Đề tài Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp - khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi

Việc xây dựng, phát triển các KCN, KCX là một hướng đi đúng đắn không những tạo ra các khu kinh tế phát triển đều khắp trên cả nước, mà còn tạo nên động lực đưa Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Sự phát triển các KCN đã góp phần đáng kể vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương, phát huy được tiềm năng kinh tế của các vùng, miền, tạo sự phát triển cân đối giữa các khu vực. Hơn nữa, nhiều dự án trong các KCN (kể cả dự án có vốn nước ngoài và doanh nghiệp trong nước) có công nghệ sản xuất hiện đại đã tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế, có sức cạnh tranh ngày càng cao.

Tốc độ phát triển khá nóng của các KCN, KCX đã kéo theo nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường. Tại các KCN, công tác bảo vệ môi trường chưa được thực hiện đồng bộ, nhiều KCN chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Đến cuối năm 2007, mới chỉ có 28 KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung, khoảng 20 KCN khác đang xây dựng hoặc chuẩn bị đầu tư, hầu hết số doanh nghiệp còn lại chưa xây. Trong nhiều năm qua chúng ta chỉ chú trọng mục tiêu tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút một lượng lớn nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên xuất khẩu ra nước ngoài thu về ngoại tệ.Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã và đang tiêu hao nhiều loại tài nguyên, năng lượng và thải ra nhiều chất gây hại, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường. Mức độ ô nhiễm nước ở các KCN, KCX, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Kết quả là trung bình hàng ngày các KCN thải ra môi trường khoảng 500.000 - 700.000m3 chất thải, hầu hết chưa được xử lý đã làm ô nhiễm môi trường nước. Theo số liệu thống kê lượng chất thải rắn công nghiệp hàng năm là 1,2 triệu tấn và khối lượng chất thải nguy hại chiếm 175.000 tấn, nhưng việc xử lý, thu gom không đạt 50%. Chính điều này dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng trên nhiều con sông như: sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị Vải. đã đến mức báo động.

 

doc25 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 6295 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các khu công nghiệp - khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp có thể làm tăng bằng cách không tuân thủ thõa nhuận. Do đó, cuối cùng cả hai chọn chiến lược H, dẫn đến lợi nhuận thấp hơn. Trò chơi lặp lại vô số lần là trò chơi khá phổ biến trong thực tế kinh doanh của doanh nghiệp, được sử dụng rộng rãi trong phân tích chiến lược quảng cáo, liên kết hỗ trợ với chiến lược kích thích, chiến lược chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp… Ví dụ, trò chơi chất lượng sản phẩm là trò chơi giữa khách hàng và doanh nghiệp thể hiện như sau: khách hàng muốn mua sản phẩm chất lượng cao trong khi doanh nghiệp lại muốn tối đa hóa lợi nhuận. Trong trò chơi một lần không lặp lại, một doanh nghiệp sẽ có động cơ bán sản phẩm chất lượng thấp nếu khách hàng không thể biết được chất lượng sản phẩm trước khi mua. Vấn đề sẽ khác đi nếu trò chơi lặp lại vô số lần. Giả sử người khách hàng bảo với doanh nghiệp: “Tôi sẽ mua nếu sản phẩm tốt. Nếu sản phẩm xấu, tôi sẽ bảo tất cả người quen đừng bao giờ mua sản phẩm của anh”. Với chiến lược này của người mua, doanh nghiệp nên làm gì? Nếu lãi suất không quá cao thì doanh nghiệp nên bán sản phẩm