Đề tài Phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay

Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trơ thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế

Công nghệ đóng tàu ở Việt Nam có những lợi thế như nhiều cảng, có lực lượng lao động tiền lương thấp, công nghệ đóng tàu ở một số nước phát triển đã kém lợi thế so sánh nay đang muốn chuyển dịch sang nước khác.do vậy phải mở cửa hội nhập hơn nữa thì mới thu hút được công nghệ hiện đại hơn.

Các hải cảng lớn nổi tiếng là cửa ngõ với bên ngoài của đất nước. Nếu dừng quan hệ quốc tế, kinh tế biển nước ta sẽ ngưng trệ. Nó chỉ có thể phát triển cao khi các quan hệ quốc tế được mở rộng.Vì vậy, Các ngành kinh tế biển phải được mở cửa, hội nhập sâu rộng.Xây dưng hệ thông cảng biển và vận tải biển, phát triển du lịch biển va cần phải mở của hội nhập để các công ty để các công ty nước ngoài vào đầu tư.Khai thác các tiêm năng lớn của biển :dầu khí, khoang sản, hải sản Bên cạnh đó cũng cần có chính sách bảo vệ bờ biển nước ta

 

doc25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2022 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Do đó, chúng ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, mới tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi nông nghiệp, nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ phát triển nhìn chung là thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế. Nông dân chiếm hơn 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp từ 25% - 27% GDP của cả nước... Hơn thế nữa, Đảng ta coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, còn vì nông dân, nông thôn Việt Nam có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước trước đây và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Khu vực nông nghiệp, nông thôn hiện có tài nguyên lớn về đất đai và các tiềm năng thiên nhiên khác: hơn 7 triệu ha đất canh tác, 10 triệu ha đất canh tác chưa sử dụng; các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông - lâm - hải sản (như cà-phê, gạo, hạt tiêu...). Nông nghiệp, nông thôn còn giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp các nguồn nguyên, vật liệu cho phát triển công nghiệp - dịch vụ. Tiếp tục khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại, phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học đưa vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch và phát triển nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nông dân nông thôn, đầu tư mạnh cho các chương trình xóa đói giảm nghèo Tóm lại, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chính là từng bước để phát triển nông thôn Việt Nam theo hướng hiện đại, xóa dần khoảng cách giữa thành thị với nông thôn. -Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ Đối với công nghiệp và xây dựng : Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác,cồng nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, phải biết tận dụng lao động, cơ sở vật chất hiện có, sử dụng tri thức mới, công nghệ mới để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; mặt khác phải biết đi thẳng vào hiện đại ở những khâu, những lĩnh vực, những ngành có lợi thế. xây dựng những khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao Tập trung điều kiện để phát triển nhanh có chọn lọc các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao, nhằm tạo những bước “nhảy vọt” của nền kinh tế. Việc phát triển các ngành công nghiệp mới cần đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến nhất, nhằm cho ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao, chiếm lĩnh được thị trường. Vận động các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính và công nghệ nguồn từ các nước phát triển. Khuyến khích các công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại đầu tư vào Việt Nam, tạo thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước Xây dưng kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở đô thị lớn…Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm năng lượng Đối với dịch vụ : Cần hiện đại hóa nhanh các ngành dịch vụ như thương mại, du lịch, tài chính, ngân hàng... để trở thành những lĩnh vực kinh tế có hàm lượng tri thức lớn. Với tính chất là ngành kinh tế tổng hợp mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, du lịch phát triển sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho lao động nông thôn mà không cần phải đào tạo công phu, từ đó góp phần từng bước nâng cao tích lũy và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Khuyến khích phát triển mạnh thêm du lịch sẽ giúp cho nông thôn giải quyết hàng loạt vấn đề: tạo công ăn việc làm, nâng cao dân trí, phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn, từ đó, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và lao động trong nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ, phát triển nông thôn văn minh, hiện đại phù hợp với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho lĩnh vực du lịch