Đề tài Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt nam trong điều kiện hội nhập

Lời mở đầu 1

Chương I: Cơ sở lý luận về Doanh nghiệp thương mại và cạnh tranh của các doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường. 4

I. Doanh nghiệp thương mại và cạnh tranh của Doanh nghiệp Thương mại trong nền kinh tế thị trường. 4

1. Khái quát chức năng, đặc điểm của doanh nghiệp. 4

1.1. Khái niệm về doanh nghiệp. 4

1.2. Doanh nghiệp thương mại. 5

2. Cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp. 6

2.1. Khái niệm. 6

2.2. Các loại hình cạnh tranh. 7

2.3. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. 8

2.4. Mục đích cạnh tranh của doanh nghiệp. 10

3. Đặc điểm cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại trong nền kinh tế thị trường. 11

II.Sự cần thiết khách quan của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của DN. 12

1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 12

2. Tính tất yếu khách quan của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 13

3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 14

3.1. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp. 14

3.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp 19

Chương II:Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại ở thị trường Việt Nam giai đoạn 1996 - 2002 22

I. Sơ lược về đặc điểm tình hình kinh tế xã hội Việt Nam trong những năm đổi mới 22

1. Khái quát tình hình thị trường thương mại trong nước trong giai đoạn 1996-2002. 22

2/Những mặt còn tồn tại; 26

II/Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong những năm đổi mới. 27

1/Hệ thống Doanh nghiệp thương mại ở thị trường Việt Nam 27

1.1. Doanh nghiệp TM tập thể: 27

1.2. Doanh nghiệp TM tư nhân: 27

1.3. Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp doanh: 28

1.4. Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 30

2.Tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại. 31

2.1. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp thương mại nhà nước. 31

2.2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp thương mại tư nhân. 35

III.Đánh giá hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại ở thị trương Việt Nam. 39

1. Ưu điểm 39

2.Một số nhược điểm và nội dung đổi mới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại 41

3. Nguyên nhân những hạn chế 45

Chương 3: Một số giải pháp năng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập 48

I. Một số định hướng phát triển hoạt động thương mại ở nước ta trong thời gian tới. 49

1. Thúc đẩy sản xuất nông sản hàng hoá dựa trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng tạo điều kiện cho hoạt động thương mại giữa các vùng được phát triển 49

2. Dùng chính sách thương mại can thiệp tạo cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp thương mại tư nhân 49

3. Chủ trương phát triển công nghiệp nói chung và phát triển công nghiệp chế biến nông sản nói riêng gắn với từng vùng nguyên liệu, tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại trong nước và hướng tới xuất khẩu. 51

4. Tiến hành xây dựng hệ thống thông tin vững mạnh để tiến tới xây dựng một nền thương mại hiện đại bắt kịp với các vùng trong khu vực. 51

II. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh trânhcủ doanh nghiệp thương mại.

