Đề tài Phân tích thực trạng phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam

 Năm 2007 Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 8,5% cao hơn 0,3% so với năm 2006. Tổng GDP đạt 1.144.000 tỷ đồng, GDP bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng, tương đương 835 USD/đầu người. Nếu so sánh với các nước trong khu vực, theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á - ADB, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao thứ 2, sau Trung Quốc (11,2%), vượt qua cả Singapore (7,5%) và các nước khác. Ngoài ra, vốn đấu tư phát triển toàn xã hội tăng 22,4%, bội chi ngân sách Nhà nước bằng 5% GDP, Cơ cấu đóng góp của khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP cũng nâng từ mức 38,08% năm 2006, lên 38,14% trong năm 2007.

Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và xây dựng trong GDP cũng cải thiện hơn năm 2006, chiếm 41,61% (so với con số 41,52% năm 2006). Tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt 10,6%. Khu vực nông nghiệp gặp khó khăn do thiên tai và dịch bệnh, đạt tốc độ tăng trưởng 3,41. Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp trong GDP giảm từ mức 20,40% năm 2006 xuống 20,25% trong năm 2007.

 

doc25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1713 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích thực trạng phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phủ vì nó là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu quả điều hành đất nước của chính phủ. Nhưng tăng trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã hội cũng có thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể không tăng, môi trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, cạn kiệt, nguồn lực có thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí. 1.5. Vai trò của tăng trưởng kinh tế Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo những dấu hiệu chủ yếu như: ổn định, tăng trưởng, công bằng xã hội. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là cơ sở để thực hiện hàng loạt vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội. Tăng trưởng kinh tế thể hiện bằng sự tăng lên về số lượng, chất lượng hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất ra nó, do đó tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất để giảm bớt tình trạng đói nghèo. Tăng trưởng kinh tế nhanh là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với mọi quốc gia trên con đường vượt lên khắc phục sự lạc hậu, hướng tới giàu có, thịnh vượng. Tăng trưởng kinh tế làm cho mức thu nhập của dân cư tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện như: kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ em, giúp cho giáo dục, y tế, văn hoá. Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ tăng trưởng cao thì một trong những nguyên nhân quan trọng là đã sử dụng tốt hơn lực lượng lao động. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm. Mối quan hệ giữa tăng trưởng thực tế và tỷ lệ thất nghiệp ở nước phát triển đã được lượng hoá dưới tên gọi quy luật Okum1 (hay quy luật 2,5% - 1). Quy luật này xác định, nếu GNP thực tế tăng 2,5% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỷ lệ thất nghiệp giảm đi 1%. Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất để củng cố an ninh quốc phòng, củng cố chế độ chính trị, tăng uy tín và vai trò quản lý của nhà nước đối với xã hội. Đối với các nước chậm phát triển như nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết để khắc phục sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước đang phát triển. Chương 2: TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM 2.1. Thực trạng thu hút FDI 2.1.1. Theo ngành nghề 2.1.1.1. Công nghiệp và xây dựng Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO, Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút FDI. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án FDI thuộc các lĩnh vực như thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may... vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Bảng 2.1.1.1: Thực trạng thu hút FDI đối với công nghiệp và xây dựng giai đoạn 2006 – 2008. ĐVT :Triệu USD Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư Vốn thực hiện 06 07 08 06 07 08 06 07 08 CN dầu khí 38 48 39 2,158 3,862 14,478 1,081 5,148 4,659 CN nhẹ 2,542 2,740 2,973 10,485 13,269 15,680 3,702 3,639 6,885 CN nặng 2,404 2,602 4,550 15,660 23,977 47,164 4,734 7,049 14,132 CN thực phẩm 310 350 378 2,441 3,622 4,199 1,208 2,058 1,876 Xây dựng 451 563 413 5,272 5,301 8,731 4,517 2,146 2,112 Tổng 5,745 6,303 8,353 36,016 50,031 90,252 15,242 20,040 29,664 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư Năm 2006, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5,745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. Năm 2007, công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ chiếm tỉ trọng lớn lần lượt 2,740 triệu USD và 2,602 triệu USD trong tổng số 6,303 triệu USD của năm. Nhìn chung thực trạng