Đề tài Một số giải pháp phát triển dịch vụ Bưu phẩm quảng cáo của Tổng công ty Bưu chính Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BƯU PHẨM QUẢNG CÁO 3

1.1 Lý luận về phát triển dịch vụ 3

1.1.1 Khái niệm về phát triển dịch vụ 3

1.1.2 Sự cần thiết phải phát triển sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp 3

1.2 Lý luận về dịch vụ bưu phẩm quảng cáo 5

1.2.1 Định nghĩa về dịch vụ bưu chính 5

1.2.2 Định nghĩa về dịch vụ Bưu phẩm quảng cáo (BPQC) hay Direct Mail 6

1.2.3 Đặc điểm của dịch vụ BPQC (Direct Mail) 8

1.2.3.1 Đặc điểm của dịch vụ BPQC (Direct Mail) 8

1.2.3.2 Đặc điểm phát triển của dịch vụ Bưu phẩm quảng cáo 10

1.2.4 Phân loại dịch vụ Bưu phẩm quảng cáo 11

1.2.4.1 Phân loại theo công dụng của dịch vụ 11

1.2.4.2 Phân loại theo bộ phận cấu thành dịch vụ 12

1.2.4.3 Phân loại theo mức độ hoàn thiện của dịch vụ 13

1.3 Các nhân tố tác động đến khả năng phát triển dịch vụ BPQC của doanh nghiệp Bưu chính 13

1.3.1 Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp Bưu chính 13

1.3.1.1 Môi trường vĩ mô 13

1.3.1.2 Môi trường ngành ( môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực bưu chính) 15

1.3.2 Môi trường bên trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ BPQC (Nhân tố quyết định đến khả năng phát triển dịch vụ BPQC của doanh nghiệp bưu chính) .17

1.4 Kinh nghiệm phát triển dịch vụ BPQC của một số nước trên thế giới và bài học vận dụng cho VNPost 19

1.4.1 Kinh nghiệm phát triển dịch vụ BPQC của một số nước trên thế giới . 19

1.4.1.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc 19

1.4.1.2 Kinh nghiệm của Tập đoàn La Poste (Pháp) 20

1.4.1.3 Kinh nghiệm của Mỹ 22

1.4.1.4 Kinh nghiệm của Brazil 22

1.4.2 Một số nhận xét và bài học vận dụng đối với Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam 23

1.4.2.1 Một số nhận xét 23

1.4.2.2 Bài học vận dụng đối với việc phát triển dịch vụ BPQC của Tổng công ty Bưu chính Việt Nam 24

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ BƯU PHẨM QUẢNG CÁO CỦA TỔNG CÔNG TY BƯU CHÍNH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2003 – 2008 26

2.1 Tổng quan về Tổng công ty Bưu chính Việt Nam 26

2.1.1 Khái quát chung về Tổng công ty Bưu chính Việt Nam: 26

2.1.2. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu: 28

2.1.3 Quyền và nghĩa vụ của Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam 28

2.1.4 Cơ cấu quản lý tổ chức của Tổng công ty Bưu chính Việt Nam 29

2.1.4.1 Cơ cấu quản lý tổ chức của VNPost 29

2.1.4.2 Các đơn vị thành viên của VNPost 29

2.2 Tác động của các nhân tố bên ngoài đến sự phát triển dịch vụ BPQC của VNPost 31

2.2.1 Môi trường vĩ mô 31

2.2.1.1 Môi trường quốc tế 31

2.2.1.2 Môi trường công nghệ 34

2.2.1.3 Môi trường pháp lý 35

 