tốt. Lý do rất đơn giản. Nếu bán sản phẩm xấu, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận 10 đvt ngay lúc đó. Đây là lợi ích thu được do lừa dối. Tuy nhiên, mất mát của việc bán sản phẩm xấu là không có lợi nhuận vĩnh viễn ngay sau khi bán sản phẩm xấu. Nếu lãi suất thấp, lợi nhuận thu được một lần do lừa dối này không thể bù đắp sự mất mát vĩnh viễn không có lợi nhuận. Do đó, doanh nghiệp không nên lừa dối. Chương 3 THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP- KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM NHÌN TỪ LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI 3.1. Sự phát triển Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam giai đoạn 2000-2007 Cùng với tiến trình phát triển của đất nước trong sự nghiệp CNH, HĐH nhất là khi nước ta đã bước bào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, khắp nơi trong cả nước, từ thành thị đến nông thôn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong nước vào lĩnh vực sản xuất ngày càng tăng. Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong đó, có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) ra đời phát triển tương đối nhanh và là khu vực đi đầu trong quá trình CNH, HĐH đất nước, tập trung chủ yếu ở miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và vùng ven biển miền Trung. Biểu đồ: 3.1: Sự phát triển KCN, KCX ở Việt Nam giai đoạn 2000-2007 (Nguồn: Vụ quản lý KCN, KCX) Giai đoạn năm 2000 - 2002 số lượng KCN, KCX tăng với tốc độ chậm, nhưng bắt đầu từ sau năm 2002 đã có sự tăng lên mạnh mẽ, tăng nhanh nhất là năm 2007. Điều này bước đầu cho thấy những chủ chương, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước đã phát huy tác dụng, thu hút đầu tư và ngoài nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Trong các KCN, KCX nhiều nhà máy, xí nghiệp đã và đang tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ với qui mô ngày càng lớn. Đây chính là cơ hội để nước ta có thể phát triển một nền kinh tế toàn diện và hội nhập được với khu vực và thế giới. Cụ thể, giai đoạn năm 2000 - 2002 mức tăng lên của các KCN, KCX tương đối thấp, năm 2002 lượng KCN, KCX là 75, tăng 12 KCN, KCX so với năm 2000, với tỷ lệ tăng là 19,0% (phụ lục). Diện tích đất công nghiệp cho thuê năm 2002 là 8.892 hecta, chiếm 72,7% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. So với năm 2000 thì diện tích đất công nghiệp cho thuê tăng 1.217 hecta, tương đương 15,7%, tỷ lệ đất công nghiệp cho thuê trên đất công nghiệp có thể cho thuê năm 2000 là 76,8% cao hơn 72,7% của năm 2002, đồng thời tạo việc làm cho 883.688 lao động. Trong giai đoạn này, nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với bên ngoài, ....từng bước thu hút nguồn vốn đầu tư bên ngoài, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Tính đến thời điểm năm 2002 cả nước đã có 4.447 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép, với tổng số vốn đăng ký là 43.194 triệu USD, trong đó vốn pháp định là 20.357,6 triệu USD. Phần lớn vốn đầu tư nước ngoài (trên 70%) vào nước ta xuất phát từ các nước Châu Á (trong đó các nước ASEAN chiếm gần 25%, các nước và lãnh thổ ở khu vực Đông Bắc Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan chiếm trên 31%) (nguồn: niên giám thống kê 2002. NXB thống kê, Hà Nội 2002). Khi nền kinh tế các nước này lâm vào khủng hoảng do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế 1997 nên hạn chế khả năng đầu tư của nước ngoài vào nước ta. Kết quả từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, số