Đề tài Thực trạng trục lợi bảo hiểm tại thị trường bảo hiểm Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU

Chương I: Tổng quan về hoạt động KDBH và trục lợi trong hoạt động KDBH 1

I. Vài nét về hoạt động kinh doanh bảo biểm . 1

 1. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm .1

 2. Đặc điểm của hoạt động kinh doanh bảo hiểm 1

3. Các nhân tố tác động đến hoạt động kinh doanh bảohiểm 2

II. Vấn đề trục lợi trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm .2

A. Khái niệm trục lợi bảo hiểm 2

B. Ảnh hưởng của trục lợi bảo hiểm đối với hoạt động KDBH 3

 1. Gây thiệt hại về tài chính cho các công ty bảo hiểm, ngăn cản sự phát triển ngành bảo hiểm. .3

2. Gây thiệt hại cho chính những người tham gia bảo hiểm 5

3. Gây thiệt hại cho nền kinh tế 5

4. Tạo ra các vấn đề bất bình ổn trong xã hội 7

C. Các hình thức trục lợi bảo hiểm 7

1. Khai tăng trị giá tổn thất 7

2. Đã xảy ra tổn thất mới đi mua bảo hiểm 8

3. Bảo hiểm trùng 8

4. Cố ý gây tổn thất cho đối tượng bảo hiểm 9

5. Khai ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm trước thời hạn hợp đồng 9

6. Lập hồ sơ giả 10

7. Tạo dựng hiện trường giả 10

Chương II: Thực trạng trục lợi bảo hiểm tại thị trường bảo hiểm Việt Nam 11

I. Thị trường bảo hiểm Việt Nam 11

1. Tổng quan và thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm Việt Nam 11

2. Các nhân tố tác động đến thị trường bảo hiểm Việt Nam 13

II. Trục lợi bảo hiểm - Thực tế đáng buồn 14

1. Trục lợi bảo hiểm gia tăng . .14

2. Thiếu cơ chế quản lý, chế tài xử phạt .17

III. Một số vụ trục lợi bảo hiểm điển hình xảy ra ở Việt Nam . 18

1. Trục lợi bảo hiểm tại công ty bảo hiểm PJICO – “cháy hàng rồi mới mua bảo hiểm” 19

2. Tự đốt ô tô để trục lợi bảo hiểm 24

3. Lợi dụng danh nghĩa của công ty bảo hiểm để đi lừa khách hàng 27

Chương III: Một số giải pháp cho vấn đề trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam .31

 I. Các giải pháp về phía doanh nghiệp bảo hiểm .31

II. Các giải pháp về phía cơ quan chức năng .33

III. Các giải pháp phối hợp đồng bộ .34

 KẾT LUẬN 35

Tài liệu tham khảo 37

 

 

 

