và cả châu Âu nói chung phải chùn tay. Biểu đồ 3.4: Tỷ giá GBP/USD từ tháng 11/2007đến tháng 7/2008 Nguồn: YahooFinance Ngày 10/01/2008 Ngân hàng Trung Ương Anh đã quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức 5,5% do lo ngại tình trạng lạm phát gia tăng. Trong tháng 12.2007 Ngân hàng TW Anh đã tiến hàng đợt cắt giảm lãi suất 0,25% nhằm tạo cú hích lớn đối với nền kinh tế Anh. Thâm hụt thương mại của Anh tiếp tục tăng trong tháng 11/2007 bất chấp đồng bảng Anh suy yếu so với các ngoại tệ khác. Tăng trưởng kinh tế ở Anh có dấu hiệu chậm lại ở mức 2,3%/năm. Các quyết định về giữ nguyên lãi suất của BOE đã khiến đồng bảng Anh rớt giá mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác. Ngày 31/01/2008 tỷ giá GBP/USD xuống mức 1.9698. Đến tháng 1 năm 2008 đồng bảng Anh đã mất giá tới 6% so với USD kể từ đầu tháng 7 năm 2007, mức mất giá kỷ lục trọng vòng 26 năm qua. Một nguyên ngân nữa khiến đồng bảng Anh mất giá là các nhà đầu tư quan ngại về tình hình kinh tế của nước Anh. Vào thời điểm này, nền kinh tế bị chững lại là xu hướng chung và vấn đề kinh tế mà Anh gặp phải cũng không khác gì Mỹ. Giai đoạn từ tháng 8/2008 đến tháng 2/2009 Biểu đồ 3. 5: Diễn biến tỷ giá GBP/USD T8/2008- T3/2009 Nguồn: Yahoo Finance Sau khi bắt đầu có xu hướng giảm giá từ tháng 11/2007, đến tháng 8/2008, đồng bảng Anh bước vào giai đoạn rớt giá mạnh so với USD, chạm đáy ở mức thấp kỷ lục là 1,3723 vào ngày 10/3/2009. Trong giai đoạn này, NHTW Anh liên tục cắt giảm lãi suất từ mức 5% vào tháng 8/2008 xuống tới mức 2% vào tháng 12/2008 để hỗ trợ nền kinh tế. Các báo cáo về chỉ số thất nghiệp gia tăng một cách đáng kể, đạt mức cao kỷ lục trong vòng 16 năm trở lại đây, thị trường bất động sản ế ẩm, báo cáo GDP quí III giảm 0.5% Office for National Statistics report. , ... là những dấu hiệu rõ ràng về sự suy thoái của nền kinh tế Anh, khiến cho các nhà đầu tư lo lắng. 24/10/2009, đồng bảng đã rớt giá với tốc độ nhanh nhất kể từ năm 1992, giảm 25% “Sterling falling at fastest rate since Black Wednesday”,Graeme Wearden, 24/10/2008, The Guardian. giá trị so với USD sau khi thống đốc ngân hàng Trung ương Anh (BoE) Mervyn King đưa ra những nhận xét không mấy khả quan về nền kinh tế, và Thủ tướng Anh Gordon Brown cũng đã chính thức xác nhận rằng suy thoái kinh tế đang diễn ra nhanh chóng hơn nhiều so với mức dự báo của các chuyên gia. Điều này đã gia tăng quan ngại rằng Anh chính là nước chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trên thị trường ngoại hối, các nhà đầu tư liên tiếp bán ra đồng bảng để cắt lỗ, đồng thời chuyển sang đầu tư vào một đồng tiền ít rủi ro là Đô la Mỹ. Ngoài ra, lạm phát tại Mỹ có xu hướng giảm nhanh và đến đầu năm 2009 thì đã chạm mốc 0%, trong khi tại Anh chỉ số lạm phát chỉ giảm tương đối. Tất cả những điều này đã làm cho GBP rớt giá so với USD, khiến cho tỷ giá GBP/USD chạm đáy ở mức kỷ lục. Bảng 3. 