doc63 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1051 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại Việt nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 2001. Với vị thế không ngừng được nâng lên đó đã tác động không nhỏ đễ quyết định của thượng viên Mỹ ngày 4/10/2001. Thông qua hiệp định thương mại Việt Mỹ .Qua đó đã nâng cao vị trí của Việt Nam ,khẳng định được vai trò của Việt Nam trong các tổ chức và hội nghị thế giới . Với đường lối đổi mới linh hoạt trong những năm qua đã góp phần đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và phát triển với tốc độ khá cao . Từ đó nâng cao được đời sống nhân dân. Tính đến năm 2001 GDP đầu người ước đạt 400 USD gấp gần hai lần so với năm 1991. Đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân được nâng cao. Nước ta đã được thế giới công nhận chuẩn về phổ cập giáo dục từ năm 2000. Đó là thành công lớn của nước ta. Về y tế cũng có những bước thay đổi đãng kể, số lượng các bệnh viên phòng khám tăng nhanh với nhữnh tranh thiết bị hiện đại,số lượng các gường bệnh đã tạm đủ đáp ứng nhu cầu của nhân dân về khám chữa bệnh .Các dịch bệnh lớn hầu như không xảy ra, trẻ em hầu hết đã được tiêm chủng vac xin phòng bệnh .đó là nhữnh thành công về lớn về y tế. 2. Những mặt còn tồn tại; Bên cạnh những thành tựu đạt được cũng còn nhiều vấn đề đang tồn tại đó là: 2.1.Nhìn chung Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu: So với các nước trong khu vực và thứ giới nước ta có GDP trên đầu người quá thấp đời sống của nhân đân còn rất nhiều khó khăn ,đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa nơi mà thu nhập cha đầy 100USD người một năm. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém đã hạn chế năng lực sản xuất của nước ta ,hệ thống đường xá cầu cống đã được nâng cấp nhiều song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vận chuyển đi lại của nhân dân. Các nhà máy ,xí nghiệp vẫn còn sử dụng máy móc thiết bị lạc hậu từ những thập niên 50-60 của thế kỷ 20 nên năng suất chất lượng sản phẩm kém giá thành cao, khả năng cạnh tranh kém. Nghành cơ khí chế tạo máy chưa có thành tựu gì đáng kể, qúa trình chuyển giao công nghệ diễn ra chậm .Hoạt động của các viện nghiên cức ứng dụng kém hiệu quả . Trình độ cơ giới hoá thấp ,lao động chân tay là chủ yếu . 2.2. Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập: Trong những năm qua nhà nước ta đã cố gắng đơn giản hoá các thủ tục hành chính cũng như ban hành luật, pháp lệnh, chỉ thị, hướng dẫn khuyến khích các hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế .Do đó số lượng các đơn vị đăng ký kinh doanh đã tăng lên rất nhiều đặc biệt là sau khi ban hành luật doanh nghiệp . Tuy nhiên hệ thống luật pháp của nước ta còn nhiều bất cập ,đã cản trở không ít các nhà doanh nghiệp tham gia kinh doanh đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Luật không đồng bộ, tệ quan liêu và hệ thống các thủ tục chằng chịt đang là cản trở lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài muốn vào Việt Nam cũng như đối với các doanh nhân Việt Nam có ý định tham gia hoạt động kinh doanh 2.3. Chịu ảnh hưởng nhiều của cơ chế kế hoạch hoá tập trung nên khi chuyển sang cơ chế thị trường nhiều doanh nghiệp Việt Nam lâm vào tình cảnh khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước.Do đó, nhìn trung các doanh nghiệp Việt Nam làm ăn có hiệu quả thấp nhỏ lẻ manh múm, chưa có tư duy kinh doanh lớn, sức cạnh tranh không cao. II. Thực trạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong những năm đổi mới. 1. Hệ thống Doanh nghiệp thương mại ở thị trường Việt Nam 1.1. Doanh nghiệp TM tập thể: Là loại hình doanh nghiệp ra đời khá sớm ở Việt Nam và nó là thành