doc40 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3527 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng trục lợi bảo hiểm tại thị trường bảo hiểm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiÒu h¬n. ThiÕt nghÜ r»ng cÇn ph¶i xö lý nghiªm minh nh÷ng tr­êng hîp gian lËn, trôc lîi b¶o hiÓm nh»m ®¶m b¶o cho quyÒn lîi cña nh÷ng ng­êi mua b¶o hiÓm trung thùc ®ång thêi còng lµ mét trong nh÷ng gi¶i ph¸p quan träng nh»m ph¸t triÓn thÞ tr­êng dÞch vô b¶o hiÓm n­íc ta mét c¸ch bÒn v÷ng. Chương II Thực trạng trục lợi bảo hiểm ở thị trường bảo hiểm Việt Nam I. Thị trường bảo hiểm Việt Nam 1. Tổng quan và thực trạng hoạt dộng của thị trường bảo hiểm Việt Nam Nền kinh tế Việt Nam năm 2008 tiếp tục tăng trưởng nhưng đã chậm lại so với dự báo ban đầu, tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 6,52%. Nguồn vốn FDI trực tiếp vào Việt Nam lên đến trên 56,2 triệu USD. Ngành bảo hiểm cũng vẫn tăng trưởng mạnh và duy trì ở mức cao, 9 tháng đầu năm, toàn thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đạt doanh thu 8.020 tỉ đồng tăng 35%  so với cùng kỳ năm 2007.  Dẫn đầu doanh thu là Bảo hiểm Bảo Việt 2.431 tỉ đồng, tiếp đó là PVI 1.663 tỉ đồng, Bảo Minh 1.612 tỉ đồng, PJICO 737 tỉ đồng. Chiếm tỉ trọng lớn là nghiệp vụ bảo hiểm Xe cơ giới 2.391 tỉ đồng, bảo hiểm Con người 1.051 tỉ đồng, bảo hiểm Thân tàu và TNDS của chủ tàu 907 tỉ đồng. Toàn thị trường đã giải quyết bồi thường 3.018 tỉ đồng, tỉ lệ bồi thường 37%. Top 3 nghiệp vụ có tỉ lệ bồi thường cao là bảo hiểm Xe cơ giới 51,6%, bảo hiểm Con người 47%, bảo hiểm Thân tàu và TNDS của chủ tàu 42%. Top 3 doanh nghiệp có tỉ lệ bồi thường cao là Bảo Long 51,2%, Bảo Minh 45%, Bảo Việt 42%. Như vậy tỉ lệ bồi thường đã có nhiều khả quan chưa tính tới tổn thất đã phát sinh chưa giải quyết bồi thường. Còn vệ bảo hiểm nhân thọ thì trong 9 tháng năm 2008, tổng doanh thu phí Bảo hiểm nhân thọ đạt 7.514 tỉ đồng (trong đó phí bảo hiểm các sản phẩm chính đạt 7.243 tỉ đồng), tăng 11,7% so với cùng kỳ năm 2007. Về mặt tổng doanh thu phí, dẫn đầu thị trường lần lượt là Prudential với 3.102 tỉ, tiếp đến là Bảo Việt với 2.503 tỉ đồng, Manulife là 776 tỉ đồng.  Doanh thu phí khai thác mới của các sản phẩm bảo hiểm đạt 1.475 tỉ đồng (trong đó sản phẩm bổ trợ là 68 tỉ đồng), tăng 28,4 % so với cùng kỳ năm trước. Các sản phẩm hỗn hợp vẫn là các sản phẩm được ưa chuộng với doanh thu gần 897 tỉ đồng. Một điểm đáng lưu ý là sản phẩm trả tiền định kỳ mới có 01 doanh nghiệp là Bảo Việt Nhân thọ cung cấp ra thị trường nhưng lại có tỉ trọng doanh thu phí khai thác mới 19.61%. Tỉ trọng khai thác mới của các sản phẩm trả tiền định kỳ cho thấy xu hướng xã hội Việt đang thay đổi: các cá nhân trong xã hội có xu hướng độc lập về thu nhập khi về hưu thay vì sống nhờ gia đình, con cái hoặc người thân.  Tuy nhiên, để đánh giá sâu sát thị trường, cần nhìn nhận và phân tích một cách toàn diện hơn. Cụ thể: Vấn đề trục lợi và hành vi tiêu cực hay gian lận có chiều hướng ngày càng gia tăng. Bàn về khía cạnh này, các nhà quản lý cả trong và ngoài DNBH đã rất không hài lòng, khi đưa ra một loạt các giải pháp nhằm chống trục lợi. Song điều đáng quan tâm hơn là có tới 80% số vụ gian lận hay trục lợi đã có sự tiếp tay của những người đang làm trong các DN BH hoặc đang cộng tác với các DN BH. Vấn đề này được xem là quản ngại lớn nhất không chỉ đối với những nhà quản lý VN, mà cả đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trong cuộc chiến chống gian lận và trục lợi BH. Thực thi luật và các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động kinh doanh BH còn có