doc97 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển dịch vụ Bưu phẩm quảng cáo của Tổng công ty Bưu chính Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kích thước, khối lượng và chủ động được thời gian phát. Tỷ lệ trích thưởng cao, càng sử dụng nhiều thì chi phí càng thấp nên dễ dàng thu hút những khách hàng lớn. Tự tổ chức đội ngũ đi phát (tờ rơi quảng cáo, hàng mẫu dùng thử, phiếu thăm dò) nên rất linh hoạt, có thuê lao động thời vụ tập trung phát trong thời gian ngắn như sinh viên, học sinh nên dễ dàng đáp ứng yêu cầu của mọi khách hàng về mặt thời gian. Các tòa soạn báo thường tận dụng đội ngũ phát báo qua Bưu điện, các sạp bán báo để phát tờ rơi, hàng mẫu dùng thử đến những người mua báo, đặt báo nên chi phí rất rẻ. Thường đảm nhận luôn cả chiến dịch quảng cáo với quy trình khép kín, từ khâu in ấn, lồng gấp phong bì và chuyển phát tới khách hàng (đặc biệt là các tòa soạn báo) Nhược điểm: Phạm vi hẹp, chỉ phát trong khu vực nội thành các thành phố lớn Phát đại trà, không phát theo đối tượng cụ thể nên chi phí cao. Khâu in ấn, thiết kế phải thuê ngoài nên chí phí cao. Kiểu đối thủ loại 3 là những đối thủ cạnh tranh rất trực tiếp với VNPost trong cung cấp dịch vụ BPQC nói chung. Có thể kể ra tên tuổi một số đối thủ trong các khâu, đoạn như sau: - Trong lĩnh vực thiết kế, in ấn các loại ấn phẩm/phong bì: đây là thế mạnh của các công ty quảng cáo, công ty in, công ty chuyên về desing (thiết kế) như Gold Sun, Đất Việt, Công ty giấy Vĩnh Tiến, Thịnh Vượng... Các công ty hoạt động trong lĩnh vực này ngày càng tăng nhanh xuất phát từ chính nhu cầu tất yếu của một nền kinh tế thị trường và đang cạnh tranh mạnh với các Chi nhánh Datapost của VPS. Trong Tập đoàn, cũng đang xuất hiện tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các Chi nhánh Datapost với Công ty In Bưu điện - Lồng gấp: Thường không có các công ty chuyên về lồng gấp, qua khảo sát đây là một dịch vụ bổ sung cho dịch vụ in ấn hoặc được một số công ty có đội ngũ thiết kế mạnh, có nhu cầu thường xuyên có thể trang bị thêm một máy lồng gấp với chi phí chỉ khoảng 30 triệu đồng (đã xuất hiện ở một số doanh nghiệp tại TP HCM) để tự thực hiện nhiều công đoạn và chỉ chuyển bưu phẩm qua mạng bưu chính công cộng. - Cung cấp CSDL khách hàng: nắm bắt được xu hướng tất yếu của thị trường và nhu cầu không thể thiếu với nhiều doanh nghiệp, một số công ty cung cấp CSDL địa chỉ đã có cơ hội rất tốt và thu lợi nhuận không nhỏ từ hoạt động này, đó là Công ty Cổ phần Những trang vàng 1 – Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Công ty VDC... Bên cạnh đó, còn có cả các Đài 1080 Bưu điện Thành phố Hà Nội và TP HCM, tuy nhiên, chưa nhiều. Tuy nhiên, thực tế, việc cập nhật các địa chỉ nhìn chung vẫn chưa tốt. - Các hãng chuyển phát trong lĩnh vực bưu chính, vận chuyển: Viettel, SPT, các công ty chuyển phát tư nhân... - Các tổ chức cung cấp lao động thời vụ, không chuyên (học sinh, sinh viên...) Xét về thị phần, quy mô và sự tăng trưởng của các đối thủ cạnh tranh, ta có thể hình dung một cách tương đối thông qua số liệu khảo sát của VNPost như sau: - Có đến 28,5% khách hàng thường sử dụng phương tiện quảng cáo bằng bưu phẩm trong số các doanh nghiệp có sử dụng phương tiện quảng cáo. - Trong số 28,5% đó có hơn 1/3 không chọn dịch vụ BPQC của VNPT. - Các đối thủ cạnh tranh rất trực tiếp với VNPT đều đang hướng tới liên kết, phối hợp hoặc mở rộng cung cấp cho khách hàng nhiều công đoạn khác nhau của dịch vụ BPQC. Công đoạn chuyển các bưu phẩm ngoại tỉnh là khó cạnh tranh nhất với VNPost, tuy nhiên các đối thủ cũng không nhằm tới vì giá cước của VNPost đã khá cạnh tranh. Ngược lại, với cước phát bưu phẩm nội