1: Số liệu lạm phát tại Anh và Mỹ năm T7/2008-T3/2009 7/2008 8/2008 9/2008 10/2008 11/2008 12/2008 1/2009 2/2009 3/2009 Anh 4.4 4.7 5.2 4.5 4.1 3.1 3.0 3.2 2.9 Mỹ 5.6 5.4 4.9 3.7 1.1 0.1 0.0 0.2 -0.4 Nguồn: TradingEconomic.com Bảng 3. 2: Cán cân thương mại Mỹ với Anh năm 2008 - 2009 Đơn vị: triệu USD Tháng Xuất khẩu Nhập khẩu Net Tháng 7/2008 4,803.3 5,650.1 -846.9 Tháng 8/2008 4,447.5 5,016.7 -569.2 Tháng 9/2008 3,887.4 4,696.8 -809.4 Tháng 10/2008 4,330.8 5,154.6 -823.9 Tháng 11/2008 3,546.1 4,105.0 -558.8 Tháng 12/2008 3,583.4 3,917.8 -334.4 Tháng 1/2009 3,539.3 4,282.7 -743.4 Tháng 2/2009 3,748.6 4,251.9 -503.3 Tháng 3/2009 4,216.3 4,676.1 -459.8 Nguồn: U.S. Census Bureau, Foreign Trade Division, Data Dissemination Branch, Washington, D.C. 2003 Giai đoạn từ tháng 3/2009 đến tháng 5/2009 Biểu đồ 3 6: Diễn biến tỷ giá GBP/USD T3/2009- T5/2009 Nguồn: Yahoo Finance Bắt đầu từ giữa tháng 3, tỷ giá GBP/USD đã bắt đầu tăng trở lại trước những thông tin về thị trường nhà đất ở Anh có dấu hiệu phục hồi. Lòng tin của người tiêu dùng ở Anh đang ở mức cao nhất trong cả năm, đảo ngược với xu thế thấp điểm trong suốt khoảng thời gian trước đây. Thêm vào đó, giá nhà đất, vốn bị thua lỗ và sụt giảm trong cả quí 3, quí 4 năm trước, nay đã tăng lên (tăng 1.2% www.nationwide.co.uk/hpi/historical/may_2009 vào tháng 5), trái ngược hẳn với dự báo của các chuyên gia. Điều này góp phần củng cố lòng tin của người dân với thị trường trong nước, đồng thời tăng tính hấp dẫn của đồng bảng Anh. Trong giai đoạn này, cán cân thương mại của Mỹ với Anh vẫn thâm hụt, nghĩa là nguồn cung USD vào Anh vẫn đang tăng, điều này cũng góp phần làm cho tỷ giá GBP/USD trong giai đoạn này tăng lên. Bảng 3. 3: Cán cân thương mại Mỹ với Anh năm 2009 Đơn vị: triệu USD Tháng Xuất khẩu Nhập khẩu Net Tháng 1/2009 3,539.3 4,282.7 -743.4 Tháng 2/2009 3,748.6 4,251.9 -503.3 Tháng 3/2009 4,216.3 4,676.1 -459.8 Tháng 4/2009 3,561.2 3,847.6 -286.4 Tháng 5/2009 3,329.1 3,458.5 -129.5 Tháng 6/2009 4,200.0 3,752.6 447.4 Tháng 7/2009 3,829.5 4,198.9 -369.4 (Nguồn: U.S. Census Bureau, Foreign Trade Division, Data Dissemination Branch, Washington, D.C. 20233) Giai đoạn từ tháng 6/2009 đến 11/2009 Biểu đồ 3. 