nhiều hạn chế. Mặc dù môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh BH đã được Bộ Tài chính đặc biệt quan tâm, song thực tế các văn bản pháp luật đã đi vào cuộc sống hay chưa lại là câu chuyện cần được các DN BH tham gia bình luận. Nếu như ở thời điểm năm 1996-1997, các nhà BH VN ngạc nhiên khi có một số khách hàng lớn yêu cầu các Cty BH đấu thầu hoa hồng tái BH (% phí BH mà Cty BH được hưởng từ các Cty nhận tái BH) nhằm giảm mức phí BH khách hàng phải trả, thì những năm gần đây cùng với sự "phát triển" của thị trường các nhà BH lại đang "dễ dàng" chấp nhận khách hàng yêu cầu "đấu thầu hoa hồng" hay nói nôm na "% phí BH Cty BH để lại cho khách hàng" là bao nhiêu? Tiết 3, Điều 20 của Nghị định số 42/2001/NĐ-CP đã quy định không được trả hoa hồng cho khách hàng, nhưng thực tế điều này chưa được thực hiện nghiêm túc và có quá nhiều hình thức biến tướng, mà suy cho cùng đó chính là hoa hồng trả cho khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, khái niệm cạnh tranh lành mạnh chỉ là tương đối". Nhưng nhìn vào thực tế những gì đang diễn ra trên thị trường BH, còn có không ít những động thái trong hoạt động kinh doanh rất không lành mạnh và đi trái với nội dung thoả thuận đã được các bên cùng nhau cam kết... Phương thức cạnh tranh giữa các Cty BH hiện nay chắc chắn sẽ không tồn tại. Nhưng thời gian đó là bao nhiêu năm nữa? Vẫn còn là câu hỏi ngỏ dành cho chính các Cty BH đang hoạt động trên thị trường. Tất cả những nỗ lực nhằm bổ sung và hoàn thiện môi trường pháp lý trong hoạt động kinh doanh BH, tất cả những cố gắng của Hiệp hội BH VN, đều sẽ không mang lại hiệu quả thực sự, nếu mỗi Cty BH không thực hiện nghiêm những quy định của pháp luật và những thoả thuận các Cty đã cùng nhauthống nhất. Nếu cứ kéo dài thực trạng cạnh tranh như hiện nay, ngay cán bộ của các Cty BH cũng sẽ "kiệt sức", và không thể không nảy sinh các hành vi tiêu cực. Tất nhiên, việc các Cty BH cùng nhau thống nhất thực hiện những cam kết để đi đến cạnh tranh lành mạnh không hề đơn giản chút nào. Nhưng không có nghĩa là không thể thực hiện, khi tất cả các Cty đều quyết tâm để làm lành mạnh thị trường 2. Các nhân tố tác động đến hoạt động của thị trường Việt Nam - Sự tăng trưởng của nền kinh tế ảnh hưởng đến hoạt động KDBH, - Sự xâm nhập của các nhà bảo hiểm nước ngoài - Đa dạng hóa của các kênh marketing: bán BH qua ngân hàng và internet - Tình trạng trục lợi bảo hiểm - Các nguyên nhân khác: thảm họa thiên nhiên, sự phát triển mạnh của xe cơ giới II. Trục lợi bảo hiểm - thực tế đáng buồn! 1. Trục lợi bảo hiểm gia tăng Mặc dù có những bước phát triển vượt bậc, tuy nhiên một thị trường mới, năng động cũng tiềm ẩn nhiều bất trắc. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam còn tồn tại nhiều vấn đề cần được nghiên cứu giải quyết. Bên cạnh những khó khăn như vốn nhỏ, rủi ro tiềm ẩn cao, phương pháp cạnh tranh chưa hiệu quả, kinh nghiệm quản lý non kém và cơ chế chính sách bảo hiểm chưa hoàn thiện ... thì sự gia tăng cả về số lượng, hình thức, và quy mô của các vụ trục lợi bảo hiểm cũng đang là vấn đề nhức nhối, một thách thức với các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Trục lợi bảo hiểm đã và đang diễn ra ở nhiều nghiệp vụ bảo hiểm. Thời gian gần đây xuất hiện khá nhiều vụ việc gây tranh cãi về vấn đề giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Nguyên nhân chủ yếu là do những yêu cầu đòi bồi thường của người tham gia bảo hiểm có những dấu hiệu của hành vi trục lợi bảo hiểm. Thực chất, tình trạng trục lợi bảo hiểm ở Việt Nam đã diễn ra như thế nào? Liệu đã đến lúc cần phải cảnh báo