tỉnh, VNPost lại bị cạnh tranh với các đối tượng lao động thời vụ do việc thuê các đối tượng này khá dễ dàng, nhanh chóng, tiền công rẻ (thường các công ty trả theo ngày công, giao kết về số lượng bưu phẩm phát đi). Dù tính pháp lý của hình thức này không cao như khi khách hàng sử dụng dịch vụ của VNPost nhưng trong thực tế hình thức này đang lớn mạnh về quy mô, số lượng khi mà hiện nay VNPost cũng chưa thể cam kết với khách hàng về số bưu phẩm phát được đến khách hàng. Qua phân tích tình hình cạnh tranh trên thị trường dịch vụ BPQC có thể thấy rằng mỗi doanh nghiệp tham gia vào thị trường đều có một lợi thế riêng. Muốn đứng vững được trên thị trường đòi hỏi VNPost phải biết tận dụng lợi thế sẵn có của mình để phát triển dịch vụ BPQC trong điều kiện cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn Trong giai đoạn cải cách và đổi mới kinh doanh bưu chính ở Việt Nam hiện nay, cơ hội mới cho nhiều thành phần kinh tế tham gia là rất nhiều. Đối với dịch vụ BPQC , do khả năng thu được lợi nhuận từ dịch vụ này cao nên không chỉ có các đối thủ như hiện nay mà sẽ có nhiều tổ chức tư nhân, tổ chức nước ngoài tham gia cạnh tranh với VNPost trong việc cung ứng dịch vụ BPQC trọn gói hay chỉ một vài công đoạn của dịch vụ. Ngoài ra các ngành đường sắt, hàng không cũng sẽ cạnh tranh với VNPost trong khâu chuyển phát, vận chuyển sản phẩm dịch vụ. Các nhà cung cấp cho dịch vụ BPQC Dịch vụ BPQC chia làm nhiều công đoạn và hiện nay VNPost chưa thể đáp ứng tốt các công đoạn để đảm bảo chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng, vì vậy VNPost phải sử dụng sản phẩm của một số nhà cung cấp phù hợp với từng công đoạn như: Trong lĩnh vực thiết kế, in ấn các loại ấn phẩm, phong bì: VNPost có thể dựa vào các nhà cung cấp là các công ty quảng cáo, công ty in, các công ty chuyên về thiết kế như Gold Sun, Đất Việt, công ty giấy Vĩnh Tiến Lĩnh vực lồng gấp bưu phẩm: có thể dựa vào các tổ chức cung cấp lao động do chưa có công ty nào chuyên về lồng gấp. Về lĩnh vực cung cấp CSDL khách hàng thì VNPost dựa vào các nhà cung cấp như: Công ty cổ phần Niên giám điện thoại và Trang Vàng 1 – Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các tổng đài 1080 Trong lĩnh vực chuyển phát, vận chuyển thì nhà cung ứng chủ yếu là các công ty vận chuyển. Đối với vận chuyển trong nước, hãng vận chuyển là Hàng không Việt Nam và đường sắt Việt nam. Đối với vận chuyển quốc tế, nhà cung ứng là các hãng hàng không Việt Nam, các hãng hàng không quốc tế và đường thủy Do phụ thuộc nhiều vào các hãng hàng không, đường sắt nên VNPost không chủ động được lịch trình vận chuyển dẫn tới thời gian chuyển phát bưu gửi bị ảnh hưởng, không đảm bảo đúng tiến độ với khách hàng Các nhà cung cấp từng khâu dịch vụ cũng trở thành những đối thủ cạnh tranh hiện nay với chính dịch vụ BPQC Sản phẩm thay thế Dịch vụ BPQC hiện nay bị cạnh tranh thay thế rất mạnh bởi các phương tiện quảng cáo khác như phát thanh, truyền hình, báo chí, dịch vụ viễn thông (điện thoại, nhắn tin, fax) và công nghệ thông tin như Internet (e-mail), các loại báo điện tử, quảng cáo trực tuyếnCác phương tiện quảng cáo truyền thông này hiện đang phát triển rất mạnh tạo ra áp lực cạnh tranh ngày càng lớn với dịch vụ BPQC của VNPost. + Truyền hình, phát thanh: có thể kể đến một số tên tuổi lớn hiện nay như Đài truyền hình Việt Nam (VTV), Đài Tiếng nói Việt Nam, Tổng công ty Truyền thông đa phương tiện Việt Nam (Đài truyền hình kỹ thuật số VTC) và 64 Đài Truyền hình trực thuộc 64 tỉnh, thành phố, các đài truyền thanh tỉnh đều nhận thực hiện các chương trình quảng cáo thương mại, khuếch trương cho các tổ chức doanh nghiệp. Trong khi thói quen sử dụng phương tiện truyền