7: Diễn biến tỷ giá GBP/USD trong năm 2009 Nguồn: Yahoo Finance Qua biểu đồ ta có thể thấy, vào nửa đầu năm 2009 tỷ giá GBP/USD đã có xu hướng tăng tuy nhiên từ tháng 6/2009 đến tháng 11 tỷ giá lại chững lại và giao động nhỏ trong khoảng 200 pip hay giao động trong khoảng 1.6366 đến 1.6539. Trong giai đoạn này tỷ giá ở mức thấp nhất vào tháng 10 tại 1.61854 và đạt mức cao nhất vào tháng 8 ở 1.65421, chênh lệch giữa 2 tháng này là 356.7pip, kết quả này không phải là sự giao động lớn vì GBP/USD là một cặp tỷ giá có sự biến động rất mạnh mỗi lần giao động lên tới hàng trăm pip. Nguyên nhân do sự chững lại của GBP/USD trong giai đoạn này đầu tiên phải kể đến là do nền kinh tế thế giới đang dần hồi phục, tiêu biểu là khu vực các nước mới nổi Châu Á và Mỹ; tại Mỹ, sản xuất công nghiệp đã chạm đáy và đang bắt đầu một chu kỳ mới; niềm tin kinh doanh và tiêu dùng đã được cải thiện; thị trường bất động sản cũng đã ổn định hơn. Các nhân tố hỗ trợ cần thiết cho quá trình khôi phục tăng trưởng là chính sách tài khóa hiệu quả và các nỗ lực hỗ trợ thị trường tài chính, phản ứng lành mạnh của thị trường tài sản, sự tăng trở lại của hoạt động tồn kho và các đơn hàng về ô tô và hàng tiêu dùng lâu bền. Tuy nhiên trái ngược với nó là sự phát triển dưới mức kì vọng của khối EU, chỉ tăng 0.1% Oesterreichische Nationalbank (Austrian Central Bank), Monetary Policy & the Economy, 2010, issue 1, pages 6–25 so với quí trước trong quí thứ 4. Thêm vào đó là việc NHTW Anh (Bank of England), trong thời gian này, đã tăng dần lãi suất của trái phiếu chính phủ trung và dài hạn bằng USD lên, đây cũng là một nguyên nhân khiến USD hấp dẫn nhà đầu tư hơn. Tuy hấp dẫn hơn so với GBP nhưng xét về tỷ lệ lạm phát 2 nước và cán cân thương mại, ta thấy trong khi lạm phát Mỹ tăng thì lạm phát Anh lại giảm nhẹ. Bảng 3. 4: Số liệu lạm phát tại Anh và Mỹ năm T6-T11/2009 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Anh 1.8 1.8 1.6 1.1 1.5 1.9 Mỹ -1.4 -2.1 -1.5 -1.3 -0.2 1.8 Nguồn: TradingEconomics.com Do đó theo học thuyết ngang giá sức mua: ∆NER= π(US) – π(GB), thì ∆NER trong giai đoạn này tăng dần sẽ dẫn đến tỷ giá tăng dần. Kết hợp với việc Mỹ liên tiếp thâm hụt cán cân thương mại với Anh trong giai đoạn này khiến cho luợng USD chảy vào Anh gia tăng cũng khiến cho đồng USD mất giá so với GBP. Vậy kết hợp đồng thời các yếu tố trên ta có thể lý giải được tại sao tỷ giá GBP/USD trong giai đoạn này chững lại. Bảng 3. 5: Cán cân thương mại Mỹ với Anh năm T6-T11/2009 Đơn vị: triệu USD Tháng Xuất khẩu Nhập khẩu Net Tháng 6 4,200.0 3,752.6 447.4 Tháng 7 3,829.5 4,198.9 -369.4 Tháng 8 3,539.3 4,282.7 -743.4 Tháng 9 3,748.6 4,251.9 -503.3 Tháng 10 4,216.3 4,676.1 -459.8 Tháng 11 3,806.6 4,372.8 -566.2 (Nguồn: U.S. Census Bureau, Foreign Trade Division, Data Dissemination Branch, Washington, D.C. 20233) Giai đoạn từ tháng 12/2009 đến tháng 5/2010 Biểu đồ 3. 