về vấn đề này hay chưa?... Ông Lê Song Lai, Vụ phó Vụ bảo hiểm, Bộ Tài chính, thừa nhận rằng cùng với sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, trục lợi bảo hiểm có chiều hướng gia tăng cả về số lượng, tính chất và mức độ. Tại Việt Nam, bảo hiểm nhân thọ tuy mới hình thành 8 năm, song đã có những dấu hiệu trục lợi và lừa đảo, mặc dù, số lượng chưa nhiều, thủ đoạn chưa tinh vi và mức độ chưa thật nghiêm trọng. Theo số liệu thống kê sơ bộ của 4 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài (Prudential, Manulife, BM-CMG và AIA), trong tổng số 11.001 yêu cầu trả tiền bảo hiểm mà các Công ty này nhận được, số vụ đã xác định có dấu hiệu trục lợi và từ chối bồi thường chỉ chiếm tỷ lệ khoảng từ 2-3%. Hình thức và thủ đoạn trục lợi bảo hiểm tại Việt Nam được diễn ra khá đa dạng, trong đó phổ biến nhất là 2 nhóm hành vi. Đó là cố ý không cung cấp thông tin, cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc khai báo không trung thực các thông tin liên quan đến tình trạng sức khoẻ của bản thân trong hồ sơ yêu cầu bảo hiểm hoặc trong hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm, cụ thể là: người được bảo hiểm đã mắc bệnh hiểm nghèo trước khi tham gia bảo hiểm nhưng không khai báo; thậm chí, có trường hợp người được bảo hiểm đã chết song người thân vẫn mua bảo hiểm; hoặc có những trường hợp không kê khai hoặc kê khai không chính xác mức độ tổn thất... Hành vi bị coi là trục lợi thường gặp hiện nay là cố ý huỷ hoại tài sản hoặc tự gây thương tích cho bản thân, dựng hiện trường tai nạn giả hay giả mạo hồ sơ y tế đòi bồi thường... Mặc dù, động cơ trục lợi bảo hiểm bao giờ cũng là nhằm thu về những đồng tiền bất chính thông qua việc tham gia bảo hiểm, nhưng đối tượng thực hiện hành vi trục lợi khác nhau. Thông thường, trong các vụ trục lợi bảo hiểm bao giờ cũng có sự tham gia của người tham gia bảo hiểm, cán bộ nhân viên đại lý của doanh nghiệp bảo hiểm, các cơ sở y tế, khám chữa bệnh, giám định y khoa... Trong việc cấp đơn bảo hiểm, do tính minh bạch chưa cao nên người tham gia bảo hiểm có xu hướng muốn trục lợi. Do vô tình hay cố ý các nhân viên bảo hiểm có thể ghi sai ngày tham gia bảo hiểm trên giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc do thiếu trách nhiệm đã không đánh giá được đầy đủ, chính xác mức độ trầm trọng của rủi ro. Cũng có thể nhân viên hoặc đại lý bảo hiểm thông đồng với khách hàng trục lợi bảo hiểm: đánh giá mức độ tổn thất cao hơn thực tế hoặc “vẽ đường...” cho khách hàng lợi dụng kẽ hở về giấy tờ, thủ tục giám định để trục lợi... Thêm vào đó hiện tượng kê khai thông tin không đầy đủ của khách hàng hay khai sai, khai khống tai nạn của người tham gia bảo hiểm, bằng việc thông đồng giữa những người tham gia bảo hiểm có hành vi gian lận với những người liên quan như: y, bác sĩ, công an, những người làm chứng trong các vụ tổn thất... đang khá phổ biến ở Việt Nam. Từ đó làm nảy sinh những vấn đề không lành mạnh trong đánh giá rủi ro, giám định bồi thường. Tình trạng khách hàng tham gia bảo hiểm ở nhiều công ty bảo hiểm tại cùng một thời điểm để trục lợi cũng không phải là hiếm (như vụ ông Nguyễn Văn U ở Hải Dương tham gia bảo hiểm nhân thọ tại hai doanh nghiệp bảo hiểm lớn với tổng số tiền bảo hiểm lên tới trên 1 tỷ đồng Việt Nam, khi biết mình có căn bệnh nan y không thể chữa khỏi... Đối với một số lĩnh vực bảo hiểm, nhiều khách hàng thường xuyên thực hiện hành vi trục lợi. Cụ thể trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, tình trạng trục lợi biểu hiện ở các hình thức tiêu biểu như: Hàng hóa được yêu cầu bảo hiểm trong hành trình vận