Đề tài Phân tích và bình luận chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước

 Chủ đề:

PHÂN TÍCH VÀ BÌNH LUẬN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ (CSTT) CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC (NHNN) VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY

 NỘI DUNG CHÍNH:

I. Tìm hiểu chung về chính sách tiền tệ

1. Khái niệm

2. Mối quan hệ giữa các mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ

3. Thực trạng chung

II. Tìm hiểu các công cụ của chính sách tiền tệ.

1. Nghiệp vụ thị trường mở

2. Chính sách tái chiết khấu

3. Dự trữ bắt buộc

4. Ấn định hạn mức tín dụng

5. Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại

III. Phân tích và bình luận việc thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) ở Việt Nam trong thời gian gần đây.

1. Trước năm 2008

a. Từ năm 1986-1999

b. Từ năm 2000-2007

2. Năm 2008 đến nay

2.1. Năm 2008

a. Tình hình kinh tế

b. Phân tích và bình luận việc thực thi CSTT

2.2. Năm 2009

a. Tình hình kinh tế

b. Phân tích và bình luận việc thực thi CSTT

2.3. Năm 2010

a. Tình hình kinh tế

b. Phân tích và bình luận việc thực thi CSTT

2.4. Đầu năm 2011

a. Tình hình kinh tế

b. Phân tích và bình luận việc thực thi CSTT

 

 