thu hút FDI đối với công nghiệp và xây dựng tăng 558 triệu USD chiếm 55.8% so với năm 2006. Năm 2008, lĩnh vực công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ vẫn chiếm ưu thế hơn xây dựng, tỉ trọng lần lượt 54,47% và 35,59% trong khi đó xây dựng chỉ chiếm 4,95%. Tuy nhiên vẫn có xu hướng tăng đáng kể, công nghiệp nhẹ tăng 12,22% so với 2006 và tăng 11% so với 2007. Công nghiệp nặng tăng 13.19% so với 2007 tăng 12.63% so với 2006. à Tóm lại thực trạng thu hút FDI đối với công nghiệp và xây dựng giai đoạn 2006 – 2008 có xu hướng tăng tương đối nhanh. Vốn thực hiện luôn thấp hơn so với vốn đã đăng ký. 2.1.1.2. Dịch vụ Việt Nam có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Vì vậy khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ như bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản... tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút FDI, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ, FDI tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn FDI trong khu vực dịch vụ), du lịch-khách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%). Bảng 2.1.1.2 : Thực trạng thu hút FDI đối với dịch vụ ĐVT: triệu USD TT Chuyên ngành Số dự án Vốn đầu tư Đầu tư đã thực hiện 1 Giao thông vận tải-Bưu điện (bao gồm cả dịch vụ logicstics) 208 4.287 721 2 Du lịch - Khách sạn 223 5.883 2.401 3 Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê 153 9.262 1.892 4 Phát triển khu đô thị mới 9 3.477 283 5 Kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp– khu chế xuất 28 1.406 576 6 Tài chính – ngân hàng 66 897 714 7 Văn hoá - y tế – giáo dục 271 1.248 367 8 Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...) 954 2.145 445 Tổng cộng 1.912 28.609 7.399 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí. 2.1.1.3. Nông – Lâm - Ngư nghiệp Năm 2007, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm 7,4% so với năm 2006). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Rồi tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD, Các dự án FDI trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Bảng 2.1.1.3: Thực trạng thu hút FDI đối với Nông – Lâm - Ngư nghiệp ĐVT: USD STT Nông, lâm nghiệp Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện 1 Nông-Lâm nghiệp 803 4,014,833,499 1,856,710,521 2 Thủy sản 130 450,187,779 169,822,132 Tổng số 933 4,465,021,278 2,026,532,653 Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và đầu tư 2.1.2. Theo vùng - lãnh thổ FDI tập trung chủ yếu tại các vùng trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế - xã hội. Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% trong tổng vốn thực hiện của cả nước; Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện. Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Vùng trọng điểm miền Trung thu hút được 491 dự án với tổng vốn đăng ký 8,6 tỷ USD, chiếm 6% tổng vốn đăng ký của cả nước, Phú Yên (39 dự án với tổng vốn đăng ký 1,9 tỷ USD) đứng đầu các tỉnh miền Trung với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô có vốn đăng ký 1,7 tỷ USD. Tiến bộ trong thu hút vốn FDI, nhất là đầu tư vào xây dựng các khu du lịch, trung tâm nghỉ dưỡng, vui chơi đạt tiêu chuẩn quốc tế. 2.1.3. Theo hình thức đầu tư Năm 2007, các doanh nghiệp FDI thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. 2.2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế qua các năm Bảng 2.2.1: Một số chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế từ 2006 -2008 Chỉ tiêuC Các chỉ số đo lường tăng trưởng kinh tế 2006 2007 2008 Tăng trưởng GDP (%) 8,2 8,5 6,23 Chỉ số sản xuất công nghiệp (%) 17,0 17,1 16,8 Tỷ lệ thất nghiệp (% khu vực thành phố) 4,8 4,6 4,5 Chỉ số giá tiêu dùng (%) 7,5 12,6 12,6 Cán cân thương mại (tỷ USD) -5,1 -14,2 -16,0 Xuất khẩu (tỷ USD) 39,8 48,5 59,2 Nhập khẩu (tỷ USD) 44,9 62,7 75,2 Nợ nước ngoài (tỷ USD) 19,2 22,4 24,8 % tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP 31,5 31,6 30,5 Dự trữ, bao gồm vàng (tỷ USD) 11,5 21,6 22,1 Tăng trưởng tín dụng (%) 25,4 53,9 30,0 Lãi suất ngắn hạn (%-3 tháng) 7,9 8,9 9,0 Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam, World Bank và IMF Năm 2006 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,2%. Nền kinh tế cũng đạt được tiến bộ lớn như tổng số vốn đầu tư xã hội ước đạt 390,5 ngàn tỷ đồng bằng 40% GDP. Xuất khẩu đạt gần 40 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng cao khoảng 22%, thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt gần 9 tỷ USD. Tích cực trong hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước. . Việc tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2006 có tác động sâu rộng đối với sự phát triển kinh tế đất nước, nâng cao hình ảnh Việt Nam, khơi rộng các nguồn vốn đầu tư và mở thêm các các cơ hội kinh doanh thương mại. Năm 2007 Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 8,5% cao hơn 0,3% so với năm 2006. Tổng GDP đạt 1.144.000 tỷ đồng, GDP bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng, tương đương 835 USD/đầu người. Nếu so sánh với các nước trong khu vực, theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á - ADB, Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao thứ 2, sau Trung Quốc (11,2%), vượt qua cả Singapore (7,5%) và các nước khác. Ngoài ra, vốn đấu tư phát triển toàn xã hội tăng 22,4%, bội chi ngân sách Nhà nước bằng 5% GDP, Cơ cấu đóng góp của khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ trong GDP cũng nâng từ mức 38,08% năm 2006, lên 38,14% trong năm 2007. Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và xây dựng trong GDP cũng cải thiện hơn năm 2006, chiếm 41,61% (so với con số 41,52% năm 2006). Tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt 10,6%. Khu vực nông nghiệp gặp khó khăn do thiên tai và dịch bệnh, đạt tốc độ tăng trưởng 3,41. Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp trong GDP giảm từ mức 20,40% năm 2006 xuống 20,25% trong năm 2007. Đầu tư nước ngoài, là một lực đẩy giúp kinh tế tăng tốc. Khối lượng vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, bằng 40,4% tổng sản phẩm trong nước và tăng 15,8% so với năm 2006. Vốn đầu tư nước ngoài thu hút mới tính tới 22/12 đạt 17,86 tỷ USD. Nếu tính cả 2,47 tỷ USD vốn đăng ký bổ sung của các dự án đã cấp phép trong các năm trước thì tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006. Tốc độ tăng giá tiêu dùng sau những tháng đầu năm liên tục tăng nhưng các tháng cuối năm đã liên tục giảm. Tính bình quân giá tiêu dùng năm 2008 tăng 22,97% so với năm 2007. Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2008 tăng 26,3%; tổng chi ngân sách tăng 22,3%. Bội chi ngân sách chỉ bằng 97,5% mức bội chi dự toán năm đã được Quốc hội thông qua từ đầu năm. Thâm hụt trong cán cân thương mại đã được cải thiện vào cuối năm 2008. Kim ngach xuất khẩu đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Tổng nhập siêu của nền kinh tế năm 2008 chỉ còn 17,5 tỷ USD, chiếm 27,8% giá trị xuất khẩu. Cán cân thương mại ngày càng nghiêng về phía nhập siêu, khi kim ngạch nhập khẩu cả năm lên tới 60,8 tỷ USD. Nhập siêu hàng hóa đang chiếm tới 25,7% giá trị xuất khẩu và lớn gấp gần 2,5 lần mức nhập siêu của năm 2006. Năm 2008 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,23%, khu vực nông, lâm thủy sản tăng 3,79%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33% và khu vực dịch vu tăng 7,2%. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008 tuy thấp hơn 1,547% so với 2006 và 1,77% so với năm 2007 và chưa đạt mục tiêu kế hoạch tăng trưởng GDP đã được Quốc hội điều chỉnh 7% nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới khủng hoảng, kinh tế nhiều nước suy giảm mạnh thì mức 6,23% vẫn là một tốc độ tăng trưởng khá cao, đặc biệt kiềm chế lạm phát, cân đối vĩ mô, an sinh xã hội được bảo đảm là một thành tựu thể hiện sự nỗ lực, điều hành chỉ đạo quyết liệt của Đảng và Nhà nước. Nguyên nhân là do điều kiện kinh tế thế giới có những biến động phức tạp. Giá dầu thô và nhiều loại nguyên vật liệu hàng hóa trên thị trường thế giới tục tăng cao, sau đó giảm mạnh vào những tháng cuối năm. Khủng hoảng tài chính tại Hoa Kỳ đã nhanh chóng dẫn tới suy giảm kinh tế toàn cầu. Sản xuất công nghiệp tuy gặp nhiều khó khăn do giá cả đầu vào tăng nhanh rồi giảm nhưng giá trị sản xuất công nghiệp vẫn tăng trưởng 14,6%;trong đó khu vực kinh tế Nhà nước tăng 4%, khu vực ngoài Nhà nước tăng 18,8% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,6%. è Tóm lại ta vẫn rất lạc quan về tương lai kinh tế Việt Nam. Hội nhập WTO, cùng các chính sách mở cửa và nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, và ưu thế về nguồn nhân lực, Việt Nam đang là điểm đến đầy bất ngờ với các doanh nhân thế giới. Đáng chú ý, với quy mô dân số hơn 85 triệu người, sức tiêu thụ nội địa lớn cũng sẽ là nhân tố giúp kinh tế phát triển bền vững. 2.3. Tác động của FDI đối với tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam. 2.3.1. Tác động tích cực FDI là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế Đóng góp của FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội thay đổi lớn, năm 2006-2007 chiếm khoảng 16%. Vốn FDI đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Năm 2006 đạt 8,17% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,37%, dịch vụ tăng 8,29%. Năm 2007 đạt 8,48% (nông lâm ngư tăng 3,4%; công nghiệp xây dựng tăng 10,6%, dịch vụ tăng 8,6%). Biểu đồ 2.3: Tốc độ tăng trưởng GDP, xuất khẩu và tỷ trọng XK/GDP- % Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê các năm và ADB FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp FDI đóng một vai trò quan trọng cho sự tăng trưởng của nền kinh tế, trong đó từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia, góp phần phát triển các ngành công nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người lao động. ... Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn FDI cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn FDI trong ngành công nghiệp. FDI đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới. FDI đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ. Nhìn chung, trình độ công nghệ của khu vực FDI cao hơn hoặc bằng các thiết bị tiên tiến đã có trong nước và tương đương các nước trong khu vực. Hầu hết các doanh nghiệp có vốn FDI áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, được kết nối và chịu ảnh hưởng của hệ thống quản lý hiện đại của công ty mẹ. FDI đóng góp đáng kể vào ngân sách nhá nước và các cân đối vĩ mô Đóng góp của doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam vào ngân sách ngày càng tăng. Các doanh nghiệp có vốn FDI đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn FDI đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD. FDI tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu... FDI góp phần giúp Việt Nam hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế FDI chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc…Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. FDI góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực Khu vực có vốn FDI đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế dần thay thế các chuyên gia nước ngoài đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại. FDI góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới FDI đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Nhờ vào sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được đánh giá cao. Biểu đồ 2.3: Nguồn vốn FDI, ODA, kiều hối, FPI vào VN giai đoạn 1992-2007 Nguồn: Tổng cục Thống kê, IMF, WB 2.3.2. Tác động tiêu cực Nông – Lâm - Ngư nghiệp : Đầu tư vào lĩnh vực này rủi ro đầu tư cao, nên kết quả thu hút FDI vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn. Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ: Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án FDI nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tây Nguyên cũng ở trạng thái thu hút vốn FDI còn khiêm tốn như vùng Đông Bắc và Tây Bắc, chỉ có Lâm Đồng đứng đầu các tỉnh khu vực Tây Nguyên nhưng chỉ chiếm tỷ trọng 1% về số dự án. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn FDI còn thấp so với các vùng khác của cả nước.Tuy Nhà nước đã có chính sách ưu đãi đặc biệt cho những vùng có điều kiện địa lý-kinh tế khó khăn nhưng việc thu hút FDI phục vụ phát triển kinh tế tại các vùng này còn rất thấp. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được FDI nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án đầu tư nước ngoài, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài . Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được giải quyết kịp thời: Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, một số trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta. Khó khăn trong việc chuyển giao công nghệ đối với các nước tiếp nhận đầu tư, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. Chương 3: GIẢI PHÁP VỚI TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA FDI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 3.1. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế FDI 3.1.1. Nguyên nhân của những thành tựu Trước hết đó là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành. Nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng cao, thu nhập và mức sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện đã góp phần mở rộng dung lượng thị trường trong nước. Sự ổn định về chính trị - xã hội cùng với sự đảm bảo về an ninh đã làm cho nước ta được cộng đồng các nhà đầu tư quốc tế đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn. Hệ thống luật pháp chính sách về đầu tư nước ngoài đã tiếp tục được hoàn chỉnh hơn tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và thông thoáng hơn cho hoạt động đầu tư kinh doanh. Trong những năm qua Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu thầu, đồng thời tiếp tục chỉnh sửa nhiều chính sách liên quan đến đầu tư. Nhiều luật mới cũng đã được Quốc hội thông qua, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hơn, như Luật Chứng khoán, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ Luật Lao động liên quan đến đình công. Hoạt động xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực ở cả trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức đa dạng, nhằm vào các địa bàn trọng điểm, dự án quan trọng. Đặc biệt việc tổ chức các Hội thảo, diễn đàn đầu tư trong khuôn khổ các chuyến thăm các nước của Lãnh đạo Chính phủ ta đã thu hút mối quan tâm của hàng trăm tập đoàn, công ty lớn của nước ngoài. Cơ chế đối thoại giữa Chính phủ với các nhà đầu tư được tăng cường thông qua nhiều diễn đàn, nhất là Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam giữa kỳ đã tạo thêm lòng tin của các nhà đầu tư đối với Chính phủ, các Bộ ngành và chính quyền địa phương. Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân. Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích thực trạng phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán ở Việt Nam.doc