ở các vùng nông thôn có nhiều tiềm năng du lịch theo hướng khai thác các nguồn vốn trong nước, ngoài nước, đặc biệt là vốn trong dân. Từ đó tạo ra những sản phẩm du lịch đặc thù mang đậm bản sắc nông thôn Việt Nam (như du lịch đồng quê, du lịch làng nghề, du lịch sinh thái, văn hóa và sông nước).Phục hồi và phát triển các nghề truyền thống của làng quê Việt Nam, tạo ra những sản phẩm phục vụ khách du lịch. Tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân ý thức bảo vệ và tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa dân tộc, từ đó quảng bá, giới thiệu nhằm thu hút khách du lịch trên thế giới.Nâng cao ý thức của nhân dân ở các vùng nông thôn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái, làm đẹp quê hương, bản làng, giữ gìn nếp văn hóa làng quê Việt Nam để tạo ra những sản phẩm du lịch văn hóa làng quê, văn hóa lễ hội nông thôn Việt Nam. Đây chính là nét đặc sắc rất hấp dẫn khách du lịch quốc tế. Gắn quy hoạch vùng du lịch với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung nhằm bảo đảm phát triển du lịch và kinh tế bền vững.Cần có các đề án thiết thực về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch, sao cho để mỗi vùng quê, mỗi bản làng có đủ năng lực phát triển du lịch, làm cho du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế có hiệu quả của địa phương. -Phát triển kinh tế vùng Chúng ta phải có cơ chế giữa các vùng. Phát triển các vùng trong cả nước và tạo sư liên kết giữa các vùng và nội vùng: thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực, tác động lan tỏa đến các vùng khác; đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh hơn cho các vùng kinh tế đang còn nhiều khó khăn Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam thành nhưng trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao nhằm tạo ra sự phát triển chung cho cả nươc.Khai thác tiềm năng kinh tế của mỗi vùng Phát triển vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ phải có tầm nhìn xa, toàn diện nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống kết cấu hạ tầng để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội vùng  kinh tế trọng điểm Bắc bộ một cách có hiệu quả và bền vững; đi đầu trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, luôn giữ vai trò đầu tàu đối với cả vùng Bắc bộ và cả nước trong quá trình thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác, nhất là các vùng khó khăn, cùng phát triển. Đi đầu về hợp tác quốc tế, về thu hút đầu tư nước ngoài, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường. Đối với miền Trung cũng vậy. Miền Trung hơi khác hơn vì đây là nơi khó khăn vì cơ sở hạ tầng đang còn yếu kém, điều kiện thiên nhiên, thiên tai, điều kiện nguồn nhân lực không được dồi dào, không được chú ý như vùng khác, cho nên có những hạn chế trong việc thu hút đầu tư. Cần có những chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý để đảm bảo sự phát triển. Miền Trung vừa phải là  kết hợp đồng bộ các quy hoạch, chiến lược phát triển ngành nghề lĩnh vực để đưa ra nguồn lực tập trung hơn; đồng thời phải có chính sách ưu đãi đầu tư để hỗ trợ vùng này. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam là nơi tập trung số lượng các khu công nghiệp lớn của cả nước.Hoạt động xuất nhập khẩu của vùng nhộn nhịp nhất nước phát triển các ngành dịch vụ chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, du lịch, bất động sản có tầm cỡ quốc tế. Hệ thống cảng biển phát triển. -Phát triển kinh tế biển Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trơ thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và hợp tác quốc tế Công nghệ đóng tàu ở Việt Nam có những lợi thế như nhiều cảng, có lực lượng lao động tiền lương thấp, công nghệ đóng tàu ở một số nước phát triển đã kém lợi thế so sánh nay đang muốn chuyển dịch sang nước khác...do vậy phải mở cửa hội nhập hơn nữa thì mới thu hút được công nghệ hiện đại hơn. Các hải cảng lớn nổi tiếng là cửa ngõ với bên ngoài của đất nước. Nếu dừng quan hệ quốc tế, kinh tế biển nước ta sẽ ngưng trệ. Nó chỉ có thể phát triển cao khi các quan hệ quốc tế được mở rộng.Vì vậy, Các ngành kinh tế biển phải được mở cửa, hội nhập sâu rộng.Xây dưng hệ thông cảng biển và vận tải biển, phát triển du lịch biển va cần phải mở của hội nhập để các công ty để các công ty nước ngoài vào đầu tư.Khai thác các tiêm năng lớn của biển :dầu khí, khoang sản, hải sản…Bên cạnh đó cũng cần có chính sách bảo vệ bờ biển nước ta -Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại – dịch vụ đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại…Các địa phương cũng đẩy mạnh việc phát triển sản xuất trên cơ sở xây dựng các khu công nghiệp tập trung, hình thành các vùng chuyên canh cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến, nuôi trồng thuỷ sản, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của từng vùng. Điều này tạo thuận lợi cho phát triển công nghiệp chế biến, góp phần tạo nên xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng sản xuất hàng hoá, hướng về xuất khẩu. Tăng mạnh hơn nữa tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với nhu cầu của thị trường.Chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trong những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển giáo dục và phải tiến hành một cuộc cải cách giáo dục mới. Trong một thời gian ngắn phấn đấu để phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong toàn quốc, phổ cập trung học phổ thông trong các thành thị, khu công nghiệp và vùng đồng bằng đông dân, tăng nhanh đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý, các doanh gia. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH gắn với quá trình hình thành các trung tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình đô thị hoá. Mặt khác, việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế, thương mại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại tới quá trình chuyển dịch CCKT. Tăng cường năng lực khoa học và công nghệ quốc gia để có thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học và công nghệ mới nhất của thế giới cần thiết cho sự phát triển nước ta, từng bước sáng tạo những công nghệ mới đặc thù của nước ta, xây dựng nền khoa học và công nghệ tiên tiến của Việt Nam Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào kinh tế tri thức. Đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp và chia sẻ ứng dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao. - Bảo vệ,sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên quốc gia, cải thiện môi trường tư nhiên Tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động trong các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể, cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về trách nhiệm, ý thức bảo vệ môi trường. Phát huy vai trò của các cơ quan thông tin đại chúng trong tuyên truyền về bảo vệ môi trường; đa dạng hóa nội dung, hình thức tuyên truyền, làm cho nhân dân hiểu rõ hậu quả trước mắt cũng như lâu dài của ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đối với sức khỏe con người, đời sống xã hội và sự phát triển bền vững của đất nước; những bài học và kinh nghiệm về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu của các nước trong khu vực và trên thế giới; công bố công khai những tổ chức, doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và hình thức xử lý. Đưa nội dung giáo dục môi trường vào chương trình, sách giáo khoa của hệ thống giáo dục quốc dân. Coi trọng việc phát động phong trào bảo vệ môi trường trong các tầng lớp nhân dân. Xây dựng tiêu chí về môi trường vào đánh giá hoạt động của từng doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị, gia đình, làng, bản, khu phố, tập thể, cá nhân, đảng viên, đoàn viên, hội viên. Phát hiện, nhân rộng và tuyên truyền các mô hình, điển hình tiên tiến về bảo vệ môi trường. Duy trì và phát triển giải thưởng môi trường hàng năm. Tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm cụ thể hoá và hướng dẫn đầy đủ Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học; sửa đổi, bổ sung các quy định về tội phạm môi trường trong Bộ Luật Hình sự. Quy định các chế tài xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; xây dựng và ban hành qquy định bồi thường thiệt hại về môi trường. Kiện toàn hệ thống quản lý nhà nước về môi trường từ Trung ương đến cơ sở ; bảo đảm ở cấp huyện có bộ phận quản lý môi trường, cấp xã có cán bộ phụ trách công tác bảo vệ môi trường. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường giữa các cấp, các ngành. Không phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư tiềm ẩn nguy cơ cao đối với môi trường. Không đưa vào vận hành, sử dụng các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu đô thị, công trình, cơ sở y tế, cơ sở sản xuất mới không đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Quản lý chặt chẽ chất thải, nhất là các chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ, y tế, nghiên cứu khoa học; chấm dứt nạn đổ phế liệu, xả nước thải chưa qua xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường vào các sông, kênh, rạch, hồ ao. Thu gom và xử lý toàn bộ rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp bằng các biện pháp thích hợp; ưu tiên việc tái chế, tái sử dụng, hạn chế tối đa việc chôn lấp. Xử lý dứt điểm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường đặc biệt nghiêm trọng. Giải quyết cơ bản tình trạng ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường ở các khu dân cư do chất thải của các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các làng nghề, các khu vực bị nhiễm độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh. Kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc buộc di dời những cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng trong khu dân cư nhưng không có biện pháp khắc phục có hiệu quả. Thực hiện kế hoạch phục hồi và cải thiện môi trường tại các khu vực đã bị ô nhiễm, suy