Đề tài Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng và ý nghĩa của việc phân loại này

MỤC LỤC

Tiêu đề Trang

A . PHẦN MỞ ĐẦU 1

B . PHẦN NỘI DUNG. 2

I . CƠ SỞ PHÁP LÍ 2

II . PHẦN NỘI DUNG. 3

II.1. Một số nét khái quát về Pháp luật điều chỉnh

hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng. 3

II. 2. Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng 5

II.2.1 .Phân loại cho vay của TCTD dựa vào thời hạn

sử dụng vốn vay . 5

II.2.1.1 . Cho vay ngắn hạn. 5

II.2.1.2. Cho vay trung hạn. 7

II.2.1.3. Cho vay dài hạn. 8

II.2.2. Phân loại cho vay của TCTD dựa vào tính chất có

bảo đảm của khoản vay (hay là mức độ tín nhiệm của khách hàng). 9

II.2.2.1. Cho vay có bảo đảm bằng tài sản 9

II.2.2.2. Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản 11

II.2.3. Phân loại cho vay dựa vào mục đích sử dụng vốn vay 12

II.2.3.1. Cho vay để kinh doanh 13

II.2.3.2. Cho vay tiêu dùng. 13

II.2.4. Phân loại cho vay dựa vào phương thức vay 13

II.2.4.1. Cho vay từng lần 13

II.2.4.2. Cho vay theo hạn mức tín dụng 13

II.2.4.3. Cho vay theo dự án đầu tư 15

II.2.4.4. Cho vay hợp vốn 15

II.2.4.5. Cho vay trả góp 15

II.2.4.6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng 16

II.2.4.7. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành

và sử dụng thẻ tín dụng 16

II.2.4.8. Cho vay theo hạn mức thấu chi 17

II.3. Ý nghĩa của vấn đề phân loại cho vay của

các tổ chức tín dụng 17

C. PHẦN KẾT LUẬN. 19

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5601 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng và ý nghĩa của việc phân loại này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cố cho bên thứ ba chông giữ. + Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Tài sản hình thành từ vốn vay là tài sản của khách hàng vay mà giá trị tài sản được tạo ra bởi một phần hoặc toàn bộ khoản cho vay của TCTD. Đây là hình thức mà khách hàng vay dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho chính khoản vay đó đối với TCTD. Đối với biện pháp cho vay bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay thì chỉ được áp dụng trong các trường hợp sau. Thứ nhất, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định giao cho ngân hàng cho vay đối với khách hàng và đối tượng vay. Thứ hai, Ngân hàng cho vay trung hạn và dài hạn với các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đời sống nếu khách hàng vay và tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng được các điều kiện khách hàng vay có tín nhiệm, có khả năng tài chính để trả nợ,có dự án đầu tư khả thi, có mức vốn tự có tham gia vào dự án và giá trị tài sản bảo đảm tiền vay tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư. + Cho vay bằng hình thức bảo lãnh. Bảo lãnh là việc bên thứ ba cam kết với bên cho vay (Người nhận bảo lãnh),sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay (Người được bảo lãnh) nếu khi đến hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Bảo lãnh có thể chia thành hai loại chính. Thứ nhất, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba là việc bên thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay về việc sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên đi vay, nếu đến hạn trả nợ mà bên đi vay không thực hiện hoặc không thể thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ. Thứ hai,bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội là biện pháp đảm bảo tiền vay trong trường hợp cho vay khôn có bảo đảm bằng tài sản, theo đó tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội tại cơ sở bằng uy tín của mình bảo lãnh cho bên đi vay. II.2.2.2. Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Đây là hình thức cho vay mà trong đó nghĩa vụ hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản thuộc quyền sở hữu của khách hàng vay hoặc của người thứ ba. Để thực hiện cho vay theo hình thức này thì thong thường các bên chỉ cần giao kết một hợp đồng duy nhất là hợp đồng tín dụng. Tuy nhiên, trong trường hợp TCTD cho vay có bảm lãnh bằng tín chấp thì mặc dù khoản vay này không thể xem là khoản vay có bảo đảm bằng tài sản nhưng người bảo lãnh bằng tín chấp vẫn phải xác lập văn bản cam kết bảo lãnh bằng uy tín của mình và gửi cho TCTD để khách hàng vay có thể được tổ chức tín dụng chấp nhận cho vay. Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản nhìn chung là hình thức cho vay tương đối mạo hiểm của tổ chức tín dụng nên cần tuân thủ các điều kiện về vay vốn như sau: + Thứ nhất, luật pháp các nước đều quy định rằng tổ chức tín dụng chỉ được cho vay đối với những khách hàng có đủ năng lực chủ thể, nghĩa là có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi. + Thứ hai, uy tín của người vay cũng là một điều kiện để vay vốn và là điều kiện quan trọng nhất đối với một chủ thể là bên vay trong quan hệ tín dụng không có bảo đảm. + Thứ ba, để có thể vay vốn của tổ chức tín dụng theo chế độ cho vay không có bảo đảm người vay phải có tình hình tài chính lành mạnh Trong thực tiễn, để kiểm tra mức độ thỏa mãn tất cả các điều kiện pháp lý trên đây đối với một khách hàng tổ chức tín dụng phải tiến hành thẩm định thông qua hoạt động phân tích và điều tra tín dụng đối với khách hàng của mình. II.2.3. Phân loại cho vay dựa vào mục đích sử dụng vốn vay. Căn cứ vào tiêu chí này, hoạt động cho vay của TCTD đối với khách hàng được chia thành hai loại. II.2.3.1. Cho vay để kinh doanh. Đây là hình thức cho vay mà trong đó các bên đã có cam kết là số tiền vay sẽ được bên vay sử dụng vào mục đích sử dụng thực hiện các công việc kinh doanh của mình. Nếu sau khi đã được TCTD giải ngân mà người vay lại sử dụng vốn vào mục đích khác với thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng ,thì bên cho vay có quyền áp dụng các chế tài thích hợp : Đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc thu hồi vốn vay trước thời hạn… II.2.3.2. Cho vay tiêu dùng. thực chất là việc cho vay mà trong đó các bên có thỏa thuận, cam kết với nhau về vấn đề số tiền vay sẽ được khách hàng  (bên đi vay) sử dụng vào việc thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hàng ngày và tiêu dùng: Mua sắm đồ gia dụng, mua sắm nhà của hoặc phương tiện đi lại… II.2.4.  Phân loại cho vay dựa vào phương thức vay. Trên cơ sở nhu cầu sử dụng của từng khoản vay của khách hàng và khả năng kiểm tra, giám sát của Ngân hàng, NHNo nơi cho vay thỏa thuận với khách hàng vay về việc lựa chọn các phương thức cho vay sau đây: II.2.4.1. Cho vay từng lần: Phương thức cho vay từng lần áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vay vốn từng lần. Mỗi lần vay vốn, khách hàng và NHNo nơi cho vay lập thủ tục vay vốn theo quy định và ký hợp đồng tín dụng. II.2.4.2. Cho vay theo hạn mức tín dụng: a) Phương thức cho vay này áp dụng với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay vốn thường xuyên, kinh doanh ổn định. b) Xác định hạn mức tín dụng: - NHNo nơi cho vay sau khi nhận đủ các tài liệu của khách hàng tiến hành xác định hạn mức tín dụng. - Đối với khách hàng sản xuất, kinh doanh tổng hợp thì phương án sản xuất, kinh doanh của khách hàng là tổng hợp phương án sản xuất, kinh doanh của từng đối tượng, theo đó NHNo nơi cho vay xác định hạn mức tín dụng cho cả phương án sản xuất, kinh doanh tổng hợp. c) Phát tiền vay: trong phạm vi hạn mức tín dụng, thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng, mỗi lần rút vốn vay khách hàng và NHNo nơi cho vay lập giấy nhận nợ kèm theo các chứng từ phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. d) Lãi suất cho vay: Căn cứ vào quy định của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam , NHNo nơi cho vay ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc giấy nhận nợ kèm theo hợp đồng tín dụng. e) Quản lý hạn mức tín dụng: - NHNo nơi cho vay phải quản lý chặt chẽ hạn mức tín dụng, bảo đảm mức dư nợ không vượt quá hạn mức tín dụng đã ký kết. - Trong quá trình vay vốn, trả nợ, nếu việc sản xuất, kinh doanh có thay đổi và khách hàng có nhu cầu điều chỉnh hạn mức, khách hàng phải làm giấy đề nghị xác định lại hạn mức tín dụng; NHNo nơi cho vay xem xét, nếu thấy hợp lý thì cùng khách hàng thỏa thuận điều chính hạn mức tín dụng và bổ sung hợp đồng tín dụng. - Ký kết hạn mức tín dụng mới: Trước 10 ngày khi hạn mức tín dụng cũ hết hiệu lực khách hàng gửi cho NHNo nơi cho vay phương án sản xuất, kinh doanh kỳ tiếp theo. Căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, NHNo nơi cho vay thẩm định để xác định hạn mức tín dụng và thời hạn của hạn mức tín dụng mới. g) Xác định thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay được xác định trên hợp đồng tín dụng hoặc trên từng giấy nhận nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng, nguồn vốn của NHNo nhưng tối đa không quá 12 tháng; nếu khách hàng kinh doanh tổng hợp thì lựa chọn sản phẩm có chu kỳ kinh doanh dài nhất hoặc chiếm tỷ trọng chủ yếu để xác định thời hạn cho vay. Thời hạn cho vay trên từng giấy nhận nợ có thể không phù hợp với thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng. II.2.4.3. Cho vay theo dự án đầu tư: a) NHNo cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. b) NHNo nơi cho vay cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thỏa thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ. c) Ngân hàng thực hiện giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án. d) Mỗi lần rút vốn vay, khách hàng lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi mức vốn đầu tư đã thỏa thuận; kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng. e) Trường hợp khách hàng đã dùng nguồn vốn huy động tạm thời khác để chi phí cho dự án được duyệt trong thời gian chưa vay được vốn ngân hàng, thì NHNo nơi cho vay có thể xem xét cho vay bù đắp nguồn vốn đó. II.2.4.4. Cho vay hợp vốn: Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy chế đồng tài trợ của tổ chức tín dụng do Thống đốc NHNN ban hành, văn bản hướng dẫn của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam và các thỏa thuận giữa các tổ chức tham gia đồng tài trợ. II.2.4.5. Cho vay trả góp: NHNo nơi cho vay và khách hàng xác định và thỏa thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay. II.2.4.6. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: a) Căn cứ nhu cầu vay của khách hàng, NHNo nơi cho vay và khách hàng thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng: hạn mức tín dụng dự phòng, thời hạn hiệu lực của hạn mức dự phòng; NHNo nơi cho vay cam kết đáp ứng nguồn vốn cho khách hàng bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ; trong thời gian hiệu lực của hợp đồng, nếu khách hàng không sử dụng hoặc sử dụng không hết hạn mức tín dụng dự phòng, khách hàng vẫn phải trả phí cam kết tính cho hạn mức tín dụng dự phòng đó. Mức phí cam kết phải được thỏa thuận giữa khách hàng và NHNo nơi cho vay. Khi khoản vay theo cam kết được thực hiện, NHNo nơi cho vay và khách hàng thực hiện quy trình, thủ tục, hồ sơ theo các điều khoản trong Quy định này. b) Chi nhánh có nhu cầu mở hạn mức tín dụng dự phòng phải trình Tổng giám đốc NHNo Việt Nam xem xét quyết định. II.2.4.7. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: a) NHNo nơi cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của NHNo. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, NHNo nơi cho vay và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và NHNN Việt Nam và hướng dẫn của NHNo Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. b) Phương thức cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng thực hiện theo hướng dẫn của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam . II.2.4.8. Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà NHNo Việt Nam thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và NHNN Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Phương thức cho vay theo hạn mức thấu chi thực hiện theo hướng dẫn của Tổng giám đốc NHNo Việt Nam .  Ngoài ra, hiện nay theo các nguồn tài liệu về tài chính ngân hàng thì hoạt động cho vay của TCTD còn được phân loại rất đa dạng, chẳng hạn như căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay thì được chia thành các loại là cho vay  trả nợ một lần khi đáo hạn; cho vay trả góp và cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể mà tùy theo khả năng tài chính của mình người đi vay có thể trả nợ bất cứ lúc nào. Hay căn cứ vào xuất xứ tín dụng thì có cho vay trực tiếp (TCTD cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu và họ trực tiếp tả nợ vay tín dụng); cho vay gián tiếp ( khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước, chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán : chiết khấu thương phiếu, mua các phiếu bán hàng tiêu dùng… ). II.3.   Ý nghĩa của vấn đề phân loại cho vay của  các tổ chức tín dụng. Từ quá trình tìm hiểu và phân tích về các loại hình cho vay trong hoạt động cho vay tín dụng của TCTD. Ta có thể thấy việc việc phân loại theo các tiêu chí trên có những ý nghĩa nhất định. Như ta đã biết, việc phân loại cho vay của TCTD không những có ý nghĩa quan trọng về quá trình nghiên cứu lí luận mà nó còn có ý nghĩa sâu sắc trong việc vận hành trong thực tiễn. Biểu hiện : Căn cứ vào kết quả của việc phân loại cho vay của TCTD mà các nhà làm luật Việt Nam có thể xây dựng thành những quy chế cho vay phù hợp với hoạt động thực tiễn về nghiệp vụ tài chính của TCTD. Bên cạnh đó, cũng dựa trên kết quả của quá trình phân loại cho vay trong hoạt động tín dụng của TCTD cũng đã tạo điều kiện giúp cho mỗi TCTD có thể tự xây dựng, hoach định cho mình những chiến lược, chính sách kinh doanh mang tầm vĩ mô, có tính khả thi cao và hiệu quả. Đặc biệt, vấn đề phân loại cho vay của TCTD còn giúp các TCTD có nền cơ sở lí luận để từ đó xây dựng thành các quy tắc kĩ thuật nghiệp vụ tương thích với từng loại nghiệp vụ cho vay nhằm phục vụ cho việc  triển khai các hoạt động của mình trong thực tiễn. Xét trên bình diện từng căn cứ phân loại cho vay trong hoạt động cho vay của TCTD, ta cũng nhận thấy rõ được ý nghĩa của từng cách phân loại này. Với mỗi hình thức cho vay trong thực tế luôn có những điểm tích cực cũng như những điểm bất hợp lý gây trở ngai nhiều cho chính các tổ chức tín dụng cũng như người đi vay. Từ sự phân tách rõ ràng các hình thức cho vay này các nhà quản lý kinh tế vĩ mô có thể đưa ra các quy định cụ thể điều chỉnh hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay nói riêng. Đặc biệt, căn cứ vào các hình thức cho vay trên của TCTD mà tạo nền tảng để hình thành nên 1 hệ thống chỉnh thể thống nhất về hoạt động cho vay của TCTD, đồng thời từ đó mà các TCTD có thể xây dựng được chiến lược kinh doanh vi mô và vĩ mô, cũng những ưu đãi riêng của tổ chức mình nhằm thu hút đông đảo khách hàng, đảm bảo được lợi nhuận. Như vậy dù nhìn dưới góc độ thực tiễn hay lập pháp thì sự phân loại này đều mang những ý nghĩa không thể phủ nhận đối với thị trường vốn nói riêng và thị trường tài chính nói chung. C.   