phần chiếm ưu thế trong cơ chế kế hoạch hoá tập chung. Những năm đầu thập niên so loại hình này phát triển khá mạnh nhưng kể từ khi chuyển sang cơ chế thị trường thì mô hình tổ chức của loại hình doanh nghiệp này không còn thích hợp nữa số lượng doanh nghiệp thương mại tập thể giảm mạnh. Nguyên nhân là do chuyển sang cơ chế thị trường thì làm ăn phải hạch toán, phải tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao nhưng trong khi đó các doanh nghiệp Thương mại tập thể lại vẫn còn mang nặng tư tưởng cũ, quản lý theo kiểu cũ., dẫn đến nó không có khả năng thích ứng với sự năng đông, mạnh mẽ cường độ cao của thị trường. Do đó loại hình này phần lớn đã bị phá sản, giải thể hoặc chuyển sang hình thái doanh nghiệp khác. 1.2. Doanh nghiệp TM tư nhân: Với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị truờng. Đại hội Đảng VI đã đánh dấu sự ra đời các doanh nghiệp tư nhân nói chung. Đến nay, hệ thống doanh nghiệp này đang chiếm số lượng đông nhất trong hệ thống các doanh nghiệp cả trong sản xuất, cả trong lưu thông trong những năm qua loại hình doanh nghiệp này hoạt động rất có hiệu quả trên thương trường vì nó có những lợi thế riêng mà các doanh nghiệp khác không có đó là chủ sở hữu đồng thời là chủ điều hành. Do đó nó chủ động trong việc gia quyết định, giữ được bí mật kinh doanh của người chủ, chủ động đón nhận cơ hội khi nó đến thời gian gia quyết định và thực thi quyết định ngắn. Chính điều đó đã làm cho doanh nghiệp tư nhân hoạt động rất có hiệu quả, chúng hoạt động ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề, số lượng không ngừng tăng lên. Nó đã tạo ra nhiều chỗ làm và tăng thu nhập cho nhân dân đồng thời tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, quy mô của các doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ nên nó chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông một cách đơn nhất, hoạt động của nó còn mang tính tự phát, nhỏ lẻ, manh mún. Chưa giám mạnh dạn đầu tư mở rộng quy mô, chưa có tư duy làm ăn lớn, cũng như viẹc lập các chiến lược phát triển lâu dài để thay đổi hình thái doanh nghiệp thành các tổ hợp sản xuất kinh doanh, tập đoàn kinh doanh lớn như Hon Da, TOYOTA.. của Nhật hay DEAWOO, SAMSUNG của Hàn Quốc. Hiện nay, nạn chốn thuế, làm hàng giả, kinh doanh hàng hoá không đúng phẩm chất, không đúng ngành nghề đã đăng ký đang là vấn đề bức xúc đối với Nhà nước. Nhà nước cũng đang cố gắng tìm ra những giải pháp tối ưu cho để giải quyết tình trạng này, để sớm đưa ra các thể chế ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của các doanh nghiệp này khắc phục những yếu kém trên. 1.3. Công ty cổ phần, Công ty TNHH, Công ty hợp doanh: Công ty cổ phần: Đây là loại hình doanh nghiệp tiến bộ nhất. ở Việt Nam loại hình này ra đời khá muộn, với số lợng chưa nhiều. Nhưng nó có xu hướng phát triển mạnh thành loại hình chiếm ưu thế trong tương lại vì những tính năng ưu việt của loại hình này. Loại hình doanh nghiệp này có cơ cấu tổ chức linh hoạt tuỳ theo quy mô của doanh nghiệp mà Đại hội đồng cổ đông quyết định. Mặt khác loại hình doanh nghiệp này có khả năng huy động vốn tốt hơn các loại hình doanh nghiệp khác, do đó nó có khả năng mở rộng quy mô, đầu tư trang thiết bị. Tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm, để trở thành những doanh nghiệp lớn có tiềm lực. Hiện nay tuy số lượng các Công ty cổ phần chưa nhiều nhưng hoạt động của chúng hầu hết có hiệu quả cao đang dần lấy được vị thế và lòng tin của cổ động hiện tại cũng nh tiềm năng trong đó có Nhà nước, Nhà nước đang có chủ trương chuyển đổi các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, không có hiệu quả hoặc làm ăn có hiệu quả nhưng không cần thiết phải quản lý