8: Tỷ giá GBP/USD từ 12/2009 đến 9/2010 Nguồn: Yahoo Finance Qua đồ thị trên ta có thể thấy trong giai đoạn từ tháng 12/2009 đến tháng 5/2010, tỷ giá GBP/USD giảm mạnh từ mức thấp cao nhất 1.6239 vào tháng 12/2009 xuống mức thấp nhất còn 1.4627 vào tháng 5/2010, tương ứng 1612 pip; giai đoạn này tỷ giá giảm trong khoảng 1100 pip. Tỷ giá giảm mạnh là do sự ảnh hưởng về lòng tin vào GBP do cuộc khủng hoảng nợ công Hy lạp diễn ra vào cuối năm 2009 và chính thức bùng nổ vào năm 2010. Anh và Hy lạp có một điểm chung là đều là nước có lượng nợ công lớn; Anh có mức nợ công £170.8 bilion trong năm 2009 và dự đoán £167.9 billion Số liệu và dự báo của IMF trong năm 2010, với con số này, có thể Anh sẽ vượt qua Hy Lạp trở thành nước có mức nợ công cao nhất liên minh EU; chính vì lý do đó mà các nhà đầu tư dự đoán rằng Anh có thể rơi vào tình trạng khủng hoảng như Hy lạp và do đó GBP không hấp dẫn các nhà đầu tư; cộng với sự ảnh hưởng của khủng hoảng Hy lạp khiến nền kinh tế khối EU bất ổn dẫn tới các nhà đầu tư chuyển sang nắm giữ USD khiến cho USD hấp dẫn. Thêm vào đó là một số tồn tại trong nền kinh tế Anh trong giai đoạn này cũng khiến cho GBP kém hấp dẫn: Thâm hụt thương mại tăng từ 8.3 tỷ £ lên 9.5 tỷ £ trong Q1/2010; trong đó xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đứng yên, nhập khẩu tăng1.4%. Tỷ lệ thất nghiệp trong 3 tháng tính đến hết tháng 3/2010 là 7.9% tăng 0,1% so với quý trước. số người thất nghiệp Quý I lên tới 23,000 người đưa tổng số người thất nghiệp ở Anh lên 2,47 triệu người Thương vụ Việt Nam tại Vương Quốc Anh và Bắc Ai Len, bài báo “Tình hình kinh tế Anh 6 tháng đầu năm 2010”, 10/7/2010, được lấy về từ: . Thêm vào đó là sự chênh lệch lạm phát giữa hai quốc gia này, trong khi lạm phát giữa hai nước, trong khi lạm phát của Anh không thay đổi là 3,1% trong giai đoạn này thì tỷ lệ lạm phát của Mỹ đã liên tục giảm dần từ mức 2.7% trong tháng 12 năm 2009 xuống mức 2% vào tháng 5 năm 2010, có thể thấy rõ điều này qua bảng dưới đây: Bảng 3. 6: Số liệu lạm phát ở Mỹ T12/2009 T1/2010 T2/2010 T3/2010 T4/2010 T5/2010 Tỷ lệ lạm phát 2.7 2.6 2.1 2.3 2.2 2.0 (Nguồn: Báo cáo của Cục dự trữ liên bang Mỹ) Do đó theo học thuyết ngang giá sức mua: ∆NER= π(US) – π(GB), thì ∆NER trong giai đoạn này giảm dần dẫn đến tỷ giá giảm dần. Giai đoạn từ tháng 6/2010 đến nay Biểu đồ 3. 9: Tỷ giá GBP/USD từ 16/5/2010 đến 14/9/2010 Nguồn: YahooFinance Từ đồ thị trên ta thấy, sau khi liên tục giảm mạnh trong nửa tháng từ cuối tháng 4 cho đến giữa tháng 5, tỷ giá GBP/USD đã chạm đáy ở mức 1.4288 (18/5/2010), kể từ đó cho đến đầu tháng 8, tỷ giá này giao động tăng dần và tăng mạnh hơn vào thời điểm cuối tháng 7 đầu tháng 8, đạt đỉnh ở mức 1.5953 (3/8/2010), 1.5947(6/8/2010). Khoảng thời gian tiếp sau đó, cặp tỷ giá có điều chỉnh giảm rồi giao động xung quanh mức 1.5400. Sự biến động này tiếp tục được giải thích bởi các con số về lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ tăng trưởng ở Anh, cán cân xuất nhập khẩu giữa 2 nước Anh và Mỹ, vấn đề nợ châu Âu, tâm lý nhà đầu tư và những dấu hiệu lạc quan về triển vọng kinh tế Mỹ 2010 (tốc độ tăng trưởng dự báo là 3,2% Theo hanoimoi.com.vn 25/7/2010 – Nhà trắng lạc quan hơn về tình hình kinh tế Mỹ 2010. ). Bảng 3. 