PHẦN KẾT LUẬN. Trong giai đoạn hiện nay khi Việt Nam đang dần hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới kéo theo sự bùng nổ mạnh mẽ của các dịch vụ tài chính nói chung và hoạt động cấp tín dụng nói riêng thì sự phân loại cho vay của các tổ chức tín dụng trên đây chỉ mang tính chất tương đối. Nền kinh tế đang phát triển với nhịp độ mạnh mẽ, cùng với sự phát triển không ngừng của các kênh huy động vốn. Nhưng hoạt động cấp vốn truyền thống là cho vay của các tổ chức tín dụng với nhiều hình thức đa dạng vẫn chiếm tỷ trọng lớn và là kênh huy động vốn hiệu quả đối với các doanh nghiệp. Kinh tế thế giới luôn luôn biến động tiềm ẩn không ít rủi ro, ảnh hưởng nhiều đến Việt Nam nên để đảm bảo cho tính thanh khoản của các tổ chức tín dụng trong nước trong quá trình cho vay thì việc đa dạng hóa và xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho các hình thức cho vay là vô cùng cần thiết. BÀI LÀM A.   PHẦN MỞ ĐẦU Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường, yếu tố về Tài chính – Tiền tệ đang đóng vai trò vô cùng quan trọng, vì thế mà sự vận hành và hoạt động của hệ thống Tổ chức tín dụng (TCTD) sẽ góp phần thúc đẩy quá trình phát triển mạnh mẽ nền tài chính của quốc gia nói riêng cũng như phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước nói chung. Vào những thập niên gần đây, chúng ta có thể nhận thấy nền kinh tế của Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh,có tốc độ phát triển kinh tế cao và khá ổn định, vì thế mà nhu cầu nguồn vốn phục vụ cho phát triển đất nước là rất lơn. Nhưng với thời điểm hiện nay, khi mà vốn đầu tư nước ngoài  vào Việt Nam đang còn ở những con số khiêm tốn, trong khi kênh huy động vốn ở trong nước lại chưa thực sự phát huy hết hiệu quả, Thị trường chứng khoán thì đang còn trong giai đoạn chứng nước, còn rất non trẻ nên chưa thể trở thành kênh huy động vốn tối ưu nhất của các doanh nghiệp. Ngoài ra, năng lực tài chính của các doanh nghiệp trong nước cũng rất hạn chế, và phần lớn các hoạt động sản xuất, kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay từ các TCTD. Vì thế, ta có thể khẳng định rằng ở nước ta hiện nay, Tín dụng ngân hàng là kênh huy động nhanh nhất, hiệu quả nhất. Các TCTD càng đa dạng hóa các hình thức cho vay bao nhiêu thì càng tạo ra các điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử dụng có thể dễ dàng tìm được cho mình một hình thức phù hợp với khả năng kinh doanh của mình. Qua đó, ta rất dễ nhận thấy mỗi hình thức cho vay trong hoạt động tín dụng của TCTD đều chứa đựng trong mình những ý nghĩa cơ bản, không chỉ riêng đối với từng doanh nghiệp mà còn tạo ra nền tảng để ổn định nền tài chính quốc gia, và đông thòi thiết lập được một hệ thống pháp luật về Tài chính – Tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.  Từ quá trình nghiên cứu lí luận và tìm hiểu thực tiễn về hoạt động cho vay của TCTD. Tôi_ là 1 sinh viên năm thứ 4 của trường Đại học Luật Hà Nội, đang được các thầy cô hướng dẫn nghiên cứu về môn Luật ngân hầng Việt Nam. Vì thế, Tôi xin chọn đề tài số 3 “Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng và ý nghĩa của việc phân loại này ” để làm bài nghiên cứu khoa học của mình. Trong quá trình hoàn thành bài nghiên cứu này, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân trọng nhất đến các thầy cô giáo bộ môn Luật ngân hàng_ Khoa Pháp Luật Kinh tế_Trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ tôi rất nhiều, tạo điều kiện để tôi hoàn thành đề tài của mình theo đúng thời gian quy định. B.   PHẦN NỘI DUNG. I.      CƠ SỞ PHÁP LÍ. Trong bài nghiên cứu khoa học này, tôi đã viện dẫn và sử dụng những văn bản pháp luật về Tài chính_ Ngân hàng sau làm căn cứ pháp lí cho những nhận định của mình ·        Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 1997 ·        Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH 11 năm 2003. ·        Luật Ngân hàng Nhà nước sửa đổi năm 2010. ·        Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 ·        Luật sửa, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004 ·        Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2010. ·        Quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. ·        Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 127/2005/QĐ – NHNN ngày 3/2/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định  số 1267/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 ·        Quyết định số 738/2005/QĐ – NHNN ngày 31/5/2005 về việc sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 1 của Quyết định số 127/2005/QĐ – NHNN ngày 3/2/2005. II.    