hình trong truyền thông quảng cáo vẫn chiếm đại đa số các tổ chức, doanh nghiệp thì với số lượng các đài truyền hình như trên sẽ tạo ra áp lực cạnh tranh thay thế không nhỏ đối với dịch vụ bưu phẩm quảng cáo của VNPost. Truyền hình là phương tiện chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh số quảng cáo ở Việt Nam. + Báo, tạp chí: Hiện ở Việt Nam có khoảng hơn 1.000 đầu báo viết, tạp chí in ấn. Tất cả các báo, tạp chí đều nhận đăng quảng cáo cho các tổ chức, doanh nghiệp. Đây là một trong những phương tiện quảng cáo cũng rất phổ biến được các doanh nghiệp ở Việt Nam ưa dùng, doanh số quảng cáo trên báo, tạp chí chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng doanh số quảng cáo ở Việt Nam. + Điện thoại: Hiện nay ở Việt Nam hình thức tiếp thị qua điện thoại - telemarketing (gọi điện thoại trực tiếp, quảng cáo qua tin nhắn điện thoại cố định) đang trên đà phát triển theo đà tăng trưởng của số thuê bao điện thoại. Với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 50%/năm của thị trường dịch vụ viễn thông thì áp lực do loại hình dịch vụ này tạo ra đối với dịch vụ bưu phẩm quảng cáo của VNPost là rất lớn. + Internet: Sự phát triển mạnh mẽ của internet và số lượng tăng nhanh của người sử dụng internet kéo theo hình thức quảng cáo trực tuyến sẽ phát triển rất mạnh tạo ra những thách thức to lớn trong phát triển thị trường dịch vụ bưu phẩm quảng cáo của VNPost bởi loại hình quảng cáo này cũng được dự đoán sẽ rất phát triển và chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số quảng cáo toàn cầu. Ngoài ra hiện nay ở Việt Nam còn có rất nhiều công ty quảng cáo còn cung cấp dịch vụ cho thuê không gian quảng cáo để các doanh nghiệp đặt các Panô, tấm lớn nơi đông người Khách hàng sử dụng dịch vụ BPQC Qua nghiên cứu và phân tích nhu cầu sử dụng dịch vụ bưu phẩm của khách hàng là tổ chức doanh nghiệp thì có thể thấy khách hàng sử dụng dịch vụ BPQC của VNPost có một số đặc điểm chung sau: Số lượng gửi bưu phẩm một lần nhiều, có thể ấn định trước địa chỉ nhận hoặc không ấn định trước địa chỉ của người nhận và gửi trong một thời gian rất ngắn. Nội dung bưu gửi là các văn bản, chứng từ, hóa đơn thanh toán, tờ rơi quảng cáo, thư quảng cáo, thư chào hàng, thiếp chúc mừng trong đó, thư chào hàng và tờ rơi quảng cáo chiếm tỷ trọng tuyệt đối Tần suất sử dụng dịch vụ của khách hàng phụ thuộc vào đặc điểm thông tin được chuyển phát. Các loại hóa đơn thanh toán, chứng từ thường có tần suất gửi đều đặn. Còn thư chào hàng, tờ rơi quảng cáo thì tần suất gửi không đều đặn, phụ thuộc vào các chiến dịch quảng cáo của tổ chức, doanh nghiệp. Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp rất đa dạng, thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Qua thống kê 1000 khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp có mức độ sử dụng dịch vụ bưu phẩm quảng cáo trong năm 2007 của Ban Giá cước và Tiếp thị (thuộc Tổng công ty bưu chính Việt Nam) có thể thấy như sau: Bảng 2.4: Tình hình sử dụng dịch vụ BPQC theo loại doanh nghiệp STT Lĩnh vực hoạt động Tỷ lệ có sử dụng (%) Tỷ lệ không sử dụng (%) 1 Công ty quảng cáo 80,00 20,00 2 Dịch vụ bưu chính, viễn thông, CNTT 74,47 25,53 3 Văn hóa, thể thao 70,00 30,00 4 Công ty thương mại, dịch vụ khác 63,09 36,91 5 Giáo dục, đào tạo 57,14 42,86 6 Ô tô, xe máy, đồ dùng gia đình, cá nhân 55,81 44,19 7 Công ty sản xuất khác 52,03 47,97 8 Ngân hàng, bảo hiểm và tổ chức tín dụng 51,04 48,96 9 Siêu thị, cửa hàng lớn 43,75 56,25 10 Công ty nhà nước, hành chính sự nghiệp 40,00 60,00 11 Điện lực, nước sạch, nhà ở 38,10 61,90 Nguồn: Tổng Công ty Bưu chính Việt Nam Số liệu trên cho thấy nhu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ BPQC là rất lớn. Vì vậy VNPost cần tập trung khai thác vào từng nhóm khách hàng để mang lại hiệu quả cao nhất. Nếu phân loại khách hàng tổ chức, doanh nghiệp theo lĩnh vực sản xuất kinh doanh để xác định mục đích sử dụng bưu phẩm quảng cáo của VNPost thì bao gồm: Bảng 2.5: Phân loại khách hàng sử dụng dịch vụ BPQC theo lĩnh vực sản xuất kinh doanh TT Lĩnh vực hoạt động SXKD Mục đích sử dụng 1 Doanh nghiệp sản xuất Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm 2 Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công cộng (viễn thông, truyền hình, điện lực, nước sạch, hàng không) Chuyển phát hóa đơn hàng tháng tới khách hàng đang sử dụng 3 Các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ Quảng cáo, giới thiệu dịch vụ 4 Các tổ chức tài chính, ngân hàng, bảo hiểm Quảng cáo, giới thiệu dịch vụ hoặc chuyển phát thông báo về số dư tài khoản, lãi suất với khách hàng. Đây là loại thông tin có tính bảo mật cao. 5 Giáo dục và đào tạo Quảng cáo, thông báo tuyển sinh, thông báo các khóa học dài hạn, ngắn hạn 6 Các tòa soạn báo Thông tin về đặt mua báo, các bài viết dự thi, dự đoán kết quả của độc giả gửi tới. 7 Các công ty tư vấn, nghiên cứu thị trường và các công ty tổ chức hội chợ, triển lãm Quảng cáo, khuyếch trương, gửi phiếu điều tra Nhu cầu sử dụng dịch vụ BPQC của khách hàng tổ chức, doanh nghiệp cũng phụ thuộc rất nhiều vào lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Cụ thể là: Các doanh nghiệp có nhu cầu đột biến nhưng tần suất không đều đặn là các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất do phụ thuộc vào các chiến dịch quảng cáo trong từng thời kỳ và ngân sách phân bổ cho hoạt động marketing. Các doanh nghiệp có nhu cầu ổn định và thường xuyên nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Điện lực, nước sạch, Bảo hiểm, Ngân hàng, Viễn thông, Hàng không, các tổ chức giáo dục và đào tạo với số lượng lớn trong mỗi lần gửi, tần suất ổn định theo tháng/quý và số lượng khách hàng không ngừng tăng lên theo thời gian. Từ những phân tích trên cho thấy nhu cầu chuyển phát thông tin ngày càng tăng kéo theo nhu cầu về in ấn, thiết kế nội dung thông tin của bưu phẩm đối với các tổ chức, doanh nghiệp là rất lớn. Điều đó đòi hỏi VNPost cần chủ động đáp ứng nhu cầu này nhằm tăng sự tiện ích cho khách hàng sử dụng dịch vụ BPQC. Nhận diện các cơ hội và thách thức đối với VNPost trong cung ứng dịch vụ BPQC Từ những kết quả phân tích các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài doanh nghiệp VNPost có thể nhận thấy những thời cơ, thách thức của VNPost trong việc cung ứng dịch vụ BPQC như sau: Bảng 2.6: Nhận diện các cơ hội, thách thức của VNPost trong cung ứng dịch vụ BPQC Cơ hội (O) Thách thức (T) O1. Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO tạo điều kiện cho VNPost tiếp thu được các kinh nghiệm về quản lý, các kỹ thuật tiếp thị tiên tiến trong việc phát triển dịch vụ BPQC. O2. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, môi trường cạnh tranh ngày càng lành mạnh tạo đà cho các doanh nghiệp, tổ chức phát triển. O3. Công nghệ thông tin phát triển cho phép VNPost ứng dụng công nghệ để nâng cao chất lượng dịch vụ BPQC, tạo ra nhiều dịch vụ giá trị gia tăng đi kèm nhằm tăng sức hấp dẫn với các doanh nghiệp. O4. Trên thế giới hình thức gửi thư (hoặc bưu phẩm) từ doanh nghiệp tới khách hàng của mình chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng ngân sách dành cho hoạt động quảng cáo, marketing trực tiếp. Đây là bài học quý báu đối với doanh nghiệp Việt Nam và cũng là thuận lợi cho VNPost. O5. Quy mô thị trường lớn, đầy tiềm năng. Số lượng tổ chức, doanh nghiệp ngày càng lớn. Cạnh tranh ngày càng