vốn đăng ký đạt mức cao hơn năm 1992 không nhiều và đến năm 2002 lại giảm xuống. Nếu so với năm 1997 số dự án được duyệt năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm 1999 chỉ bằng 90,4%, năm 2000 tuy có tăng nhưng cũng chỉ tăng 7,5% so với năm 1997, tới năm 2002 số dự án đã tăng 51,59% so với năm 1997. Giai đoạn năm 2002 - 2006 số lượng KCN, KCX tăng nhanh, trung bình hàng năm tăng 17,5 KCN, KCX, với tốc độ tăng 93,3%. Nếu năm 2002 trên địa bàn cả nước có 75 KCN, KCX thì đến năm 2006 số lượng tăng lên thành 145. Diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê cũng có sự tăng lên đáng kể, tăng 9.863 hecta so với 12.371 hecta của năm 2002. Trong đó, diện tích đất công nghiệp cho thuê là 13.675 hecta, chiếm tỷ lệ 61,5% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê, diện tích đất công nghiệp cho thuê năm 2006 tăng 52,1% so với năm 2002, tương đương 4.683 hecta nhưng tỷ lệ diện tích đất công nghiệp cho thuê có chiều hướng giảm so với năm 2002 (75,6%). Trong quá trình thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta đã bước đầu thành công trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình CNH, HĐH. Các KCN, KCX lần lượt được xây dựng trên phạm vi khắp cả nước, nhằm khai thác thế mạnh kinh tế của từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cũng như tạo việc làm cho một bộ phận lớn dân cư. Tuy nhiên, việc phát triển quá nhanh cơ sở hạ tầng dẫn trong khi khả năng thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN, KCX hiệu quả chưa cao dẫn đến lượng cung tăng nhanh, trong khi nhu cầu còn thấp dẫn đến cung lớn hơn cầu gây ra tình trạng dư thừa. Bên cạnh đó, vấn đề quy hoạch phát triển các KCN chưa được xét trên bình diện của cả nước và của các vùng mà chỉ là quy hoạch của riêng từng tỉnh, thành phố nên xảy ra tình trạng nhà nhà làm KCN. Mặc dù, tiềm năng phát triển kinh tế của nước ta là rất lớn, nhiều nhà đầu nước ngoài đánh giá cao điều này nhưng vấn đề về môi trường pháp lý là một trong những yếu tố gây nhiều trở ngại nhất. Môi trường pháp lý mang nặng tính hành chính đã làm không ít nhà đầu tư phải thận trọng khi quyết định đầu tư vào Việt Nam. Chính vì vậy hiện tượng nhiều KCN, KCX đã xây dựng xong nhưng hoạt động cầm chừng, việc xây dựng các KCN, KCX ở nước ta đang ở trong tình trạng vừa thừa vừa thiếu, các chính sách đưa ra không theo kịp sự vận động biến đổi của thực tế đã dẫn đến một loạt những hệ lụy như: nhiều KCN, KCX có số dự án đầu tư chiếm tỷ lệ quá thấp (10-20%), sự lãng phí này là quá lớn, tình trạng chồng chéo trong quản lý các KCN vẫn tồn tại cả ở tầm vĩ mô cũng như ở từng địa phương (ví dụ: đất nói chung do Chính phủ duyệt quy hoạch, việc cấp đất do tỉnh tiến hành, duyệt quy hoạch đất KCN là của Bộ Xây dựng, cấp phép đầu tư là nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư), việc quản lý các KCN cũng chỉ dừng ở mức cấp phép thành lập chứ chưa chú ý đến vấn đề quy hoạch, các KCN phát triển theo hướng đa ngành dẫn đến khó khăn trong quá trình hoạt động. Về mặt số lượng tăng từ 145 KCN, KCX trong năm 2006 lên 179 đến cuối năm 2007, với tổng diện tích đất tự nhiên trong năm 2007 là 42.986 hecta, trong đó có hơn 110 KCN đã đi vào hoạt động. Các KCN đã thu hút hơn 3.000 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn gần 30 tỉ USD. Ngoài ra còn có 3.000 dự án trong nước với tổng vốn gần 200 ngàn tỉ đồng, giải quyết việc làm cho lao động trực tiếp và có hàng triệu lao động gián tiếp liên quan đến hoạt động của các KCN, KCX (như: vận chuyển nguyên vật liệu, gia công hàng hóa dịch vụ...) (nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài Bộ KH –ĐT). Năm 2007, Việt Nam đã thu hút được 20,3 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, tăng 69,1% so với cùng kỳ năm trước, vượt 56% kế hoạch dự kiến. Đây là kết quả của quá trình phấn đấu sau một thời gian dài để trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới. Đó cũng là kết quả của việc phân cấp mạnh mẽ về cho các địa phương, hiện trên địa bàn cả nước có 60 địa phương đã thực hiện việc cấp giấy phép đầu tư cho các dự án FDI theo các điều kiện phân cấp tại địa bàn. Tuy nhiên, trong khi số KCN, KCX tăng với tốc độ 23,4% và diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê tăng 29,6% thì tốc độ tăng của diện tích đất công nghiệp cho thuê tăng rất thấp chỉ đạt 5,1%. Trong đó, tỷ lệ diện tích đất công nghiệp cho thuê năm 2007 chỉ đạt 49,9%, so với năm 2006 tỷ lệ này giảm 11,6% và thấp hơn nhiều so với 75,6% của năm 2002. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta cần đưa ra những biện pháp kịp thời khắc phục khuyết điểm, nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN, KCX. Xóa bỏ tình trạng cung lớn hơn cầu xảy ra ở nhiều nơi dẫn đến hiệu quả đầu tư kém, gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên và ngân sách. 3.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi Việc xây dựng, phát triển các KCN, KCX là một hướng đi đúng đắn không những tạo ra các khu kinh tế phát triển đều khắp trên cả nước, mà còn tạo nên động lực đưa Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Sự phát triển các KCN đã góp phần đáng kể vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương, phát huy được tiềm năng kinh tế của các vùng, miền, tạo sự phát triển cân đối giữa các khu vực. Hơn nữa, nhiều dự án trong các KCN (kể cả dự án có vốn nước ngoài và doanh nghiệp trong nước) có công nghệ sản xuất hiện đại đã tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế, có sức cạnh tranh ngày càng cao. Tốc độ phát triển khá nóng của các KCN, KCX đã kéo theo nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường. Tại các KCN, công tác bảo vệ môi trường chưa được thực hiện đồng bộ, nhiều KCN chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung. Đến cuối năm 2007, mới chỉ có 28 KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung, khoảng 20 KCN khác đang xây dựng hoặc chuẩn bị đầu tư, hầu hết số doanh nghiệp còn lại chưa xây. Trong nhiều năm qua chúng ta chỉ chú trọng mục tiêu tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút một lượng lớn nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên xuất khẩu ra nước ngoài thu về ngoại tệ...Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã và đang tiêu hao nhiều loại tài nguyên, năng lượng và thải ra nhiều chất gây hại, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường. Mức độ ô nhiễm nước ở các KCN, KCX, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn. Kết quả là trung bình hàng ngày các KCN thải ra môi trường khoảng 500.000 - 700.000m3 chất thải, hầu hết chưa được xử lý đã làm ô nhiễm môi trường nước. Theo số liệu thống kê lượng chất thải rắn công nghiệp hàng năm là 1,2 triệu tấn và khối lượng chất thải nguy hại chiếm 175.000 tấn, nhưng việc xử lý, thu gom không đạt 50%. Chính điều này dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng trên nhiều con sông như: sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị Vải... đã đến mức báo động. Nhưng bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, thì mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất đối với doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Đối với một sản phẩm bất kỳ thì hệ số co giãn của cầu theo giá cho biết mối quan hệ biến động giữa cầu và giá. Khi hệ số co giãn 1 thì lượng sản phẩm bán ra và giá là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau, giá giảm thì số lượng hàng hóa bán tăng lên và ngược lại khi giá hàng hóa tăng lên thì số lượng hàng hóa bán ra lại giảm xuống. Điều này đã đặt các nhà quản lý doanh nghiệp phải luôn đưa ra phương pháp sản xuất tối ưu nhằm mục đích tối thiểu hóa chi phí trong kết cấu giá thành sản phẩm, từ đó hạ giá thành sản phẩm xuống giúp doanh nghiệp có thể tăng số lượng hàng hóa tiêu thụ thông qua việc giảm giá bán sản phẩm và tăng sức cạnh tranh sản phẩm của mình trên thị trường, tăng lợi nhuận. Trong đó, chi phí cho xử lý chất thải và nước thải sau quá trình sản xuất chiếm một phần trong kết cấu giá thành. Tùy theo đặc tính của từng sản phẩm mà chi phí này có thể cao hay thấp, để đảm bảo khả năng cạnh tranh sản phẩm trên thị trường, các doanh nghiệp sẽ luôn tìm cách để giảm chi phí này xuống mức càng thấp càng tốt (xét trong điều kiện các yếu tố khác xem như không đổi), dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp không tiến hành xử lý chất thải và nước thải sau quá trình sản xuất (gọi chung là chất thải) hay xử lý không đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường bên ngoài. Nhất là trong điều kiện môi trường cạnh tranh gay gắt ngày càng nên gay gắt thì đây là một trong những yếu tố góp phần làm giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt lợi nhuận đạt được của các doanh nghiệp là tối ưu. Nếu vấn đề quản lý xử lý chất thải, nước thải sau quá trình của các doanh nghiệp, hay pháp luật về bảo vệ môi trường của nước ta còn nhiều bất cập thì việc một doanh nghiệp vi phạm sẽ kéo theo nhiều doanh nghiệp khác vi phạm (nhất là các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành). Bởi trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt một doanh nghiệp thực hiện theo đúng qui định pháp luật trong khi các doanh nghiệp khác không thực hiện thì chẳng khác nào doanh nghiệp đó tự mình rời bỏ cuộc chơi. Chính hiệu ứng dây chuyền này dẫn đến hệ lụy môi trường sống ngày càng biến động theo chiều hướng xấu, mục tiêu tăng trưởng bền vững khó có thể được đảm bảo. Đây giống như một trò chơi mà quyết định của mỗi bên phụ thuộc vào người chơi với mình. Từ khuôn khổ trò chơi “Nghịch lý người tù”, có thể mô phỏng thành trò chơi hành động xử lý chất thải sau quá trình sản xuất giữa hai doanh nghiệp A và B. Giả sử trò chơi diễn ra giữa hai doanh nghiệp sản xuất A và B cùng ngành với loại trò chơi có thông tin đầy đủ. Dạng nhận thức của trò chơi là mỗi bên tham gia đồng thời ra quyết định để tối ưu hóa lợi ích. Mỗi người chơi đều biết rằng đối thủ của họ đang cố gắng để tối đa hóa lợi ích của mình. Kết quả lợi ích mỗi bên tham gia thu được không chỉ phụ thuộc vào hành động của mình mà còn là hành động của bên tham gia trò chơi còn lại. Quyết định có tiến hành xử lý chất thải hay không của 2 doanh nghiệp phụ thuộc vào các kết cục có thể có của trò chơi. Nếu hiện tại hai doanh nghiệp tiến hành xử lý chất thải theo quy định, như vậy mỗi doanh nghiệp vẫn đảm bảo khả năng cạnh tranh hiện có của mình và thu được những lợi ích trực tiếp, gián tiếp từ quyết định này. Bảng 3.2. mô tả sự kết hợp tương ứng từng hành động của mỗi bên tham