PHẦN NỘI DUNG. II.1.  Một số nét khái quát về Pháp luật điều chỉnh hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì Tổ chức tín dụng (TCTD) được định nghĩa như sau : “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.”( khoản 1 Điều 20 luật các tổ chức tín dụng năm 1997 sửa đổi bổ sung năm 2004). TCTD ra đời đã đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường đó là quá trình nhận tiền gửi từ nơi thừa vốn và sử dụng nó để cung ứng tài chính cho nơi thiếu vốn, điều này cũng được quy định khá cụ thể trong luật : TCTD sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng “là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác” Căn cứ vào khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2004 ( Luật các TCTD năm 2004) thì “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”. Hoạt động cho vay cúa TCTD theo quy định của pháp luật gồm những yếu tố cấu thành sau:           Thứ nhất, về chủ thể: hoạt động cho vay bao giờ cũng gồm hai bên tham gia là bên đi vay và bên cho vay. Trong đó , bên cho vay là người có tài sản chưa dùng đến và muốn cho người khác sử dụng để thỏa mãn một số lợi ích của mình. Bên đi vay chính là những người đang cần sử dụng loại tài sản đó để thỏa mãn nhu cầu về kinh doanh, tiêu dùng…           Thứ hai , hình thức pháp lí của hoạt động cho vay chính là hợp đồng tín dụng tài sản. Hợp đồng này được các bên xác lập và thực hiện trên nguyên tắc tự do và thống nhất về ý chí, nguyên tắc tự định đoạt…           Thứ ba, sự kiện cho vay được phát sinh bởi hai hành vi căn bản: Hành vi ứng trước và hành vi hoàn trả một số tiền nhất định là các vật cùng loại. Hành vi ứng trước tài sản do người cho vay thực hiện còn hành vi hoàn trả được thực hiện bởi người vay sau đó một khoảng thời gian theo sự thỏa thuận của hai bên.           Thứ tư, việc cho vay bao giờ cũng dựa trên sự tín nhiệm giữa người cho vay đối với người đi vay về khả năng hoàn trả tiền vay .           Bên cạnh những dấu hiệu chung về quan hệ cho vay thì hoạt động cho vay tín dụng của tổ chức tín dụng còn thể hiện những đặc điểm riêng có, đặc thù của mình, đó là: Việc cho vay của TCTD là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh thường xuyên, mang tính chức năng. Không những thế, nó còn là hoạt động kinh doanh có điều kiện, thể hiện: TCTD phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định như phải có vốn pháp định,phải được NHNN cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc ĐKKD theo quy định của pháp luật. Và ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung của pháp luật về hợp đồng, hoạt động cho vay của TCTD còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về ngân hàng, thậm chí kể cả các tập quán thương mại về ngân hàng. II. 2.    Phân loại cho vay của Tổ chức tín dụng .           Như ta đã biết , vấn đề phân loại cho vay của TCTD cần phải căn cứ vào nhiều tiêu chí cơ bản khác nhau, và mỗi cách phân loại đó lại đem đến những ý nghĩa và mục đích nhất định.           Sau đây, Tôi xin viện dẫn ra một sô tiêu chí phân loại cho vay của tổ chức tín dụng để làm sáng tỏ yêu cầu của bài nghiên cứu khoa học này. II.2.1 .  