7: Cán cân thương mại Mỹ với Anh năm 2010 Đơn vị: triệu USD Tháng Xuất khẩu Nhập khẩu Net Tháng 1 3,823.1 3,179.1 644.0 Tháng 2 4,014.0 4,394.9 -381.0 Tháng 3 4,653.3 4,244.9 408.4 Tháng 4 3,800.2 3,779.2 20.9 Tháng 5 3,811.2 3,672.8 138.4 Tháng 6 4,197.7 4,568.9 -371.2 Tháng 7 4,036.9 4,448.4 -411.6 (SOURCE: U.S. Census Bureau, Foreign Trade Division, Data Dissemination Branch, Washington, D.C. 20233) Theo số liệu tháng 6 và 7, Mỹ thâm hụt thương mại đối với Anh, điều này giải thích phần nào lý do khiến tỷ giá tăng trong giai đoạn này, thâm hụt thương mại tác động tới cung cầu ngoại tệ giữa 2 quốc gia, cụ thể là Mỹ thâm hụt thương mại, nghĩa là lượng USD vào Anh tăng, cung USD tăng khiến tỷ giá tăng. Lạm phát ở Anh Lạm phát ở Mỹ 2010 Trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 8/2010, ta có thể thấy lạm phát tại 2 nước đều giảm song Anh giảm với tốc độ giảm ít hơn ( từ 3.4% tháng 5 xuống còn 3.2% vào tháng 6) so với Mỹ ( từ 2% xuống 1.1%) trong thời điểm từ tháng 5 đến tháng 6, chính nguyên nhân này phần nào đã dẫn đến GBP/USD giảm trong khoảng thời gian này; tuy nhiên trong các tháng tiếp theo lạm phát ở Anh giảm trong khi đó ở Mỹ không giảm thậm chí còn tăng ở tháng 7 ( ở mức 1.2%) khiến cho GBP/USD tăng trong các tháng tiếp theo. Lãi suất ở cả 2 nước đều không thay đổi trong suốt thời gian qua, cụ thể lãi suất ở Anh duy trì ở mức 0,5% (theo BOE) từ tháng 4/2009 đến nay, lãi suất tại Mỹ cũng duy trì ở mức 0,25% (theo BOA) không có tác động đến biến động tỷ giá. Theo số liệu tổng hợp từ ONS và US Economic News và về tỷ lệ tăng trưởng 2 nước, ở Mỹ là 1,6% ở Anh là 1,2%; thâm hụt thương mại ở Anh (7/2010) là 4,9 nghìn tỉ bảng (£4.9B), ở Mỹ (7/2010) là 42,8 tỷ đô la ($42.8B); tỷ lệ thất nghiệp ở Anh 3 tháng từ tháng 5 đến hết tháng 7 là 7,8% - giảm 0,1% so với 3 tháng trước đó – tuy nhiên đang có dấu hiệu chững lại, trong khi đó ở Mỹ tỷ lệ này cao nhất vào cuối tháng 4 (9,9%) giảm dần trong 2 tháng tiếp theo đến 9,5%, tăng trở lại mức 9,6% vào tháng 8/2010 cho thấy nền kinh tế Anh có dấu hiệu khả qua hơn nền kinh tế Mỹ;điều này chứng minh rằng, trong giai đoạn này, GBP hấp dẫn các nhà đầu tư hơn USD; đây cũng là một nguyên nhân khiến tỷ giá trong giai đoạn này tăng lên. 3.2. Dự báo tỷ giá GBP/USD 3.2.1. Dự báo bằng học thuyết ngang giá sức mua (PPP) Trong tháng 8/2010 NHTW Anh (BOE) đã đưa ra dự báo về tình hình lạm