sang loại hình Công ty cổ phần. Tuy nhiên, do loại hình này còn mới mẻ nên cha thu hút đợc sự đầu tư ghép vốn của các tầng lớp dân  có tiền nhàn rỗi. Công ty TNHH: Là hình thức doanh nghiệp ghép vốn, đa sở hữu, loại hình này trong những năm qua phát triển khá mạnh đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ nhà hàng với số lượng 3.816 doanh nghiệp (tính đến 31/12/1999). Quy mô của loại hình doanh nghiệp này thường lớn hơn doanh nghiệp tư nhân, có khả năng huy động nguồn vốn lớn từ nguồn đóng ghóp của các thành viên trong Công ty. Với cơ cấu quản lý gọn nhẹ hệ thống này đã là mẫu hình doanh nghiệp phổ biến ở lĩnh vực lưu thông vừa và nhỏ. Nó đã góp phần giải quyết một số lượng lớn công ăn việc làm, tăng thu nhập cho nhân dân và tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên loại hình này thường có quy mô nhỏ làm ăn theo kiểu nhỏ lẻ, manh mún, hoạt động luồn lách thị trường gây nên nạn chốn thuế, buôn bán hàng giả gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý thị trường và thất thu cho ngân sách Nhà nước. Công ty hợp doanh: Là loại hình doanh nghiệp thành lập dựa trên các mối quan hệ nghệ nghiệp hiểu biết, là loại hình doanh nghiệp đối nhân,là sự hợp tác kinh doanh của những ngời quen biết. Loại hình này không phổ biến ở Việt Nam, số lượng còn quá ít, chưa phát huy được vai trò của nó đối với xã hội. 1.4. Doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Thực hiện chủ chơng đổi mới của Đảng, Nhà nước về mở rộng hợp tác làm ăn với nước ngoài. Nhà nước đã đa ra nhiều chính sách khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó những năm qua số lượng các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày một nhiều, số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, hoạt động của các doanh nghiệp này tập chung vào sản xuất và lu thông hàng hoá có hàm lượng chất sám cao. Lợi thế của các doanh nghiệp này là vốn, công nghệ và phuơng pháp quản lý. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tu nước ngoài đặc biệt là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài thường có số vốn lớn. Nó thường được Công ty mẹ ở nước ngoài cung cấp, đầu tư khi vào thị trường Việt Nam. Cùng với công nghệ hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến nên sản phẩm của các doanh nghiệp này có sức cạnh tranh cao trên thị trường, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này rất tốt. Hàng hoá của các doanh nghiệp này không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn có khả năng xuất khẩu ra các thị trường khó tính trên thế giới. Nó giúp giảm bớt sự mất cân bằng trong cán cân thương mại quốc tế giữa Việt Nam với các nước. Mang về một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước. Đây là hệ thống doanh nghiệp đáng để cho các doanh nghiệp trong nước học hỏi về mọi mặt từ tổ chức quản lý sản xuất, phương pháp tiếp thị, mở rộng các mối quan hệ. Tuy nhiên số lợng các doanh nghiệp này cha nhiều, lĩnh vực hoạt động còn hạn hẹp mà nguyên nhân là do hệ thống chính sách của ta còn nhiều bất cập, gặp khó khăn cản trở các nhà đầu tư muốn vào Việt Nam. Còn về phía Việt Nam trong các liên doanh thường bị thua thiệt nhiều, do không kiểm soát được yếu tố dầu vào dẫn đến việc phía đối tác nước ngoài lợi dụng, chèn ép, đẩy Việt Nam ra khỏi liên doanh để trở thống nhất doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài. Điều này đòi hỏi phía Việt Nam cần phải đào tạo con ngời cho tốt để khỏi bị phía nuớc ngoài lừa. Vì thông qua hệ thống doanh nghiệp này chúng ta thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ và học hỏi kinh nghiệm quản lý để từng bước đa đất nước đi lên. 2.Tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại. 2.1. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp thương mại nhà nước. Nhìn vào thực trạng thị trường vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại Việt Nam từ năm 1991 đến nay chúng ta nhận thấy rằng : hoạt động thương mại ở nước ta đã có một bước tiến đãng kể và đạt được những thành tựu nhất định trong cơ chế thị trường. Chẳng hạn chúng ta đã hình thành một thị trường thương mại thống nhất, hàng hoá được tự do lưu thông trong phạm vi cả nước ,tạo ra được mặt bằng sản phẩm hàng hoá đa dạng phong phú,mẫu mã đã có những bước cải tiến. Nghành thương mại đã từng bước đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của đời sống kinh tế xã hôị .Nếu tính trung thời kỳ 1991 đến 1995 tổng mức lu chuyển hàng hoá bán ra tăng bình quân 20% năm và trong năm 1995 tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán ra tính theo giá hiện hành là 150000 tỷ VND đã tăng 2,36 lần so với năm 1985. Nếu tính trong buôn bán thời kỳ 1991 đến 1995 trung bình trong cả nước thương mại quốc doanh nắm 70% thị trường bán buôn nhưng đối với các nghành thiết yếu có tính chiến lược như xăng dầu, phân bón,hoá học kim khí vật tư xây dựng cơ bản..Thương mại nông nghiệp vẫn nắm gần như toàn bộ thị trường này .Trong thời kỳ này tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ, việc cung ứng các mặt hàng chính sách cho các khu vực dân cư ,lưu thông hàng hoá trên một số nghành lớn và thiết yếu ( lương thực thực phẩm,vải may mặc, xi măng..) đều có tốc độ tăng trưởng hàng năm cao và sự chuyển dịch cơ cấu tương ứng với sức mua và tổng mức hàng hoá bán ra. Trong lĩnh hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta những năm qua đã tăng trưởng rõ rệt .Thị trường xuất khẩu đã được mở rộng một cách đáng kể, tổng kim nghạch xuất khẩu thời kỳ 1991 đến 1995 đạt 17 tỷ USD nhịp độ tăng bình quân là 20%, từ năm 1995 đến 2000 tổng kim nghạch xuất nhập khẩu là: Biểu 2: Kim nghạch xuất nhập khẩu giai đoạn từ 1995- 2000. Đơn vị triệu USD Năm Tổng kim ngạch XNK Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại Giá trị Tỷ lệ % 1995 1996 1997 1998 1999 2000 13.604,3 18399,8 20777,3 20859,9 23162,0 29508,0 5.448,9 7255,8 9185,0 9360,3 11540,0 14308,0 8.155,4 111.44,0 11592,3 11499,6 11622,0 15200,0 -2.706,5 -3888,2 -2407,3 -2139,3 -82,0 -892,0 66,8 65,1 79,2 81,4 99,3 94,1 Nguồn: tổng cục thống kê Nếu đánh giá một cách tổng quát trong giai đoạn vừa qua thương mại nhà nước ở nước ta phát triển tương đối mạnh và ổn định, thương mại nhà nước đã tường bước thích nghi với cơ chế mới từ nền kinh tế hàng hoá trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Số lượng các doanh nghiệp quốc doanh đã không ngừng giảm xuống từ 2554 doanh nghiệp năm 1991 xuống còn 1650 doanh nghiệp năm 1994 và 1578 doanh nghiệp năm 1999. Tỷ lệ giảm đáng kể chủ yếu là các doanh nghiệp thương mại nhà nước địa phương (giảm 46%) trong đó doanh nghiệp trực thuộc cấp huyện được hầu hết giải thể hoặc biến thành các cửa hàng trực thuộc công ty thương mại quốc doanh cấp tỉnh.Mặt khác số lao động trong thương nghiệp quốc doanh cũng giản từ 446700 năm 1985 xuống còn 264500 người năm 1994 với tỷ lệ giảm 45,3%. Trong đó 74 doanh nghiệp trực thuộc bộ thương mại hiên nay tổng số lao động là 47075 người ,quy mô của các doanh nghiệp là : Biểu 3: Số lao động trong các doanh nghiệp trực thuộc Bộ thương mại Đơn vị: Doanh nghiệp Số lượng lao động (người) <100 100-300 300-500 .500 Số lượng doanh nghiệp 13 28 15 18 Về nguồn vốn và quy mô của các doanh nghiệp thương mại. Tính đến 6 tháng cuối năm 1995 cả nước có 1849 doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thương mại khách sạn nhà hàng với tổng số vốn là 17269 tỷ VND, như vậy bình quân mỗi doanh