Phân loại cho vay của TCTD dựa vào thời hạn sử dụng vốn vay . Căn cứ vào tiêu chí này, hoạt động cho vay của TCTD có thể phân thành các loại: II.2.1.1 . Cho vay ngắn hạn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Quyết định số 1627/2001/QĐ – NHNN ngày 31/12/2001 ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì “Cho vay ngắn hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng”. Như vậy, ta có thể thấy đây là loại hình cho vay có thời gian dưới 1 năm, vì thế mà mục đích của loại hình cho vay này thường là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động kinh doanh hoặc thỏa mãn các nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong thời gian ngắn, cụ thể ở đây là 12 tháng. ·        Các loại cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp của TCTD. + Cho vay mua hàng dự trữ: Là loại cho vay để tài trợ mua hàng tồn kho như nguyên liệu,bán thành phẩm, giá thành. Đây là loại hình cho vay ngắn hạn chủ yếu của TCTD là ngân hàng. Đặc điểm của loại hình cho vay này là việ ngân hàng sẽ xem xét cho vay từng lần theo từng đối tượng cụ thể, và kì hạn nợ của loại cho vay này cụ thể, bắt đầu từ lúc bỏ tiền mua hàng tồn kho và chấm dứt khi hàng tồn kho đã tiêu thụ và thu được tiền. Phương thức cho vay đối với dự trữ hàng tồn kho được áp dụng là phương thức cho vay ứng trước, thời hạn cho vay gắn liền với chu kì ngân quỹ của doanh nghiệp. + Cho vay vốn lưu động : Là loại cho vay nhằm đáp ứng toàn bộ nhu cầu dự trữ hàng tồn kho và đặc điểm gần giống với cho vay mua hàng giữ trữ. Tuy nhiên loại cho vay nhằm đáp ứng toàn bộ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt của doanh nghiệp ( nhu cầu vốn lưu động thời vụ cho khách hàng). Đặc điểm của loại hình cho vay này thể hiện ổ chỗ: Đối tượng cho vay là toàn bộ nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt,hạn mức tín dụng là cơ sở để ngân hàng cho vay và giải ngân. Và không có kỳ hạn cụ thể cho từng lần giải ngân mà chỉ có thời hạn cho vay cuối cùng và các điều kiện sử dụng vốn vay. Chi phí của món vay gồm có chi phí trả lãi và chi phí ngoài lãi như phí cam kết sử dụng hạn mức. Thời hạn cho vay tùy theo đặc điểm về chu kì sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của từng loại khách hàng,có thể là vài ngày đến 1 năm. + Cho vay dựa trên tài sản có: Là loại cho vay dựa trên cơ sở số dư của các khoản phải thu, tồn kho nguyên liệu, thành phẩm. Tài sản bảo đảm cho các khoản vay này là các tài sản được tài trợ. Đối với các khoản phái thu, hoạt động cho vay này được thực hiện thông qua nghiệp vụ triết khấu hoặc nghiệp vụ mua nợ. + Cho vay ngắn hạn các công trình xây dựng. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp, sau khi nhận được các công trình xây dựng cần phải ứng vốn mua nguyên liệu, thuê thiết bị… để thực hiện thực hiện thi công và khi công trình, hạn mục công trình hoàn thành thì mới được  chủ đầu tư thanh toán theo thỏa thuận ở hợp đồng nhận thầu, vì vậy, cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp xây lắp để đáp ứng nhu cầu vốn trong quá trình thi công có những điểm cần chú ý sau: Việc xem xét cho vay chủ yếu phải dựa vào từng hợp đồng nhận thầu; Đối tượng cho vay là tiền thuê nhân công, thiết bị…để thực hiện thi công theo hợp đồng nhận thầu; kỳ hạn nợ được xác định dựa vào kế hoạch thi công theo hợp đồng nhận thầu; nguồn thu nợ là tiền thanh toán của nhà đầu tư;Hợp đồng nhận thầu là cơ sở đảm bảo cho khoản tiền vay. Ngoài ra, hoạt động cho vay ngắn hạn của TCTD còn được áp dung đối với các loại vay để kinh doanh chứng khoán, vay để kinh doanh bán lẻ và cho vay đối với các định chế tài chính khác. + Cho vay chiết khấu giấy tờ có giá: là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn được thực hiện dưới hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu chứng từ cho tổ chức tín dụng để nhận một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi mức chiết khấu. Chứng từ có giá là những phương tiện ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân loại cho vay của Tổ chức tín dụng và ý nghĩa của việc phân loại này.doc
Tài liệu liên quan