khốc liệt dẫn tới chi phí cho hoạt động quảng cáo, giao tiếp và khuếch trương của các doanh nghiệp ngày càng lớn. Đây chính là khách hàng mục tiêu của dịch vụ BPQC của VNPost O6. Tỷ lệ biết chữ của người dân Việt Nam cao (trên 94%) nên dịch vụ BPQC là một trong những phương tiện giao tiếp chi phí thấp của doanh nghiệp với khách hàng của mình. O7. Chính sách pháp lý nói chung và chính sách đối với lĩnh vực bưu chính nói riêng ngày càng được hoàn thiện cho phép VNPost được hoạt động kinh doanh độc lập, tạo điều kiện thúc đẩy việc kinh doanh dịch vụ BPQC trở thành ngành mũi nhọn của VNPost O8. Dịch vụ BPQC có một số đặc điểm ưu việt so với các công cụ truyền thông khác. Tính ưu việt đó rất phù hợp với các tổ chức, doanh nghiệp trong kinh doanh hiện đại. T1. Xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, hàng rào thuế quan dần xóa bỏ tạo ra thách thức đối với VNPost do phải cạnh tranh với các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực BPQC T2. Việt Nam gia nhập WTO tạo ra làn sóng đầu tư của các nhà quảng cáo chuyên nghiệp nước ngoài tham gia đầu tư vào Việt Nam, VNPost sẽ phải đối mặt với cạnh tranh rất khốc liệt để tồn tại và phát triển dịch vụ BPQC. Mặt khác, dịch vụ BPQC cũng bị hạn chế về tiếp cận thị trường và một số cam kết chung khác. T3. Công nghệ thông tin phát triển cũng cho ra đời nhiều phương tiện quảng cáo khác có nhiều tính ưu việt nhằm cạnh tranh mạnh với dịch vụ BPQC của VNPost. T4. Cạnh tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực chuyển phát thư, ấn phẩm ở Việt Nam bởi sự góp mặt của nhiều công ty bưu chính, các công ty quảng cáo, các tòa soạn báo. T5. Hiểu biết và nhận thức của khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp đối với dịch vụ BPQC còn rất thấp T6. Thói quen sử dụng các phương tiện truyền thông, quảng cáo như truyền hình, phát thanh, báo và tạp chí đã trở nên quá quen thuộc trong các doanh nghiệp, tổ chức ở Việt Nam trong thời gian qua. T7. Hiện nay cước các dịch vụ bưu phẩm đều do Nhà nước quy định khiến VNPost khó xây dựng được chính sách giá cước phân biệt, linh hoạt cho dịch vụ BPQC hướng tới từng nhóm khách hàng cụ thể. Tác động của các nhân tố bên trong đến sự phát triển dịch vụ BPQC của VNPost (Nhân tố quyết định sự phát triển của dịch vụ BPQC). Tổ chức bộ máy quản lý, kinh doanh dịch vụ BPQC Có thể khái quát một vài nét cơ bản nhất về mô hình tổ chức và quản lý hiện tại đối với các dịch vụ BPQC là Datapost, Bưu phẩm có địa chỉ và Bưu phẩm không địa chỉ mà khách hàng đang sử dụng với mục đích quảng cáo, kinh doanh, thường được gửi với số lượng lớn: Sơ đồ 2.2: Mô hình tổ chức và quản lý các dịch vụ BPQC hiện tại BĐTT VPS HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ TỔNG GIÁM ĐỐC BAN KẾ HOẠCH BAN KT-TK-TC BAN BC-PHBC CÁC BAN KHÁC GĐ. BĐTT GIÁM ĐỐC BĐ HUYỆN THỊ Phòng, Tổ quản lý Bưu cục Điểm BĐ-VHX Đại lý, Kiot Các tổ, đội khác GĐ. CÔNG TY GĐ. VPS1 GĐ. VPS2 GĐ. VPS3 Bưu cục của VPS1 Chi nhánh Datapost 1 Bưu cục của VPS2 Chi nhánh Datapost 2 Bưu cục của VPS3 Bưu cục giao dịch Các bộ phận khác Phòng tiếp thị bán hàng Phòng NV BC-PHBC Phòng chức năng khác * Về dịch vụ Datapost Theo sơ đồ trên, Trung tâm VPS1 và VPS2 được Công ty giao trách nhiệm trực tiếp quản lý 2 chi nhánh Datapost và phối hợp các hoạt động để thực hiện chăm sóc khách hàng, phát triển thị trường. Tuy nhiên mô hình vày đang có một số hạn chế sau: + Phối hợp chăm sóc và phát triển khách hàng chưa tốt, chưa quy trách nhiệm rõ rang. Các Trung tâm VPS giao chỉ tiêu doanh thu cho Chi nhánh Datapost, trong khi Phòng Tiếp thị – Bán hàng có trách nhiệm tìm kiếm và chăm sóc khách hàng. + Nhiều cấp quản lý, làm giảm tính chủ động và năng