phát Anh trong thời gian tới; theo BOE tỷ lệ lạm phát ở Anh có thể giảm từ 3.1% xuống chỉ ở mức trên 2% BOE Cuts Growth Forecast, 11/8/2010, from: giảm cho đến cuối năm 2011. Xét về tỷ lệ lạm phát ở Mỹ, Cục dữ trữ liên bang Mỹ Fed cũng công bố vào tháng 7/2010 rằng rủi ro lạm phát ở Mỹ sẽ thấp: dự báo lạm phát liên quan đến tiêu dùng sẽ chỉ dao động 1% cho đến 1,1% Những dự báo về kinh tế Mỹ, 18/7/2010, từ: trong thời gian tới. Thời điểm ban đầu, 1 GBP = E0 USD Thời điểm t, 1 GBP = E1 USD Sự thay đổi tỷ giá ∆E = (E1 - E0)/ E0 П1 : lạm phát tại Anh П2: lạm phát tại USA Theo PPP thì ta có: 1.(1+ П1) GBP = E0. (1+ П2) USD Như vậy E1 = E0. (1+ П2)/ (1+ П1) → ∆E = (E1 - E0)/ E0 = (П2 - П1)/(1+ П1) Để đơn giản cho việc tính toán lấy lạm phát ở Anh và Mỹ trong 2010 là 3.1% và 1.1%. Như vậy tính tại thời điểm cuối năm 2010, tỷ giá sẽ thay đổi là ∆E = (0,011- 0,031)/(1+ 0,031) = -1.9%. Đây là mức thay đổi so với thời điểm đầu năm 2010. Ở ngày 4/1/2010, tỷ giá là 1 GBP = 1.6121 USD. Với mức giảm 1.9% thì tỷ giá vào ngày 31/12/2010 sẽ là GBP/USD = 1,5815 Sang năm 2011, tính tương tự với lạm phát ở Anh là 2% và ở Mỹ vẫn là 1.1%, thì ta sẽ có tỷ giá thay đổi là: ∆E = (0,011 – 0,02)/(1 + 0,02) = -0,8%. Đây là mức giảm so với thời điểm cuối năm 2010. → Tỷ giá ngày 31/12/2011 sẽ là GBP/USD = 1.5688 Như vậy so với thời điểm hiện tại, ngày 24/9/2010, tỷ giá đang được giao dịch là GBP/USD = 1,5683 thì tỷ giá cuối năm 2010 sẽ tăng (1,58 – 1,5683)/1,5683 = 0.75%, tỷ giá cuối năm 2011 sẽ tăng (1,5688 – 1,5683)/1,5683 = 0.032%. 3.2.2. Dự báo bằng học thuyết ngang giá lãi suất (IRP) Cùng với lạm phát thấp, báo cáo của FED cũng dự báo rằng tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cả năm 2010 của kinh tế Mỹ sẽ ở mức 3 - 3,5%, thấp hơn so với ngưỡng 3,2 - 3,7% cũng do cơ quan này đưa ra hồi tháng 4. FED cũng dự báo tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ hiện đang ở mức 9,5%, trong trường hợp khả quan nhất sẽ giảm xuống còn 9,2% vào cuối năm nay. Chính nguyên nhân này mà FED sẽ có thể tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ lục 0.25%- 0 % để thúc đẩy tăng trưởng sau khi nền kinh tế Mỹ. Trong tháng 8, BOE cũng công bố rằng tỷ lệ tăng trưởng của Anh chỉ có thể đạt mức cao nhất là 3% thay vì 3.6% như công bố ở tháng 5. Thêm vào đó là việc trong thời gian tới, nền kinh tế Anh sẽ phải đối mặt với việc tái cân bằng chi tiêu trong khối ngành công và tư nhân đồng thời chú trọng tới xuất khẩu. Giới phân tích cũng đang dự đoán răng số lượng người thất nghiệp tại Anh sẽ tiếp tục gia tăng sau khi chính phủ thắt chặt chi tiêu trong khối ngành công. Do đó BOE cũng sẽ có thể duy trì mức lãi suất thấp kỉ lục 0.5% đến tận năm 2011 