gia. Bảng 3.2.: Trò chơi chiến lược xử lý chất thải của hai doanh nghiệp A và B B Chiến lược Không xử lý Xử lý A Không xử lý 11,11 15,-5 Xử lý -5,15 2,2 Nếu cả hai doanh nghiệp ban đầu thõa thuận với nhau cùng lựa chọn chiến lược xử lý, nghĩa là thực hiện xử lý chất thải sau quá trình sản xuất theo đúng quy định, mỗi doanh nghiệp phải tốn chi phí để vận hành hệ thống xử lý làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến giá thành sản phẩm cũng tăng lên. Tuy nhiên do giá thành sản phẩm của hai doanh nghiệp đều tăng lên đồng thời nên khách hàng không có xu hướng chuyển từ tiêu dùng sản phẩm doanh nghiệp A sang tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp B. Do đó mỗi doanh nghiệp nhận được lợi ích là 2 đvt. Nhưng nếu một trong hai doanh nghiệp phá vỡ thõa thuận thì kết quả mỗi doanh nghiệp nhận được sẽ khác đi rất nhiều, chênh lệch lợi ích giữa doanh nghiệp thực hiện cam kết và doanh nghiệp còn lại có sự biến động lớn. Thực vậy, nếu doanh nghiệp A không tuân thủ thõa thuận ban đầu thì lợi ích doanh nghiệp A nhận được là 15 đvt. Trong trường hợp này, doanh nghiệp A không tiến hành xử lý chất thải theo đúng qui định nên doanh nghiệp đã giảm được một phần chi phí trong kết cấu giá thành sản phẩm, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Ngược lại, việc phá vỡ thõa thuận của doanh nghệp A đã tạo ra kết quả tồi tệ cho doanh nghiệp B, doanh nghiệp này phải mất chi phí vận hành hệ thống xử ý nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trở nên kém hơn. Cụ thể, sức cạnh tranh của doanh nghiệp kém hơn so với doanh nghiệp A, có thể do giá thành sản phẩm cao hơn đối thủ cạnh tranh nên lượng khách hàng của công ty thấp hơn so với thời gian trước. Và trong trường hợp này, lợi ích doanh nghiệp nhận được không phải là 2 nữa mà ngược lại bị lỗ 5 đvt. Tương tự trường hợp ngược lại khi doanh nghiệp B phá vỡ thõa thuận, trong khi đó doanh nghiệp A vẫn thực hiện theo đúng thõa thuận ban đầu. Kết quả cho doanh nghiệp B là 15 đvt và doanh nghiệp A bị lỗ là 5 đvt. MR, P O MR P • q • MC A q* D • AC • C B C' A’ • AC’ Hành động phá vỡ thõa thuận của mỗi doanh nghiệp xuất phát từ lợi ích mà doanh nghiệp đó nhận được, doanh nghiệp không xử lý sẽ nhận được lợi ích nhiều hơn. Biểu đồ 3.2. thể hiện lợi ích mang lại khi thõa thuận bị phá vỡ. Biểu đồ 3.2: Vai trò của chi phí đối với lợi nhuận Diện tích hình chữ nhật PBAC là phần lợi nhuận của doanh nghiệp thực hiện việc xử lý chất thải sau quá trình sản xuất đúng tiêu chuẩn ứng với đường chi phí AC. Với số lượng sản phẩm q* không thay đổi, đường chi phí AC dịch chuyển xuống phía dưới thành AC’ thể hiện phần chi phí giảm xuống do doanh nghiệp không phải chi để vận hành hệ thống xử lý, dẫn đến giá thành sản phẩm giảm xuống và lợi nhuận lúc này không phải là diện tích hình chữ nhật PBAC mà là diện tích của hình chữ nhật PBA’C’ lớn hơn diện tích hình chữ nhật PBAC. Đây chính là động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp không thực hiện thõa thuận và không xử lý là chiến lược tối ưu cho mỗi doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp nào cũng vi phạm quy định vấn đề đảm bảo chất thải sau quá trình sản xuất khi thải ra môi trường dưới tiêu chuẩn cho phép. Nếu doanh nghiệp A phá vỡ thõa thuận gây kết quả tồi tệ cho doanh nghiệp B thì doanh nghiệp có xu hướng không thực hiện thõa thuận nữa, chiến lược tốt nhất cho doanh nghiệp B đối phó với doanh nghiệp A là không thực hiện xử lý chất thải. Vì nếu doanh nghiệp này không chọn chiến lược này thì bị