thoái nặng. Thực hiện việc đánh giá công nghệ sản xuất của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, bảo đảm không đưa vào nước ta công nghệ cũ, lạc hậu gây ô nhiễm môi trường. Xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng nhập khẩu phế liệu, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để đưa chất thải vào nước ta. Kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, nhập khẩu và sử dụng hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất, bảo quản sản phẩm nông nghiệp, thức ăn và thuốc phòng trừ dịch bệnh trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm mọi sai phạm, nhất là những sai phạm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tăng đầu tư và sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn chi thường xuyên từ ngân sách cho sự nghiệp môi trường, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước đầu tư bảo vệ môi trường; tăng tỉ lệ đầu tư cho môi trường trong nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Từng bước thực hiện việc thu phí, ký quỹ bảo vệ môi trường, buộc bồi thường thiệt hại về môi trường. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ về vốn, khuyến khích về thuế, trợ giá đối với hoạt động môi trường. Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường; chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu trong thời gian tới, dự báo kịp thời các diễn biến của biến đổi khí hậu, lồng ghép các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực về môi trường. Đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, dự báo, cảnh báo về tài nguyên, môi trường; nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ về bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, sự cố môi trường và biến đổi khí hậu. Hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường. Tăng cường sản xuất và sử dụng nhiên liệu sinh học, năng lượng sạch, năng lượng ái tạo, các sản phẩm thân thiện với môi trường. Nâng cao năng lực của các cơ quan nghiên cứu, hiện đại hóa trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ nghiên cứu, đánh giá về môi trường. Tăng cường công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, bảo vệ rừng và môi trường biển. Hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng và các nước trong khu vực để giải quyết các vấn đề môi trường liên quốc gia. Tham gia tích cực vào các hoạt động quốc tế và khu vực vì môi trường; thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, chương trình, dự án song phương và đa phương về bảo vệ môi trường phù hợp với lợi ích quốc gia. Nâng cao vị thế của ước ta trên các diễn đàn khu vực và toàn cầu về môi trường. Tranh thủ tối đa nguồn hỗ trợ tài chính, kỹ thuật từ các nước, các tổ chức quốc tế và cá nhân cho công tác bảo vệ môi trường. III. Lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. - Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH, HĐH, yếu tố con người luôn được coi là yếu tố cơ bản. Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, khoa học công nghệ, con người, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước thì con người là yếu tố quyết định. Để phát triển nguồn nhân lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục đào tạo. - Vị trí của yếu tố con người: con người đóng vai trò quan trọng nhất trong các yếu tố trên và là nhân tố quyết định vì: + Các nguồn lực khác ko có khả năng tự thân mà phải thông qua nguồn lực con người mới phát huy được tác dụng. + Các nguồn lực khác càng dùng càng hết, trái lại, nguồn lực con người càng dùng càng phát triển. - Yêu cầu về nguồn lực con người: Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lươnhk, cân đối về cơ cấu và trình đọ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới và công nghệ tiên tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. * Vai trò của giáo dục đối với việc đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Có thể nói rằng GD& ĐT là yếu tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ cũng như sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Bởi vì: CNH, HĐH là một quá trình mà trong đó sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để tạo ra và sử dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại kết hợp với giá trị truyền thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một xã hội văn minh và hiện đại. Chính vì vậy mà CNH, HĐH đòi hỏi phải có một lực lượng lao động có chất lượng cao. Kinh nghiệm một số nước cho thấy rằng phát triển nguồn lực chính là chìa khóa cho sự phát triển bền vững, Nhật Bản là một ví dụ. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nước Nhật bị tàn phá, khó khăn, thiếu thốn đủ thứ, kinh tế kiệt quệ, khoảng 80 vạn người dân thiếu gạo(ăn khoai, sắn...). Nhưng sau đó kinh tế Nhật Bản lại phục hồi nhanh chóng (1945 –1654) và phát triển với tốc độ thần kỳ (1954 –1973), trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới (sau Mỹ). Đó chính là kết quả của việc phát huy tối đa vai trò nguồn lực trong sự phát triển đất nước. Sự phát triển nguồn nhân lực do tích hợp nhiều nhân tố: giáo dục và đào tạo; sức khỏe và dinh dưỡng; môi trường; việc làm và cả sự giải phóng con người. Trong đó, giáo dục và đào tạo là yếu tố quan trọng nhất. Bởi vì, giáo dục đào tạo là động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn nhân lực, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Thực tiễn những nước đi trước về CNH, HĐH đã chỉ ra rằng: xã hội muốn đạt tới trình độ phát triển mới và cao hơn thì tất yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về mặt giáo dục. Trong đó, giáo dục phổ thông là nền tảng và giáo dục bậc cao là hết sức cần thiết,  vì đó là sự kết hợp giáo dục phổ thông với giáo dục nghề nghiệp, kết hợp văn hóa với tay nghề để hình thành năng lực thực sự trong bản thân người lao động. Nó tạo nên đội ngũ lao động có tay nghề, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cũng như những phẩm chất cần có để làm chủ tri thức, làm chủ các phương tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại bắt nhịp được với yêu cầu của cơ chế thị trường cũng như sự nghiệp CNH, HĐH. Có thể nói rằng, nếu sự nghiệp GD & ĐT chậm đổi mới, chậm đẩy mạnh và  phát triển thì nguy cơ tụt hậu càng cao; CNH, HĐH sẽ bị bó hẹp về quy mô, chậm về tốc độ và kém về hiệu quả. Thế nên đầu tư cho giáo dục không chỉ nên đi trước một bước mà là cần đi trước nhiều bước. Giáo dục – đào tạo vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối với sự thành công của CNH, HĐH và CNH, HĐH với những thành tựu của nó lại tác động trở lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiện đại hóa GD & ĐT (như các trang thiết bị tiên tiến phục vụ cho việc dạy học giúp cho GD &ĐT  tạo ra những sản phẩm chất lượng cao đáp ứng chính yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH). Hiện nay ở nước ta việc vận dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho việc mở rộng, phát triển giáo dục và đào tạo đang là yêu cầu rất bức xúc.Với sự nỗ lực, tích cực của các phương tiện thông tin hiện đại, quá trình giáo dục được thực hiện một cách có hiệu quả hơn làm cho lực lượng lao động có thể tự nâng cao trình độ và tay nghề thông qua việc cập nhật các nguồn thông tin đa dạng và phong phú. Các công nghệ hiện đại có thể tạo ra khả năng mới cho con người thực hiện sự đa dạng hóa kiến thức và nghề nghiệp. Nhờ vậy có thể đáp ứng được những yêu cầu của xã hội về sự thích ứng, năng động của nguồn nhân lực. CNH, HĐH là quá trình làm thay đổi một cách căn bản sự phát triển kinh tế - xã hội, tác động đến tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Nó không chỉ tạo điều kiện cho sự phát triển của sự nghiệp GD & ĐT theo hướng hiện đại mà còn đặt ra những yêu cầu, thách thức mới đòi hỏi con người phải luôn luôn học tâp và rèn luyện để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chính vì lẽ đó, GD & ĐT cũng đòi hỏi sự bổ sung, đổi mới thường xuyên về nội dung, chương trình, phương pháp và đặc biệt là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy. Bên cạnh đó, vì CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường sẽ làm thay đổi ít nhiều về giá trị, thang giá trị kéo theo sự biến động trong nhân cách con người nên GD&ĐT phải có sự tác động vào việc định hướng giá trị xã hội, đến với thang giá trị lành mạnh để phát huy được tính tích cực, sự sáng tạo của mỗi cá nhân nhằm tạo ra những con người vừa “hồng” vừa “chuyên”. Tóm lại, phát triển GD&ĐT là một trong những nội dung quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH và CNH, HĐH tạo điều kiện cho GD&ĐT phát triển theo hướng hiện đại phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. CNH, HĐH và GD – ĐT là hai quá trình có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng, chúng vừa là tiền đề vừa là kết quả của nhau. B. LIÊN HỆ THỰC TẾ: 1. Thực trạng nguồn nhân lực: Rẻ, nhưng thiếu chuyên môn    Mặc dù báo cáo nhận định VN có tiềm năng rất lớn về lao động giá rẻ do nhóm dân số trẻ chiếm tỉ lệ cao, nhưng có tới 59% số DN cho biết, rất khó kiếm được nhân sự quản lý cấp trung gian. "Đây là tỉ lệ cao nhất trong khối ASEAN và là tình trạng hết sức nghiêm trọng" - bản báo cáo nhận định. Thái Lan đứng sau VN, với tỉ lệ trả lời 43,2%. Các nước như Indonesia, Malaysia, Philippines đều khả quan hơn rất nhiều, với tỉ lệ từ 36% đến 38%.    Một trong những lợi thế "truyền thống" của VN là khả năng tuyển mộ LĐ phổ thông. Số liệu điều tra cho thấy, chỉ có khoảng 14% số DN cho rằng khó tuyển mộ LĐ. Đây là hậu quả của tình trạng LĐ bỏ việc khá phổ biến thời gian qua tại các khu công nghiệp.    Theo số liệu năm 2005 của Tổng cục Thống kê VN, lực lượng LĐ toàn quốc vào khoảng 44,4 triệu người, tốc độ tăng bình quân 1,7%/năm, nhưng tỉ lệ LĐ đã qua đào tạo nghề nói chung chỉ là 23%. Những lĩnh vực DN Nhật đang cần nhân viên kỹ thuật c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhát triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.doc
Tài liệu liên quan