động của các chi nhánh trực tiếp kinh doanh dịch vụ; việc phối hợp các hoạt động không nhanh nhạy; phản ứng chậm với các diễn biến của thị trường cạnh tranh.. + Các hoạt động đầu tư, đào tạo lao động phù hợp với nhu cầu từng đơn vị, từng giai đoạn khác nhau có thể bị động và không kịp thời. Tóm lại, với đặc điểm khách hàng dịch vụ Datapost là khách hàng doanh nghiệp, có nhiều yêu cầu đặc biệt và khác nhau, khách hàng đều là khách hàng lớn và thường xuyên, yêu cầu về thời gian thường khẩn trương và kịp thời nên với mô hình tổ chức kinh doanh dịch vụ Datapost như hiện tại chưa cho phép tạo quyền chủ động và linh hoạt, phản ứng nhanh hơn với các động thái cạnh tranh trên thị trường và phù hợp với đối tượng khách hàng của dịch vụ này. * Về dịch vụ BPKĐC và BPCĐC Tập đoàn trực tiếp kinh doanh dịch vụ BPKĐC và BPCĐC trên cơ sở giao kế hoạch hàng năm về doanh thu, sản lượng các dịch vụ cho từng đơn vị. Cũng tương tự như hầu hết các dịch vụ, dịch vụ BPKĐC và BPCĐC được tổ chức tập trung toàn mạng, cần sự tham gia kinh doanh của nhiều đơn vị tại các khâu đi – đến – qua. Dịch vụ BPKĐC và BPCĐC chủ yếu được tiếp nhận thông qua các điểm giao dịch hiện có của VNPT. Hiện tại, dịch vụ BPKĐC và BPCĐC được khai thác chung với các dịch vụ khác nên ngoài những bất cập chung như một số dịch vụ bưu chính kinh doanh khác, với tính chất và đặc điểm của dịch vụ BPQC thì việc tổ chức kinh doanh hiện tại cũng còn những bất cập cơ bản sau: - Sự chủ động và phối hợp giữa các khâu đi – qua - đến chưa tốt, chưa đáp ứng được đối với nhu cầu của khách hàng dịch vụ BPQC. - Các đơn vị thiếu chủ động và thiếu trách nhiệm trong việc khai thác tối đa thị trường. Về lý do không sử dụng dịch vụ BPQC của VNPT, có đến 50% khách hàng trả lời là vì không biết đến dịch vụ. Con số này thực sự là con số nói lên những bất cập và hạn chế của công tác quảng cáo, tiếp thị dịch vụ. Hạn chế này nằm ngay trong việc tổ chức kinh doanh hiện tại (nhiều cấp quản lý, bị động, đồng thời với thiếu ràng buộc). - Chưa có cơ chế thoả đáng và ràng buộc trách nhiệm giữa các đơn vị nên đã gây mất uy tín với một số khách hàng quan trọng, chất lượng phát chưa đảm bảo, mất khách hàng... - Việc tổ chức kênh bán hàng và phối hợp chăm sóc khách hàng chưa thật phù hợp với tính chất dịch vụ. Những bất cập trên đã ngăn cản sự phát triển của dịch vụ BPQC. Nhìn nhận được tầm quan trọng và xu thế phát triển của dịch vụ BPQC, nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, VNPost cần có chủ trương sắp xếp, tổ chức lại mô hình kinh doanh dịch vụ BPQC theo hướng tinh giản, gọn nhẹ, tạo quyền chủ động linh hoạt cho các đơn vị để có thể đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. * Nguồn nhân lực phục vụ kinh doanh dịch vụ BPQC Trong những năm qua, đội ngũ lao động của Bưu chính được bổ sung chủ yếu từ các trường công nhân, nguồn nhân lực này được đào tạo dựa trên quy trình công nghệ của các dịch vụ truyền thống. Số lượng cán bộ được đào tạo hệ trung cấp và cao đẳng chiếm tỷ trọng chưa cao nhưng lại chủ yếu chỉ được đào tạo về nghiệp vụ. Đội ngũ này đã được trang bị kiến thức về nghiệp vụ bưu chính nhưng các kiến thức về kinh doanh, bán hàng, quan hệ khách hàng, ngoại ngữ còn yếu, chưa đáp ứng được cho quá trình chuyển đổi bưu chính. Với riêng dịch vụ BPQC nói chung, chưa có đội ngũ lao động am hiểu về tính chất dịch vụ, về những kiến thức cần thiết về marketing trực tiếp, về BPQC để hỗ trợ cho khách hàng. Đây cũng là một nguyên nhân khiến dịch vụ BPQC chưa tiếp cận rộng rãi tới các khách hàng và chất lượng dịch vụ chưa cao. 2.3.2 Các hình thức dịch vụ BPQC mà VNPost hiện đang cung cấp Tuy chưa có dịch vụ bưu phẩm nào tên là “dịch vụ BPQC” nhưng hiện nay VNPost đang cung cấp một số dịch vụ có thể đáp ứng nhu cầu quảng cáo, khuếch trương và giao tiếp với khách hàng của các tổ chức, doanh nghiệp dưới các hình thức sau: 2.3.2.1 Dịch vụ bưu phẩm có địa chỉ (BPCĐC) Dịch vụ bưu phẩm có địa chỉ (BPCĐC) còn được gọi là thư thương mại: là dịch vụ bưu phẩm mà người gửi (là các tổ chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân) ấn định chi tiết địa chỉ của người nhận. Thông qua dịch vụ BPCĐC, người gửi có thể gửi những thông điệp quảng cáo đến những địa chỉ định sẵn mà không bị hạn chế bởi phạm vi thời gian và không gian. Theo tính chất của dịch vụ có thể phân BPCĐC thành: + BPCĐC chuyển phát thường: bưu phẩm thường, bưu phẩm ghi số + BPCĐC chuyển phát nhanh Đối với khách hàng tổ chức, doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ bưu phẩm vì mục đích quảng cáo thường sử dụng với số lượng bưu phẩm lớn nên họ lựa chọn loại hình dịch vụ chuyển phát thường bởi loại hình chuyển phát này có giá cước thấp hơn rất nhiều so với loại hình chuyển phát nhanh. Khách hàng sử dụng dịch vụ BPCĐC thường có đặc điểm: - Đối với khách hàng là các doanh nghiệp thì khi muốn gửi thư ngỏ đến khách hàng, thư cảm ơn, thư chào hàng thì BPCĐC (thư thương mại) là một sự lựa chọn tốt nhất vì để có một mối quan hệ tốt đẹp mà khi chưa có một cuộc gặp mặt nào hoặc khi muốn cảm ơn khách hàng thì việc gửi một lá thư đến tận tay khách hàng là thể hiện sự lịch sự, tôn trọng và quan tâm đến người nhận. - Đối với khách hàng là các tổ chức, các bộ, ngành thì thư theo đường công văn giữa các bộ ngành gửi cho nhau đòi hỏi tính chính xác là rất cao (ngày gửi đi, xác nhận của nơi gửi, nơi nhận) mà thư thương mại luôn đảm bảo tốt được các yêu cầu trên. 2.3.2.2 Dịch vụ bưu phẩm không địa chỉ (BPKĐC) Dịch vụ bưu phẩm không địa chỉ (BPKĐC): là dịch vụ bưu phẩm mà người gửi (thường là tổ chức, doanh nghiệp) không ấn định địa chỉ cụ thể mà chỉ ấn định đối tượng nhận và khu vực phát. Dịch vụ này được Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) triển khai trên mạng lưới từ tháng 10/2008, phát triển ở các thành phố lớn có nhu cầu trao đổi thông tin, hàng hóa cao. Dịch vụ BPKĐC có thể đáp ứng nhu cầu quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp, đặc biệt là quảng cáo giới thiệu sản phẩm, dịch vụ mới như chuyển phát tờ rơi, tờ bướm các mẫu hàng thử, hàng khuyến mại đến số lượng khách hàng. Khách hàng sử dụng dịch vụ này thường có đặc điểm: - Với mục đích chính là quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ, khách hàng sử dụng dịch vụ BPKĐC chủ yếu là các tổ chức, doanh nghiệp như: các siêu thị, các trung tâm tư vấn đào tạo, các hãng kinh doanh hàng tiêu dùng, các văn phòng đại diện nước ngoài - Khách hàng sử dụng dịch vụ BPKĐC thường có nhu cầu gửi theo tuần, tháng, quý và năm; mỗi lần gửi thì khách hàng thường gửi với số lượng lớn. - Khách hàng có tâm lý băn khoăn khi sử dụng dịch vụ với tên gọi BPKĐC vì khách hàng không thể kiểm soát được chất lượng phát của dịch vụ. - Do giá cước còn khá cao so với thuê học sinh, sinh viên phát và do các khách hàng thấy khó kiểm tra chất lượng chuyển phát của dịch vụ nên đã rất nhiều tổ chức, doanh nghiệp chuyển sang hình thức thuê người ngoài đi phát với nhân công rất rẻ - Để chuyển phát số lượng lớn như ấn phẩm quảng cáo, thư chào hàng đến số lượng lớn khách hàng, các doanh nghiệp, tổ chức có thể lựa chọn nhiều dịch vụ trong đó có dịch vụ BPKĐC nhưng trên thực tế khách hàng biết đến dịch vụ không nhiều (72,7% tổng số khách hàng trong tổng số người tham gia trả lời là không biết đến dịch vụ). Hiện tại thì k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2036.doc
Tài liệu liên quan