lỗ là 5 đvt và lợi nhận đạt được là 11 đvt khi không xử lý. Lập luận tương tự cho doanh nghiệp A. Doanh nghiệp A sẽ luôn có lợi ích cao hơn khi chọn chiến lược xử lý bất chấp chiến lược của doanh nghiệp. Kết quả là cả hai doanh nghiệp cùng chọn chiến lược không xử lý. Như vậy, cặp chiến lược (không xử lý; không xử lý) là điểm cân bằng Nash. Tại sao cặp chiến lược này có điểm cân bằng Nash mà các cặp chiến lược khác lại không phải là điểm cân bằng Nash? Nếu doanh nghiệp A chọn chiến lược xử lý và doanh nghiệp B chọn không xử lý thì doanh nghiệp A có thể thu được lợi ích nhiều hơn nếu biết doanh nghiệp B chọn không xử lý bằng việc chọn chiến lược không xử lý. Do đó, chiến lược (xử lý; không xử lý) không phải là điểm cân bằng Nash. Tương tự cho hai kết quả còn lại, doanh nghiệp B không quan tâm đến quyết định lựa chọn chiến lược nào của doanh nghiệp A, doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh, tăng lợi nhuận của mình nếu chọn chiến lược không xử lý. Như vậy cân bằng Nash xảy ra khi cả hai doanh nghiệp đều chọn chiến lược không xử lý, khi đó mỗi doanh nghiệp không có động cơ để thay đổi quyết định của mình vì lợi ích mỗi doanh nghiệp nhận được là tối ưu, bất chấp chiến lược mà đối thủ của họ đưa ra. Thực tế nước ta đã chứng minh rằng, chính chiến lược này của các doanh nghiệp là nguyên nhân làm cho môi trường biến động ngày theo chiều hướng xấu hơn. Trong khi đó, sự thờ ơ, yếu kém trong quản lý môi trường của cơ quan có chức năng chẳng khác nào tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp vi phạm hơn nữa, nhiều doanh nghiệp dù đã đi vào hoạt động nhưng chưa xây dựng hệ thống xử lý chất thải, hay việc xây dựng chỉ mang tính hình thức đối phó với cơ quan có chức năng. Kết quả thống kê cho thấy nước ta có trên 800.000 cơ sở sản xuất công nghiệp với gần 70 KCX, KCN tập trung, trong đó khoảng 90% cơ sở sản xuất công nghiệp và phần lớn các KCN chưa có trạm xử lý nước thải. Các ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường nặng nhất là công nghiệp nhiệt điện, công nghiệp sản xuất xi măng và vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác khoáng sản. Qua kiểm tra trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh tại 21 doanh nghiệp trong KCN trong đó:  20/21 doanh nghiệp vi phạm quy định về bảo vệ môi trường, bị lập biên bản xử phạt hành chính với tổng số tiền 459 triệu đồng. Đồng thời khi tiến hành phân tích 45 mẫu nước thải của 5 KCN (Lê Minh Xuân, Tân Thới Hiệp, Bình Chiểu, Vĩnh Lộc, Tân Phú Trung  với tổng lượng nước thải là 5.750 m3/ngày, có đến 44 mẫu nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP), 3/5 KCN (Vĩnh Lộc, Tân Phú Trung, Bình Chiểu) có mẫu nước thải vượt mức cho phép hơn 100 lần. Ở một số ngành công nghiệp như: dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy thành phố Hà Nội, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ôxy sinh hoá (BOD), nhu cầu ôxy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép (theo tiêu chuẩn cho phép thì nồng độ pH từ 6-8,5mg/l; tiêu chuẩn cho phép đối với BOD là 20mg/l). Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư (nguồn: www.nhandan.org.vn). Một sự khác biệt xuất hiện trong trò chơi này, cân bằng Nash xảy ra nhưng “Nghịch lý người tù” không xuất hiện. Nghĩa là chiến lược tối ưu lại mang lợi ích cao nhất và lại có tính ổn định. Tại sao lại có sự xuất hiện này? Chúng ta cần phải thừa nhận rằng ý thức bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp ở Việt Nam là rất kém, doanh nghiệp chưa ý thức được hậu quả ô nhiễm mang đến cho cuộc sống con người. Song nổi bậc nhất là chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác môi trường còn quá “mỏng”, trình độ còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu (trung bình mỗi tỉnh có 03 cán bộ), điều kiện làm việc còn nhiều hạn chế, thiếu thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại phục vụ cho công việc. Bên cạnh đó là vấn đề tiền lương còn nhiều vấn đề bất cập, tiền lương chưa thực sự là động cơ để cán bộ ra sức làm việc, nguy hại hơn là một số cán bộ quá coi trong “sức mạnh của đồng tiền” dẫn đến tham nhũng xảy ra nhiều nơi và thờ ơ trước vi phạm của doanh nghiệp. Vedan là một công ty gây ô nhiễm môi trường hơn một thập niên qua nhưng lại nhận được bằng khen của cơ quan có chức năng về sản phẩm đạt tiêu chuẩn về môi trường trong những tháng đầu năm 2009. Công ty này xả nước thải chưa qua hệ thống xử lý ra môi trường và gây ô nhiễm nguồn nước hơn 14 năm qua mà cơ quan có chức năng không phát hiện. Việc Công ty Vedan xả nước thải chưa qua xử lý theo quy định và có chứa rất nhiều chất độc hại ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống bên ngoài, nhất là dòng sông Thị Vải, trung bình mỗi ngày công ty này thải ra môi trường khoảng 1.500m3 nước thải độc hại trực tiếp ra sông Thị Vải. Trong đó, khối lượng nước thải không qua hệ thống xử lý là trên 23.000m3 một ngày, lượng dịch thải sau lên men xả trực tiếp ra sông Thị Vải lên tới 105.600m3 một tháng và có chứa thành phần axitsunfuric. Để xử lý khối lượng chất thải có nồng độ ô nhiễm hữu cơ cao như của Vedan phải tốn chi phí đầu tư ban đầu khoảng 140 tỷ đồng. Chi phí vận hành hàng năm theo quy chuẩn về nước thải tiêu tốn 210 tỷ đồng. Nhưng Vedan đầu tư chưa đạt mức 1% cho khâu này (nguồn: Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường - Phạm Khôi Nguyên). Trong năm 2008 khi bị cơ quan có chức năng tiến hành kiểm tra, phát hiện Vedan thải chất thải chưa qua hệ thống xử lý, Vedan chỉ nộp tiền phạt hành chính 267.500 nghìn đồng, nộp trên 93 tỷ đồng trong tổng số 127 tỷ đồng tiền phí bảo vệ môi trường phải nộp. Mặc dù Vedan cũng đã làm thủ tục xin nộp hết số tiền còn lại, nhưng số tiền này cũng khá nhỏ so với một lượng tiến lớn mà Vedan phải bỏ ra cho quá trình xử lý chất thải trong 14 năm qua một khoảng là 2.940 tỷ đồng. Như vậy ước tính số tiền Vedan nộp cho ngân sách không được 5%, khoảng chênh lệch quá lớn đã được Vedan bỏ túi riêng. Đồng thời Nhà nước phải chi từ ngân sách một lượng tiền tương ứng để cải tạo môi trường. Qua đó cho thấy ý thức bảo vệ môi trường của doanh nghiệp còn kém, coi nhẹ luật pháp và tính chưa đủ mạnh của pháp luật về bảo vệ môi trường dẫn đến hành vi cố tình vi phạm của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, kết quả của trò chơi trên sẽ thay đổi nhiều nếu vấn đề quan lý môi trường tốt hơn và ban đầu hai doanh nghiệp thõa thuận chọn chiến lược xử lý Khi đó một trong hai doanh nghiệp tuyên bố rằng: Tôi sẽ thông báo cho cơ quan có chức năng nếu anh không thực hiện xử lý”. Vì vậy, nếu doanh nghiệp A không thực hiện xử lý sẽ kích thích doanh nghiệp B tố cáo với cơ quan chức năng. Nếu cả hai cùng chọn chiến lược kích thích thì không có doanh nghiệp nào có động cơ phá vỡ thõa thuận. Hình thức trừng phạt cho doanh nghiệp không thực hiện xử lý có thể tạm ngưng hoạt động một thời gian dài hay rút giấy phép kinh doanh vĩnh viễn. Trong bảng 2.2.1, ta thấy hai doanh nghiệp đều lựa chọ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi.doc