Đề tài Những mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam

 Mục Lục.

 Trang

A,Lời mở đâu .1

B.Nội dung . .3

I,Mâu thuẫn là nguồn gốc ,động lực cua mọi vận động

 và phát triển .3

1,nội dung quy luật . 3

2.vai trò của quy luật mâu thuẫn trong hoạt động thực tiễn

 của con người 5 II/ Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

 phần ở Việt Nam .7 III/ Những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá

nhiều thành phần ở Việt Nam .8

1,mâu thuẫn giưa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất . .8

2.mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể,lợi ích xã hội 12

3.mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người

Xã hội chủ nghĩa .14

4, thực trạng và những mâu thuẫn nảy sinh giữa các thành phần kinh tế

 ở nước ta .17

5,mâu thuẫn giữa lợi ích của người lao động và lợi ích của những

người thuê mướn lao động . 20

C. Kết luận . 22

 

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1704 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược tất cả các mâu thuẫn. Chính vì thế mà phải xác định xem mâu thuẫn nào cần phải giải quyết trước. “ Ví dụ: Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là: Tiến hành cải tổ không theo một trình tự rõ ràng, đã có sự phê phán đối với “sự trì trệ” nhưng không xác định được mâu thuẫn nào cần được giải quyết trước, và chúng được thực hiện theo sự nhất quán nào, vào thời gian nào,trong điều kiện nào. Từ đó dẫn đến hiện tượng luống cuống, hỗn độn, mất ổn định của nhà nước và xã hội. Trong hoạt động thực tiễn, phát hiện và nhận thức mâu thuẫn là rất quan trọng, không nên lảng tránh và che dấu mâu thuẫn. Hơn nữa, mâu thuẫn được giải quyết bằng quá trình đấu tranh theo qui luật khách quan. Cho nên trong đời sống xã hội chúng ta phải coi hành vi đấu tranh là chân chính. II/ Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế ,kiểu quan hệ kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có liên hệ chặt chẽ với nhau,tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều thành phần kinh tế Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tổng thể các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong môi trường hợp tác và cạnh tranh Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một yếu tố khách quan vì - bước vào thời kì quá độ,nền kinh té nước ta còn ở trình độ kém phát triển,lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau,do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất có nhiều hình thức - Một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại,các thành phần này vẫn có vai trò quan trọng để phát riên kinh tế,có lợi cho đất nước trong việc giải quyết việc làm,tăng sản phẩm,huy động các nguồn vốn,nguồn lực để phát triên kinh tế(như kinh tế cá thể,tiểu chủ,tư bản tư nhân) - một số thành phần kinh tế xuất hiện trong qua trình cảI tao và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước,kinh tê tập thể,kinh tế tư bản nhà nước Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau,tạo thành cơ cấu kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ơ nước ta III/ Những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. Sau đại hội Đảng lần thứ IV, đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, và cho đến nay, sau hơn 20 năm thực hiện đã thực sự đem lại kết quả to lớn trong mọi mặt của đời sống xã hội: đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, tổng sản phẩm trong nước tăng hàng chục lần, từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân và hướng sang xuất khẩu. kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tăng nhanh. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 20%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 41.8%, dịch vụ từ 38,6% xuống38,1%....Bên cạnh những kết quả mà ta đạt được, là những khó khăn trong khi xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết phải nói đến điểm xuất phát của ta khi chuyển dịch cơ chế, từ nền kinh tế yếu kém, mang đậm tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự tích luỹ dồi dào, khoa học công nghệ phát triển và một nền kinh tế vững mạnh ...Tiếp theo đó là cơ chế quản lý của nhà nước, mặc dù đường lối của Đảng đặt ra là đúng đắn, nhưng việc thực hiện nó không đồng bộ. Y thức hệ còn chưa được rõ ràng, tác phong cá nhân yếu kém... Chính những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn kìm hãm bước phát triển. 1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. xét trên phương diện triết học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là ý thức, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi, và là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất lúc này tỏ ra không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ơ Việt Nam, mặc dù nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho LLSX – QHSX phát triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường thì LLSX luôn tỏ ra mâu thuẫn với QHSX. Tính cạnh tranh và năng động là một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường, thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn làm chậm. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiêm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác mới phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kimh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở. Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, qui hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn yếu kém, thủ tục đổi mới hành chính chậm. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây ra tác động xấu với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn bất hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn ... Đó là một số hạn chế của QHSX kìm hãm LLSX phát triển và điều đó làm cho quá trình xây dựng đất nước của ta gặp nhiều khó khăn. Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là việc làm, tình trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa LLSX – QHSX có sự mất cân đối. Khi QHSX phù hợp, nó không những giải phóng được sức sản xuất mà còn tạo tiền đề để thúc đẩy bước phát triển của LLSX. Vì vậy vấn đề đặt ra cần đặt ra là làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này? Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thức hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những sản xuất và dịch vụ quan trọng: Xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hưũ hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật,xoá bỏ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng, phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng qui mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả. có trật tự, kỉ cương trong môi trường cạnh tranh lạnh mạnh, công khai minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh, tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường thị trường vốn, tiền tệ nhằm hỗ trợ tối đa cho sản xuất Và điều cuối cùng là việc đổi mới chế độ sở hữu, đó là mấu chốt quan trọng nhất trong việc cân bằng mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. . Hiện nay ở nước ta, một số hình thức sở hữu đã được hình thành, một số hình thức khác đang được khôi phục hoặc mới bắt đầu hình thành. Chế độ nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế là hoàn toàn có cơ sở khách quan. Đó là những thay đổi diễn ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế. Trình độ phát triển LLSX và xã hội hoá sản xuất trong các khu vực kinh tế quốc dân không giống nhau. Có những khoảng cách đáng kể trong phát triển kỹ thuật ở các xí nghiệp, các ngành, các vùng khác nhau. Chính vì vậy mà cần điều chỉnh lại cơ cấu QHSH. Trong việc đổi mới các quan hệ sở hữu, xác lập nhiều hình thức sở hữu, cần phải xem xét, đánh giá đúng, tăng cường vai trò chủ đạo của các hình thức sở hữu nhà nước, bằng cách cải tổ khu vực này: những xí nghiệp nào cần được duy trì, những xí nghiệp nào cần được giải thể và việc giải thể đó ra sao, là những vấn đề hết sức phức tạp đó là vấn đề then chốt nhắm đảm bảo tiền đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện tăng trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể vầ lợi ích xã hội. Trong nền kinh tế hàng hoa nhiều thành phần mà quan hệ sản xuất đó là quan hệ hàng hoá-tiền tệ, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng những không bị mất đi mà còn có những diễn biến phức tạp hơn. Trước hết là phải nói đến ưu điểm của nền kinh tế hàng hoá, phân công lao động và chuyên môn hóa trong sản xuất làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên,hàng hoá tạo ra nhiều,kích thích sự cạnh tranh trên thị trường ,điều kiện cho mọi cá nhân phát huy năng lực, trí tuệ, tuy nhiên sự phát triên của thị trương có sự quản lý cua nhà nước đã tạo ra mâu thuẫn.Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không được giải quyết đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công bằng xã hội. Trong mối quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Còn ngược lại, nếu các nhân có lợi, nhưng lợi ích xã hội bị vi phạm, thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội. Ví dụ: Vì lợi ích cá nhân mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta có thể phá hoại môi trường sống, có thể làm những việc phi pháp, phi đạo đức, phi nhân tính, để có lợi cho bản thân, làm thất thoát tài sản của nhà nước... Trong trường hợp này hậu quả do cá nhân đó tạo ra làm ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội. Chúng ta cần biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỉ cá nhân. Lợi ích chính đáng của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tôn trọng và phát huy, còn lợi ích ích kỉ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân, là nguyên nhân dân đến sự thoái hoá, biến chất, trộm cắp, tham nhũng của một số cá nhân trong bộ máy của nhà nước. Nếu xã hội không có những biện pháp tích cực và có hiệu quả thì những tệ nạn này chẳng những không giảm đi, mà trái lại càng gia tăng, vì cùng với sự phát triển kinh tế, của cải xã hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên và những thứ này lại được giao cho cá nhân trực tiếp quản lý. Thực tế cho thấy rằng ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm trọng. Sở dĩ có tình trạng trên là do nguyên nhân chủ quan trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng: Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỉ luật, kỉ cương chưa nghiêm. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỉ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị qyuết của Đảng, pháp luật, chính sách của nhà nước, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho đường lối của Đảng khó đi vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành còn bất cập, thiếu kiểm tra, đôn đốc và chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật và Điều lệ của Đảng còn chưa được xử lý thật kiên quyết. Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành. Cải cách hành chínhtiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước còn công kềnh, trùng lặp chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường hợp trên và dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội và là giảm động lực phát triển. Một số người và cơ quan do lợi ích cá nhân, cục bộ không muốn đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tổ chức bộ máy nhà nước... Trên đây là những tiêu cực của một số cá nhân có chức quyền và lạm dụng nó để tiến hành mưu lợi riêng cho mình, gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế quốc dân. Còn đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh bất chấp pháp luật để chạy theo lợi nhuận. Hiện tượng làm hàng giả, hàng lậu vẫn tiếp tục phát triển làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Như vậy, chính mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường, càng cho thấy rõ được tầm quan trọng trong vai trò quản lý của nhà nước đối với việc phát triển kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tiêu cực trong xã hội đó là sự quản lý yếu kém, không đồng bộ của nhà nước. Chính vì vậy mà trong nghị quyết trung ương Đảng lần thứ IX, chủ trương chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Cần nhận thức rằng: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”. 3. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN. Yêu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phung phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Chúng ta phải bắt đầu từ con người làm điểm xuất phát”. Kinh tế hàng hoá là một loại hình kinh tế mà trong đó sản phẩm sản xuất ra với mục đích để trao đổi,mua bán,do vậy, các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. KTTT phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hôi tiến lên. tuy nhiên KTTT cũng có những khuyết tật như: sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ... Xuất phát từ sự phân tích trên dây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng con người nếu thiếu yếu tố KTTT. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế kém phát triển, mô hình kinh tế không phù hợp, nước ta đã bị tụt hậu nghiêm trọng so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh đó, KTTT là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và đi vào phục hồi, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Trong những năm qua, KTTT ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, làm cho nền kinh tế sôi động hơn,. Đây là kết quả đáng mừng và cần được phát huy, nó thể hiện sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên qui mô toàn xã hội. Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần được đề cập đến: KTTT ở nước ta hiện nay khônng chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng và phát huy nguồn lực của con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. KTTT tạo ra sự cạnh trnah và chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh... Từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, cần phải thấy rõ rằng không phải cứ xây dựng được KTTT là những phẩm chất tốt đẹp đó tự hình thành trong con người. Có những lúc KTTT không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại, còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành kẻ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lơị ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp lên nhân phẩm, đạo đức ... Bên cạnh những tác động tích cực, KTTT còn có nhiều khuyết tật, gây ra những tác động xấu. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ làm sôi động thị trường, nhưng cũng làm sói mòn nhân cách và phẩm chất con người. Ngoài ra đi kèm với nền kinh tế thị trường là hàng loạt các tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè, ma tuý, buôn lậu, hối lộ, tham nhũng... đó là những vấn đề nổi cộm nhất trong nền KTTT mà không rễ ràng khắc phục. Những phân tích trên đây cho thấy, KTTT là mục tiêu con người XHCN, là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây thực chất là hai mặt đối lập của mâu thuẫn xã hội. Giữa KTTT và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. KTTT vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng và phát huy con người, vừa tạo ra những độc tố để huỷ hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn này là một việc không hề đơn giản. Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa KTTT và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định “ sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây XHCN và cả khi CNXH được xây dựng” . Như vậy Đảng vạch rõ sự thống nhất giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người của CNXH. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ phát huy được những tác động tích cực to lớn, cũng như ngăn ngừa hạn chế khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của nền KTTT. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá, giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động góp phần giải quyết những mâu thuẫn nêu trên. 4. Thực trạng và những mâu thuẫn nảy sinh giữa các thành phần kinh tế ở nước ta a) Thực trạng các thành phần kinh tế của nứơc ta hiện nay. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng, một mặt tạo điều kiện cho QHSX phát triển, giải phóng sức sản xuất, tạo công ăn việc làm cho nhân dân, mặt khác, nó tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy quá trình công ngiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sau đây là năm thành phần kinh tế cơ bản mà Nhà nước chủ trương phát triển: Kinh tế tư bản Nhà nước: Hiện nay việc nhận thức thành phần kinh tế còn rất hạn hẹp và rất đơn giản, mặc dù nó chiếm một vị trí rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế của nước ta. Thành phần kinh tế này rất phát triển, nó bao gồm các loại hình doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp. Sau đổi mới cơ cấu thành phần kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, đã có một số chuyển biến bước đầu, một số xí nghiệp đã vượt qua được khó khăn tạo nên thế ổn định, bắt đầu phục hồi và đi lên. Song những nhân tố đó chưa nhiều và những chuyển biến đó chưa có cơ sở vững chắc và lâu dài. Kinh tế tập thể: dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Đây là thành phần kinh tế tuy trình độ xã hội hoá tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất còn thấp hơn kinh tế quốc dân, nhưng sản xuất với lượng hàng hoá cung ứngcho sản xuất và tiêu dùng đời sống xã hội. Trước biến động có tính bước ngoặt của nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, kinhtế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học cônng nghệ, nắm bắt thông tin mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến khích việc tích luỹ, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong hợp tác xã. Tiếp tục đổi mới và kiệ toàn kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng phát huy và kết hợp hài hoà sức mạnh của tập thể và của xã viên. Phát triển các hình thức hợp tác, đa dạng và mở rộng các hình thức kinh tế tập thể nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, mua bán, tín dụng ở những nơi cần thiết và có điều kiện. Thành phần kinh tế tư nhân: Trên thực tế thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta bao gồm: các xí nghiệp tư nhân, hộ tư nhân và cá thể, tuy nhiên việc phân loại này chưa có sự thống nhất. Mặc dù thành phần kinh tế này mới được hồi sinh và mở rộng, nhưng cho đến nay đã thực sự phát triển mạnh. Đặc biệt Nhà nước lại tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cả về chính sách và pháp lý. Các doanh nghiệp có thể liên doanh, liên kết với nhau, kể cả đầu tư ra nước ngoài, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động... Kinh tế cá thể, tiểu thủ: thành phần kinh tế này có thể kinh doanh như các tác nhân kinh tế độc lập, nhưng cũng có thể là các vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Ơ đây chúng ta cũng thấy chính sách kinh tế cũng đan xen với nhau, về bản chất là kinh tế cá thể, tiểu chủ, nhưng biểu hiện ra là các cơ sở gia công cho doanh nghiệp hoặc hợp tác xã. Kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển trong các ngành cả ở thành thị lẫn nông thôn, không bị hạn chế mở rộng kinh doanh, có thể tồn tại độc lập, tham gia các loại hình hợp tác xã, liên kết với các doanh nghiệp lớn bằng nhiều hình thức. Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu cá nhân về tư liệu sản xuất và lao động trực tiếp của bản thân người lao động. Kinh tế cá thể có đặc điểm kỹ thuật thủ công, năng suất lao động thấp, sản xuất nhỏ phân tách, nhưng khi có chính sách kinh tế đúng, kinh tế cá thể có khả năng đóng góp nhiều cho lợi ích xã hội như : tiền vốn, sức lao động, kinh nghiệm truyền thống. Tuy nhiên Nhà nước cũng cần có những biện pháp quản lý thị trường chặt chẽ để hạn chế khắc phục tính tự phát của nó. Kinh tế quốc doanh: dựa trên sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, theo số liệu thống kê năm 1989, cả nước có 12080 xí nghiệp quốc doanh với vốn tương ứng là 10 tỉ đồng USD. Trong đó công nghiệp chiếm 49,3% tổng số vốn, xây dựng chiếm 9% tổng số vốn, nông nghiệp chiếm 8,1% tổng số vốn, lâm nghiệp chiếm 1,2% tổng số vốn, thương nghiệp chiếm 11,6%, các nghành khác chiếm 5,93% tông số vốn. Hàng năm thành phần kinh tế này tạo ra khoảng 35 – 40% GDP và từ 22 – 30% thu nhập quốc dân, đóng góp vào ngân sách từ 60 – 80% số thu của ngân sách Nhà nước. Thành phần kinh tế này nắm giữ toàn bộ công nghiệp nặng, hàng tiêu dùng chiếm tỉ trọng phần lớn những sản phẩm chủ yếu. Trong tất cả các thành phần kinh tế, thì thành phần kinh tế này đống vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Tuy đã đạt được một số thành tích, song khu vực kinh tế này chưa đảm bảo được tái sản xuất giản đơn. Hiện nay, sau đổi mới cơ cấu thành phần kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, tuy đã bước đầu có sự chuyển biến nhưng sự chuyển biến đó chưa có cơ sở vững chắc và lâu dài. Ngoài các thành phần kinh tế nói trên, trong đại hội Đảng lần thứ IX, còn chủ trương phát triển thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phần kinh tế bao gồm phần vốn đầu tư của nước ngoài vào các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10512.doc
Tài liệu liên quan