nghiệp có 9,34 tỷ VND tiền vốn. Tuy thế nhưng trong số đó có 31% các doanh nghiệp có mức vốn dới 500 triệu, theo số liệu gần đây nhất của bộ Thương mại thì nguồn vốn của thương nghiệp chỉ đảm bảo gần 40% nguồn vốn cho kinh doanh. Như vậy trong kinh doanh doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn khác. Hiện nay trực thuộc bộ Thương mại có 59 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thương mại trên tổng số 74 doanh nghiệp nhưng quy mô vốn Nhà nước (bao gồm cả vốn ngân sách và vốn tự bổ sung) của các doanh nghiệp không đồng đều, cụ thể là: Biểu 4: Số vốn trong các doanh nghiệp trực thuộc Bộ thương mại Đơn vị: Tỷ VND Mức vốn (tỷ VND) Số lợng doanh nghiệp Tỷ lệ <1 1-3 3-10 10-100 100-1000 1 10 39 21 3 1,35 13,5 52,7 28,3 4,15 Thế nhưng nếu đánh giá một cách công bằng chúng ta thấy rằng trong thời kỳ qua kể từ 1991 đén nay ngành thương mại nói chung và thương mại Nhà nước nói riêng đã góp phần quan trọng trong tổng sản phẩm quốc nội. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế đất nước, với sự lớn mạnh của ngành thương mại hoạt động dịch vụ cũng không ngừng tăng lên dần chiếm vị trí chủ đạo của nền kinh tế. Một số ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ của nước ta có tốc độ phát triển rất nhanh như ngành bưu chính viễn thông. Về số lượng đơn vị doanh nghiệp thương mại Nhà nước tuy có giảm phương thức kinh doanh tuy có được cải tiến nhưng thực chất hoạt động kinh doanh vẫn còn lúng túng, trong cơ chế mới với nhiều tên gọi khác nhau như: “khoán nộp”, “khoán cửu hàng” ... nhưng thực chất là cho thuê danh nghĩa công ty quốc doanh, kéo theo nó là sự quản lý lỏng lẻo, hiệu quả thấp. Thuơng mại Nhà nước tạp trung quá đông ở các đô thị lớn, các ngành hàng kinh doanh lại đây lại còn trùng lặp, doanh nghiệp chuyên doanh giảm thiểu, trong đó doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp lại có xu hớng gia tăng. Vì vậy các doanh nghiệp quốc doanh không thể hình thành các tập đoàn kinh tế chuyên doanh hùng mạnh về vốn và sức cạnh tranh. Hiệu quả kinh doanh của thương mại Nhà nước còn thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao đời sống viên chức của ngành còn gặp nhiều khó khăn. Nền thương mại nước ta là nền thương mại nhỏ lẻ, mang tính tự cung tự cấp vẫn ít nhiều bị ảnh hưởng bởi tâm lý kinh doanh thời bao cấp. Thị trường hàng hoá và số lượng doanh nghiệp tham gia vẫn mang tính tự phát chứ thực sự chưa có định hướng kinh doanh. Giữa các đơn vị sản xuất và thuơng mại hoặc giữa các doanh nghiệp thuơng mại với nhau vẫn chưa thiết lập được mối quan hệ lâu dài để có thể tạo điều kiện cần và đủ giúp các kênh lưu thông hàng hoá được ổn định, thúc đẩy sản xuất, bình ổn giá cả và hướng dẫn tâm lý tiêu dùng. Do thiếu vốn nghiêm trọng nên thương mại Nhà nước còn bỏ trống một số lĩnh vực, mặt hàng, một số địa bàn trọng yếu, chưa đủ sức để chi phối thị trường bán lẻ, chua liên kết đuợc các thành phần kinh tế khác trong sản xuất, kinh doanh vì mục đích hiệu quả kinh tế xã hội. Thuơng mại Nhà nước vẫn chưa tạo ra được thị trường tiêu thụ trong nước và thị trường tiêu thụ ngoài nước một cách ổn định, chưa tạo ra được thị phần dành cho các mặt hàng chiến lược. Do vẫn còn bị ảnh hưởng bởi phuơng pháp quản lý của thời kỳ bao cấp nên giá dịch vụ còn cao và vẫn còn tình trạng ỷ lại Nhà nước, vẫn còn độc quyền trong một số ngành như ngành bưu điện, điện, nước. 2.2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp thương mại tư nhân. Nhìn chung các doanh nghiệp thương mại tư nhân la những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Trong hoạt động của mình của doanh nghiệp thơng mại qua điều tra của việc nghiên cứu quản lý kinh tế trung ơng trên các địa