docx22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3907 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích và bình luận chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm 1992 trở đi tình hình mới lắng dịu và tạm ổn định cho đến năm 1995.  Như vậy, trong giai đoạn này lạm phát xảy ra ban đầu là do chi phí đẩy, sau đó là do tăng mức cung ứng tiền , năm 1987 lại là lạm phát chi phí đẩy, tiếp tục sau đó lạm phát cầu kéo xảy ra.  Chính sách về lãi suất:   Thực hiện chính sách lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa-tỉ lệ lạm phát ), tức là nâng lãi suất tiết kiệm lớn hơn tỉ lệ lạm phát nhằm thu hồi lượng tiền trong lưu thông về.  NHNN từng bước giảm dần lãi cho vay thông qua giảm dần lãi huy động từ 12% xuống 9% rồi 6%/năm; 1,4% xuống 0,9% rồi 0,85%/ tháng.  Lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu cũng được điều chỉnh tăng, giảm phù hợp mục tiêu điều tiết lượng vốn huy động và cho vay tín dụng hàng năm   Chính sách về tỉ giá hối đoái: Việc áp dụng tỉ giá hối đoái thực tế đã làm cho người dân không còn tích trữ hàng hóa, vàng, USD mà bắt đầu tích lũy bằng đồng nội tệ. b. Giai đoạn 2000 - 2007:  Chính sách về lãi suất:  Tháng 8/2000, cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng VND được chuyển từ cơ chế trần lãi suất sang lãi suất cơ bản  Năm 2001, lãi suất từng bước được điều hành theo hướng tự do hóa và phù hợp với mục tiêu CSTT.   Từ năm 2003, việc điều hành CSTT chuyển biến theo hướng nới lỏng một cách thận trọng. Lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh dần là lãi suất trần; lãi suất chiết khấu được điều chỉnh là lãi suất sàn của thị trường.  Từ tháng 1/2005- 8/ 2008, NHNN đã tăng lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm thắt chặt hơn tiền tệ, qua đó kiểm soát lạm phát đang có xu hướng gia tăng.  Chính sách về Dự trữ bắt buộc (DTBB) :  Tháng 5/2001 tăng tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ lên 15%, giảm tỷ lệ DTBB bằng VND xuống 3%; tháng 11/2001 giảm tỷ lệ DTBB bằng ngoại tệ xuống còn 10%.  Từ năm 2003, các TCTD được tính cả tiền gửi DTBB tại các chi nhánh NHNN, đây là bước khởi đầu cho việc thực hiện mục tiêu tăng cường khả năng điều tiết tiền tệ của công cụ này. Chính sách về tỷ giá:  Năm 2006 tỷ giá VND/USD lần đầu được điều hành thử nghiệm theo cơ chế tỷ giá thả nổi thận trọng, có quản lý, thực hiện can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường theo mục tiêu điều hành.  Tỷ giá VND/USD có xu hướng tăng nhẹ, nhưng nhìn chung được giữ tương đối ổn định trong thời gian dài. Đặc biệt, riêng năm 2006 tỷ giá VND/USD lần đầu được điều hành thử nghiệm theo cơ chế tỷ giá thả nổi thận trọng, có quản lý, thực hiện can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường theo mục tiêu điều hành. Chính sách về Nghiệp vụ thị trường mở:  Chính sách về nghiệp vụ thị trường mở (khai trương tháng 7/2000), đã góp phần điều chỉnh vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng.  Từ năm 2004, Nghiệp vụ thị trường mở được tăng cường sử dụng như một công cụ chủ yếu điều tiết tiền tệ, không chỉ khắc phục hiện tượng mất cân đối cung cầu ngoại tệ, mà còn tạo điều kiện cho NHNN tăng dự trữ ngoại hối.  Trong năm 2007, nghiệp vụ thị trường mở đã có những đổi mới như cố định phiên mua, thay đổi phương thức đấu thầu nhằm bám sát mục tiêu điều hành CSTT và diễn biến vốn bằng VND của các TCTD. 2. NĂM 2008 ĐẾN NAY  2.1 . NĂM 2008  a. Tình hình kinh tế:  Năm 2008 là năm mà tình hình kinh tế có nhiều biến động lớn. Ba tháng đầu năm nền kinh tế đang trên đà phát triển và chưa nhận ra được dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế. Sáu tháng tiếp theo, chúng ta bắt đầu nhận ra sự bất ổn trong nền kinh tế và có những biện pháp ngăn chặn. Ba tháng cuối năm là thời gian khủng hoảng kinh tế bộc lộ rõ và lan rộng. Giai đoạn này chúng ta tập trung vào "chữa bệnh".  Với tình hình chung là bất động sản trong vòng vài tháng đã tăng lên chóng mặt, tăng lên 2 đến 3 lần so với năm 2007 đã tạo thành những bong bóng BĐS đe dọa nhà đầu tư.  Thị trường chứng khoán biến động thất thường nhưng hiện có xu hướng đi xuống 30%.  Muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế phải có vốn đầu tư. Tuy nhiên dòng vốn chủ yếu để thúc đẩy đầu tư hiện nay là vốn tín dụng ngân hàng. Vô tình chúng ta vướng vào một vòng mang tên "tín dụng".  Với mục tiêu kiểm chế lạm phát, hỗ trợ thị trường chứng khoán, kiềm hãm sự tăng trưởng nóng của thị trường BĐS. NHNN đứng trước một bài toán khó trong công cuộc điều hành chính sách tiền tệ.  Tất cả khó khăn trên đặt lên vai trò chính sách tiền tệ của NHNN  b. Phân tích và bình luận:  Có thể nói rằng, năm 2008 là năm mà nền kinh tế trong nước có những biến động rất lớn. Năm 2008, thị trường ngân hàng trong nước đã trải qua những biến động chưa từng có về lãi suất, tỷ giá... Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, lúc thắt chặt, lúc nới lỏng. Việc thắt chặt tiền tệ đầu năm và nới lỏng dần cuối năm đã tạo nên tần suất điều chỉnh chính sách nhiều chưa từng có trong lịch sử.   Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, trong vòng 3 tuần đầu của tháng 2 năm 2008 NHTM đã thực hiện đồng thời 4 biện pháp thắt chặt tiền tệ của NHNN  1. Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% đồng thời mở rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc.  2. Phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc. Ba NHTM nhà nước lớn nhất, mỗi ngân hàng phải mua 3000 tỷ đồng  Các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với NHNN thì giờ NHNN nói rõ là không được vay tái cấp vốn  3. Từ tháng 2 năm 2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng hơn trước.  4. NHNN ban hành quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN ngày 1/2/2008 về sửa đổi chỉ thị về cho vay chứng khoán. Quyết định 03 còn thắt chặt về cho vay chứng khoán hơn Chỉ thị 03 trước đây.  Với 4 quyết định được coi là cứng rắn và kiên quyết nói trên trong điều hành CSTT của NHNN đã gây ra các tác động sốc và phản ứng tiêu cực tức thì của thị trường tiền tệ và của NHTM. Có thể nói đây là một cú phanh gấp trong quá trình tụt dốc của nền kinh tế nhằm ngăn chặn vật giá leo thang và lạm phát. Như vậy, trên đây là điều chỉnh mở rộng nghiệp vụ thị trường mở của NHNN nhằm thu hồi lượng tiền mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của các NHTM  Lãi suất:  Lãi suất biến động mạnh và liên tục tăng cao trong những tháng đầu năm và giải dần trong những tháng cuối năm:  Trong những tháng đầu năm 2008, đặc biệt là trong khoảng thời gian tháng 2/2008 đến tháng 5/2008, lãi suất huy động liên tục tăng cao trong cuộc chạy đua về lãi suất... Tuy nhiên, những tháng cuối năm, lãi suất thị trường có xu hướng giảm: Lãi suất huy động và cho vay bằng VND giảm 2,5%-3%/năm.  Diễn biến các mức lãi suất điều hành của NHNN 2007-2008  Đơn vị: %/năm  Năm  Lãi suất 2007 2008  Lần1:  á Lần2  á Lần3  á Lần 4  â Lần 5  â Lần 6   â - Lãi suất cơ bản 8,25 8,75 12 14 13 12 11  - Lãi suất tái cấp vốn 6,5 7,5 13 15 14 13 12  - Lãi suất tái chiết khấu 4,5 6,0 11 13 12 11 10  - Lãi suất cho vay tối đa 12 13 18 21 19,5 18 16,5  Tác động của việc thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt: việc thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ của NHTW thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, phát hành tín phiếu bắt buộc và công cụ lãi suất đã tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ và hoạt động kinh doanh của các NHTM, theo hướng làm giảm quy mô nguồn vốn; giảm khả năng cho vay. Quá trình này tác động làm tăng chi phí kinh doanh, tăng lãi suất cho vay của các NHTM và trực tiếp đến thanh khoản của các NHTM trong thời gian này.  Tỷ giá:   Tỷ giá trên thị trường diễn biến phức tạp và chia thành 4 giai đoạn:  • Giai đoạn đầu (3 tháng đầu năm từ 01/01/2008 - 25/03/2008): Tỷ giá liên tục giảm, dưới mức sàn.  Tỷ giá USD/VND trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960 đồng. mức thấp nhất là 15.560 đồng/USD). Trên thị trường tự do, USD dao động từ mức 15.700 - 16.000 đồng/USD.  Nguyên nhân là thời điểm này đang ở giai đoạn gần tết Dương lịch, do đó lượng kiều hối chuyển về nước khá lớn. Thứ hai, các nhà đầu tư dự kiến VND sẽ tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyển qua VND. Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính phủ Việt Nam (1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khẩu vay USD để phục vụ sản xuất kinh doanh...Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD.  Trong khoảng thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007) lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm hạn chế việc bơm tiền ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.  • Giai đoạn 2 (từ 26/03 - 16/07): Tăng với tốc độ chóng mặt tạo cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường tự do.  Trong giai đoạn này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến 19.400 đồng/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần. Tâm lý hoang mang cộng với động thái đầu cơ của giới buôn ngoại tệ trên thị trường tự do đẩy USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng.  Tỷ giá lên đỉnh ngày 18/06, sau đó giảm dần. Ngày 27/06, NHNN tăng biên độ USD/VND từ 1% lên 2%.  Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ yếu do tâm lý bất ổn của doanh nghiệp và người dân khi thấy USD tăng nhanh dẫn đến trạng thái găm ngoại tệ của giới đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản nợ của cả DN xuất và nhập khẩu đến hạn cao; Tăng nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế. Nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam bằng việc bán Trái phiếu chính phủ khi lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).  Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép cho vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp xuất khẩu (theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tế bán lại trên thị trường.  • Giai đoạn 3 (từ 17/07 - 15/10): Giảm mạnh và dần đi vào bình ổn.  Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD đã được chặn đứng, tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/USD và giao dịch bình ổn quanh mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 - tháng 11.  Nhận thấy tình trạng sốt USD đã ở mức báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm.  Đồng thời lúc này, NHNN đã ban hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ, cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng; bán ngoại tệ can thiệp thị trường thông qua các NHTM lớn.  • Giai đoạn 4 (từ 16/10 đến nay): tỷ giá USD tăng trở lại.  Tỷ giá USDVND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế, cầu ngoại tệ vẫn lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong ngày 7/11/2008, tăng tới mức 17.440 đồng/USD.  Nguyên nhân: Trong khoảng thời gian từ tháng 10 - tháng 11, nhà đầu tư nước ngoài đẩy mạnh việc bán ra chứng khoán trong đó bán trái phiếu (700 triệu USD), cổ phiếu (100 triệu USD). Nhu cầu mua ngoại tệ của khối nhà đầu tư nước ngoài tăng cao khi muốn đảm bảo thanh khoản của tổ chức tại chính quốc. Nhu cầu mua USD của các ngân hàng nước ngoài cũng tăng mạnh (khoảng 40 triệu USD/ngày).  Cầu USD trên thị trường tự do tăng cao bởi khi NHNN không cho phép nhập vàng thì hiện tượng nhập lậu vàng gia tăng, làm tăng cầu USD để nhập khẩu (do USD là đồng tiền thanh toán chính).  NHNN bán hơn 1 tỷ USD cho các NHTM đáp ứng nhu cầu nhập khẩu một số mặt hàng thiết yếu.  Dự trữ bắt buộc:   Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tháng 2/2008 NHNN điều chỉnh tăng 1% tỷ lệ DTBB đối với tất cả các kỳ hạn, áp dụng cho cả tiền gửi VND và ngoại tệ đối với hầu hết các TCTD.  Những tháng cuối năm 2008, để ngăn chặn suy giảm kinh tế, NHNN đã điều chỉnh giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND từ 11% xuống 6% và tiền gửi bằng ngoại tệ từ 11% xuống 7% Biểu 1: Diễn biến Dự trữ bắt buộc năm 2007-2008  Đơn vị %  2007 2008 (3 lần thay đổi)  Tỷ lệ DTBB (%tổng số dư tiền gửi phải DTBB) Lần 1: Lần 2: Lần 3:   - Không kỳ hạn và dưới 12 tháng   + VND 10 11 10 8  + Ngoại tệ 10 11 9 9  - Từ 12 -24 tháng   + VND 4 5 4 2  + Ngoại tệ 4 5 3 3 Như vậy, năm 2008 là năm hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với những khó khăn, thách thức chưa từng có trong hơn hai mươi năm đổi mới.Trước bối cảnh phức tạp của kinh tế thế giới và trong nước trong 6 tháng đầu năm 2008, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những phản ứng kịp thời, sử dụng đồng bộ và quyết liệt về điều hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm kiềm chế lạm phát có hiệu quả và ổn định kinh tế vĩ mô. Các công cụ chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt để hút tiền từ lưu thông nhưng vẫn đảm bảo tính thanh khoản cho nền kinh tế, điều hành linh hoạt tỷ giá theo tín hiệu thị trường. Ngân hàng Nhà nước đã tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của thị trường ngoại hối và của các tổ chức tín dụng, hạn chế tăng trưởng tín dụng quá nóng có thể gây mất an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng. Đến cuối năm 2008, để chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, chính sách tiền tệ thắt chặt được chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng. Chính sách tền tệ chưa thể nói là cực chuẩn nhưng có thể nói là thành công. Tuy nhiên, do Chính phủ không dự đoán được tình hình khủng hoảng xảy ra nên việc áp dụng CSTT của NHNN được thực hiện trong bị động và tình hình căng thẳng, Việc thắt chăt CSTT đột ngột trong giai đoạn đầu sẽ tạo ra sú sốc lớn và gây ra các phản ứng tiêu cực tức thời của thị trường tiền tệ và của NHTM. Thêm vào đó, sự mâu thuẫn giữa các mục tiêu trong ngắn hạn sẽ khiến cho nền kinh tế trong ngắn hạn không thể thực hiện được tất cả các mục tiêu của chính sách tiền tệ. 2.2. NĂM 2009  a. Tình hình kinh tế:  Bước vào năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội khác của nước ta. b. Phân tích và bình luận:  Tình hình kinh tế: Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế Nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ giá  Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, làm khởi sắc TTCK, bất động sản và thị trường tín dụng, nhưng cũng gây sức ép tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng tăng trưởng cao và áp lực giảm giá VND.  2009 - Khó khăn đã vượt qua  Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường.  Từ đầu năm 2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.  Thị trường tiền tệ từng bước được bình ổn, tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009, thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá, các doanh nghiệp có tâm lý găm giữ ngoại tệ.  Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng  Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ phát hành trái phiếu Chính phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương trong việc kiểm soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.  Các biện pháp chấn chỉnh hoạt động ngoại hối cũng được tăng cường như phối hợp với các bộ, ngành kiểm tra, xử lý vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng hóa bằng ngoại tệ, mua, bán ngoại tệ trái phép; tăng cường kiểm tra hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ, xử lý nghiêm các vi phạm.  Đặc biệt, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân như đẩy mạnh công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các thông tin về tình hình ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6-6,5%/năm xuống không quá 4%/năm kể từ ngày 15/4/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ ngày 01/6/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá l,5%/năm kể từ ngày 01/6/2009)  Đồng thời đề nghị Hiệp hội Ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ phần đồng thuận giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM nhà nước kể từ ngày 8/6/2009. Các biện pháp trên đã có tác động giảm áp lực thiếu cung ngoại tệ trên thị trường, giữ được thị trường ổn định.  Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%.  Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3% xuất khẩu), nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu... do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá.  Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND.  Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh.  Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá. Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980 VND/USD, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá.  Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.  Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá, NHNN đã thực hiện nâng các mức lãi suất chỉ đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế, vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối.  Như vậy, có thể nói những khó khăn nhất đã qua, năm 2009 mặc dù phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong quá trình thực thi CSTT, nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát từ mức 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52%, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2% và CSTT đã góp phần quan trọng vào ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ và đòi hỏi CSTT của NHNN phải có phản ứng kịp thời để ngăn chặn. 2.2 Năm 2010  a. Tình hình kinh tế:  Năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi sau khủng hoảng tài chính, tăng trưởng kinh tế 4,8%, thương mại tăng 11,4%. Năm 2010, theo đánh giá của Chính phủ, kinh tế nước ta tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng khá. Kinh tế trong nước tăng trưởng cao (6,78%) nhờ động lực đầu tư (vốn đầu tư toàn xã hội tăng 12,9%), xuất khẩu (25,5%) và tiêu dùng (tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 24,5%); các cân đối lớn của nền kinh tế và an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo.   b. Phân tích và bình luận:  Trong năm 2010, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng, phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, chỉ đạo của Chính phủ và bám sát tình hình thực tế, góp phần quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô, thể hiện cụ thể là:  Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm áp dụng từ 1/12/2009.   Phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương triển khai Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó quy định hộ sản xuất và hợp tác xã vay vốn từ 50-500 triệu đồng không phải thế chấp, cầm cố tài sản; ban hành cơ chế khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) mở rộng cho vay vốn đối với nông nghiệp và nông thôn với lãi suất thấp hơn lĩnh vực khác, thông qua giảm dự trữ bắt buộc, cho vay tái cấp vốn, mở rộng mạng lưới TCTD. Bên cạnh đó, NHNN chỉ đạo các TCTD tập trung vốn cho vay đối với xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, khắc phục hậu quả thiên tai. Tín dụng đối với nền kinh tế tăng 27,65% (giảm dần trong 3 tháng cuối năm); tín dụng đối với nông nghiệp và nông thôn tăng 23,2%, cao hơn năm 2009 (18,8%). • Trong 10 tháng đầu năm, lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn ổn định ở mức 8%/năm, kết hợp với điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở và giám sát việc thực hiện các tỷ lệ an toàn của TCTD, đã điều tiết lãi suất huy động và cho vay giảm dần theo chỉ đạo của Chính phủ (đến cuối tháng 10, lãi suất huy động VND bình quân 10,44%/năm, cho vay 13,18%/năm).   • Hai tháng cuối năm, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản và tái cấp vốn tăng 1%/năm, kết hợp với điều hành chặt chẽ lượng tiền cung ứng, quy định trần lãi suất huy động VND 14%/năm để ổn định thị trường tiền tệ, đã làm tăng lãi suất thị trường và giảm cầu tín dụng (cuối tháng 12, lãi suất huy động VND bình quân 12,44%/năm, cho vay 14,96%/năm, cho vay nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu 12-14%/năm; lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng 9,5 - 12%/năm).  Điều chỉnh tỷ giá mua - bán ngoại tệ của các TCTD tăng 5,52%; thực hiện các biện pháp ổn định thị trường ngoại tệ, như kết hối ngoại tệ đối với 7 tập đoàn, tổng công ty nhà nước, quy định trần lãi suất tiền gửi của tổ chức kinh tế bằng USD 1%/năm, bán ngoại tệ cho nhập khẩu mặt hàng thiết yếu, chỉ đạo các TCTD hạn chế cho vay nhập khẩu mặt hàng không thiết yếu và không khuyến khích. Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn định trong hơn 9 tháng đầu năm; từ tháng 10, tỷ giá thị trường tăng phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô.  Thực hiện các giải pháp kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng ngay từ đầu năm. Đóng cửa sàn giao dịch vàng và chấm dứt kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài; điều hành xuất - nhập khẩu vàng phù hợp với nhu cầu thị trường; ban hành Thông tư số 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010 thu hẹp huy động và cho vay bằng vàng; phối hợp với các bộ, ngàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docx_tl_cstt_cua_nhnn_vn_7146.docx
Tài liệu liên quan