để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế NHTW Anh hạ dự báo tăng trưởng kinh tế, 12/08/2010, từ: . Thời điểm ban đầu, 1 GBP = E0 USD Thời điểm t, 1 GBP = E1 USD Sự thay đổi tỷ giá ∆E = (E1 - E0)/ E0 R1: lãi suất lại Anh R2: lãi suất tại USA Theo học thuyết ngang giá lãi suất, tại thời điểm t 1. (1 + R1) GBP = E0 (1 + R2) USA → E1 = E0 (1 + R2)/(1 + R1) → ∆E = (E1 - E0)/ E0 = (R2 - R1)/(1 + R1) Trường hợp lãi suất FED duy trì là 0,25% và Anh là 0.5%, thì sự biến động tỷ giá là: ∆E = (0,0025 – 0,005)/(1+0,005) = -0,248% Trường hợp FED giữ lãi suất là 0%, Anh là 0.5% thì sự biến động tỷ giá là: ∆E = (0 - 0,005)/(1+0,005) = - 0.496% Với tỷ giá đầu năm ngày 4/1/2010 là GBP/USD=1.6121 thì tỷ giá vào cuối năm (31/12/2010) sẽ có 2 trường hợp: + Với lãi suất 0,25% thì tỷ giá giảm về GBP/USD = 1, 608 + Với lãi suất 0% thì tỷ giá giảm về GBP/USD = 1,604 So sánh hai tỷ giá này với thời điểm hiện tại là ngày 24/9/2010, GBP/USD = 1,5683 thì tỷ giá sẽ tăng lần lượt là 2.53% và 2.28 %. Như vậy, tổng hợp từ hai phương pháp PPP và IRP thì tỷ giá cuối năm sẽ tăng khoảng từ 0.75- 2.53% so với thời điểm hiện tại 24/9/2010. 3.2.3. Dự báo bằng phương pháp phân tích kỹ thuật Tỷ giá GBP/USD (chỉ số) đã có giai đoạn đi ngang trong tháng 8/2010, sau giai đoạn tăng giá mạnh từ tháng 6 vừa qua. Việc đi ngang của chỉ số đã làm cho dải Bollinger band bị thu lại khá hẹp. Hai đường trung bình MA12 và MA25 đều đang có xu hướng đi ngang. Song 3 phiên trở lại đây, chỉ số đang có những dấu hiệu tốt trở lại. Hai phiên tăng điểm với cây nến thân dài, chứng tỏ sức cầu là khá mạnh và đã áp đảo lực cung. Sự vượt lên trên của đường giá so với hai đường trung bình, cũng cho thấy được sự tăng điểm trong ngắn hạn, tuy nhiên phiên 16/9 đã có sự điều chỉnh nhẹ về mức 1,5620. Nếu trong những phiên tới, tỷ giá sẽ vượt dải trên của dải băng Bollinger band thì xu thế tăng sẽ được khẳng định chắc chắn hơn. Các chỉ báo kĩ thuật: MACD vẫn chưa vượt lên trên được đường tín hiệu, hai đường vẫn đang nằm sát nhau cho thấy xu thế đi ngang vẫn chưa chấm dứt. Việc tăng điểm mạnh trong 2 phiên vừa qua, đã cho chỉ báo dòng tiền MFI có những thay đổi rõ rệt đạt 61 và tiếp tục hướng lên trên. Chỉ báo Bull trong giai đoạn tăng mạnh trước đã cho thấy sức mua cũng như tín hiệu đầu cơ như thế nào. Việc tăng điểm 2 phiên vừa qua, đã cho chỉ báo này có những thay đổi rõ rệt so với giai đoạn đi ngang trước đó, song vẫn ở mức thấp. Tóm lại, đánh giá về xu thế của tỷ giá GBP/USD về ngắn hạn của thể sẽ tiếp tục tăng, nếu giá vượt qua được dải băng phía trên và làm mở rộng dải băng bollingder thì xu thế tăng sẽ được khẳn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMối quan hệ giữa các đồng tiền chủ chốt giai đoạn 2005 đến nay.doc