bàn: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dơng, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đắc Lắc Hải Dơng, Thừa Thiên -Huế, Lào Cai, KomTum, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hng Yên, Vĩnh Phúc và Hà Tây. Cho thấy một số tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại tư nhân như sau tư sau: Về quan hệ của doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước TW hoặc địa phương. Mục tiêu chính của việc doanh nghiệp duy trì mối quan hệ với các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước là. - Giải quyết những công việc thuần túy mang tính chất hành chính có liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. - Nắm bắt kịp thời chủ trương, chính sách, luật pháp của nhà nước cũng nh tình hình sản xuất kinh doanh của các ngành, các đơn vị kinh tế có liên quan để vận dụng trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình và thực hiện hoạt động xuất khẩu theo đúng pháp luật. - Tìm hiểu sự giúp đỡ về thị trường, công nghệ, vốn v.v... Xem xét theo các mục tiêu trên của doanh nghiệp và sự đánh giá của doanh nghiệp về tác dụng của mối quan hệ có thể thấy rằng vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp còn hạn chế. Thông tin về thị trường và đối thủ cạnh tranh. Một điều đáng chú ý là chỉ số có 38,2% doanh nghiệp điều tra cho biết có nhận được các thông tin về chiến lược ngoại thương hay các kết quả nghiên cứu thị trường trong nước và thị trường nước ngoài của Bộ Thương mại hoặc các Sở thương mại. Tác động của các thông tin nhận được đối với kết quả hoạt động của các doanh nghiệp được các doanh nghiệp đánh giá nh sau: 10,90% doanh nghiệp cho là tác động rất tích cực, 37,10% cho là tác động tích cực, 26,70% tác động vừa phải; 9,30% là không tác động. Như vậy, số doanh nghiệp nhận được thông tin từ Bộ Thương mại và các Sở thương mại chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Nhìn chung việc cung cấp thông tin về thị trường trong nước và nước ngoài của hai cơ quan này đã giúp phần nào cho doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, chất lượng của các thông tin đó chưa cao, ý kiến phê phán tập trung vào hai điểm dưới đây. Thứ nhất, nội dung thông tin nghèo nàn, giá trị thấp, không cập nhật thường xuyên và thường lạc hậu so với biến động của thị trường. Thứ hai, nhà nước chưa thực sự quan tâm đến việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ chú trọng phục vụ đối tượng là các doanh nghiệp nhà nước. Qua điều tra, các doanh nghiệp còn lấy thông tin về thị trường và đối thủ cạnh tranh từ nhiều nguồn khác: Tỷ lệ số doanh nghiệp điều tra khai thác các nguồn đó là như sau: + Sách báo, tạp chí 61,7%. + Nguồn khác (bạn hàng, ngời thân...) 53,6%. + Thông tin đại chúng 52%. + Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam 30%. + Hiệp hội sản phẩm 19,7%. + Chi nhánh văn phòng đại diện ở nước ngoài 6,6%. + Đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài 54,46%. 26.7% 27.4% 90% 20.4%% 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 Tác động rất tích cực Tác động tích cực Tác động vừa phải Không tác động Hình 1: Mức độ tác động của thông tin từ Bộ thương mại và các Sở Thương mại đối với kết quả hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp (% doanh nghiệp) Như vậy, các phương tiện thông tin đại chúng và sách báo, tạp chí là nguồn cung cấp chủ yếu thông tin chính thức về thị trường và đối thủ cạnh tranh, tiếp đến là các nguồn thông tin khác mang tính chất không chính thức từ bạn bè, người thân, bạn hàng... Còn dịch vụ cung cấp thông tin của các tổ chức Việt Nam như đại diện thương mại Việt Nam tại nước ngoài, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam được đánh giá ở mức còn hạn chế. Về thuế. Về câu hỏi doanh nghiệp đánh giá như thế nào về tỷ suất thu nhập doanh nghiệp, thuế gia trị gia tăng và thuế thu nhập, tỷ lệ doanh nghiệp điều tra đánh giá như sau: + Thuế thu nhập doanh nghiệp cao 48%. + Thuế giá trị gia tăng cao 47%. + Thuế nhập khẩu cao 16%. Trong vấn đề thuế, việc quy định hoàn thuế giá trị gia tăng trong vòng 3 tháng là điều doanh nghiệp điều tra tỏ ra không đồng ý vì nó ảnh huởng nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mà trên thực tế cũng không phải tất cả các doanh nghiệp đều được hoàn thuế đúng thời gian quy định. Cụ thể phiếu điều tra tỷ lệ doanh nghiệp được hoàn thuế trong vòng 1 tháng chỉ chiếm 14,7% còn từ 1-3 tháng chỉ chiếm 28%. Về lệ phí chỉ có 30% doanh nghiệp đánh giá các loại lệ phí là phù hợp và mức thu lệ phí là trung bình. Số doanh nghiệp còn lại cho rằng việc thu lệ phí còn nhiều vấn đề còn vướng mắ Về tín dụng. Qua phiếu điều tra, số doanh nghiệp cho biết có được hưởng tín dụng xuất khẩu và tín dụng ưu đãi chỉ chiếm 1 tỷ lệ rất nhỏ là 25% trong tổng số doanh nghiệp điều tra. Ngay cả về lãi suất từ các ngân hàng thương mại số doanh nghiệp trả lời có được hỗ trợ lãi suất cũng chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 5%. Còn việc bảo lãnh tín dụng khi thực hiện các hoạt động xuất khẩu cũng chỉ có khoảng 5% doanh nghiệp trả lời có nhận đuợc bảo lãnh tín dụng. Về quyền mua ngoại tệ, đánh giá của doanh nghiệp như sau: Bình thường: 40% doanh nghiệp. Khó khăn: 60% doanh nghiệp. Các khó khăn chính đuợc doanh nghiệp chỉ ra là. - Thủ tục rườm rà; phức tạp. - Ngân hàng không có đủ ngoại tệ để cung cấp. - Tỷ giá luôn luôn thay đổi. Tóm lại, qua khảo sát có thể thấy đuợc tác động tích cực của những giải pháp do chính phủ đề ra và sự phát huy nội lực của giới doanh nghiệp. Tuy nhiên, để tạo bình đẳng trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa các loại hình doanh nghiệp trong nước, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và tiến trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, điều quan trọng nhất là thực hiện xúc tiến nhanh việc nâng cấp khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước và hiệu quả sản xuất. Bởi vì hiện nay những lợi thế cơ bản hiện có chỉ là hữu hạn: giá nhân công sẽ được nâng cao dần theo mức thu nhập của khu vực; các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ dần dần cạn kiệt; sự ổn định chính trị mà bên trong đó là cả một thiết chế cồng kềnh, kém hiệu lực, thủ tục hành chính phiền hà và phức tạp sẽ trở thành lực cản, kém hấp dẫn trong thu hút ngoại lực và có thể dẫn đến triệt tiêu nội lực. Vì vậy việc tiếp tục cải tạo và nâng cấp môi trường kinh doanh trong nước ở Việt Nam là hết sức cấp bách. III. Đánh giá hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại ở thị trương Việt Nam. 1. Ưu điểm 1.1. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ , bước tiến quan trọng trên con đường cải cách và hội nhập Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp .Hiệp định thương mại Việt – Mỹ có nội dung rất phong phú và đa dạng, với những phụ lục khác nhau và rất chi tiết về các sản phẩm và dịch vụ, về đầu tư và sở hữu trí tuệ: đề cập rất nhiều đến các vấn đề và các lĩnh vực như chất lượng sản phẩn trong công nghiệp, nông nghiệp, thuế quan là bước mở màn cho Việt Nam đàm phán thuận lợi để gian nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Khi hiệp định được các cơ quan lập pháp của hai nước thông qua, phía Mỹ trên nguyên tắc sẽ áp dụng thuế suất phù hợp với WTO, tháo gỡ các rào cản phi thuế quan hạn chế định lượng mở đường cho hàng hoá Việt Nam vào

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0075.doc
Tài liệu liên quan