chuyển, nhưng chưa đóng phí bảo hiểm. Khi biết hàng về đến nơi an toàn, khách hàng xin hủy đơn bảo hiểm hoặc hủy hợp đồng bảo hiểm để khỏi phải đóng phí. Thậm chí có chủ hàng biết thông tin hàng hóa của mình bị tổn thất rồi mới đến mua bảo hiểm hoặc thông đồng với cán bộ của doanh nghiệp bảo hiểm để mua bảo hiểm và nhận bồi thường cho tổn thất đó. Thực tế đã diễn ra và vụ việc đã được cơ quan cảnh sát điều tra phát hiện, lập hồ sơ để đưa ra pháp luật xử lý. Cũng có trường hợp trục lợi bị phát hiện khi hàng hóa được mua bảo hiểm vận chuyển trên một con tàu ma tức là con tàu đó không tồn tại trên thực tế. Khách hàng lừa đảo mua bảo hiểm với mục đích quy cho tàu mất tích để trục lợi đòi bồi thường toàn bộ... Trong bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm tàu thuyền, trục lợi bảo hiểm được thực hiện thông qua việc hợp lý hoá ngày và hiệu lực bảo hiểm. Trên thực tế còn có việc tạo hiện trường giả các vụ tai nạn xe cơ giới, cháy hoặc chìm tàu, cố ý gây tai nạn trong bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm, gian lận đối với người thứ ba: không bồi thường cho người thứ ba. Như vậy, có thể thấy được rằng thị trường bảo hiểm càng phát triển thì các hình thức trục lợi bảo hiểm cũng ngày càng đa dạng hơn, thủ đoạn trục lợi bảo hiểm cũng tinh vi hơn và số tiền gian lận trục lợi bảo hiểm cũng ngày càng nhiều hơn mặc dù đã nhận tiền bảo hiểm. Theo các chuyên gia ngành bảo hiểm, hành vi này trước mắt gây bất lợi cho các doanh nghiệp bảo hiểm, nhưng về lâu về dài sẽ ảnh hưởng đến người mua bảo hiểm vì phải chịu khoản phí cao hơn từ các nhà kinh doanh bảo hiểm. 2. Thiếu cơ chế quản lý, chế tài xử phạt Mặc dù trong những năm qua, các cơ quan chức năng đã không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về kinh doanh bảo hiểm, song nhìn chung các qui định về phòng chống trục lợi bảo hiểm còn bất cập và chưa theo kịp với thực tế, đặc biệt những chế tài còn chưa đủ sức răn đe đối với những kẻ giáp ranh phạm tội. Mặt khác các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chịu những hạn chế về mặt pháp luật khi mà giải quyết các yêu cầu bồi thường tiền bảo hiểm. Do đó, trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp đã không có đủ quỹ thời gian cần thiết để điều tra đầy đủ về những vụ có dấu hiệu trục lợi hoặc có cơ sở để nghi ngờ trước khi quyết định việc trả tiền bảo hiểm. Ngoài ra, dưới góc độ đạo đức và dư luận xã hội, còn thiếu thái độ cương quyết của công luận trong việc lên án các hành vi trục lợi bảo hiểm cũng tạo tâm lý bất lợi cho cuộc đấu tranh chống những hành vi phạm pháp này. Điều đáng nói nhất ở nước ta là chế tài xử lý các hành vi trục lợi bảo hiểm còn quá yếu và thiếu. Có một thực tế đáng lo ngại là cho đến nay, mặc dù đã có không ít vụ trục lợi bảo hiểm đã được phát hiện, song chưa có một tổ chức cá nhân nào thực hiện hành vi trục lợi phải chịu bất kỳ một chế tài hành chính hay hình sự nào. Theo Nghị định về xử phạt hành chính, hành vi trục lợi bảo hiểm chỉ bị cảnh cáo hoặc phạt tối đa 10 triệu đồng. Bộ luật Hình sự chưa có điều luật nào quy định cụ thể về tội trục lợi bảo hiểm. Kẻ trục lợi bảo hiểm chỉ bị xử với các tội danh liên quan như tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản... Chính vì hành lang pháp lý chưa đầy đủ nên nhiều vụ trục lợi bảo hiểm chưa được điều tra và xét xử nghiêm khắc, do vậy không có tính răn đe. Điều này đã khuyến khích những kẻ làm ăn bất chính tìm cách thử vận may bằng cách gian dối, lừa đảo doanh nghiệp bảo hiểm để nhận tiền bảo hiểm mà không sợ bị trừng phạt. Nếu bị phát hiện, thì điều duy nhất mà họ mất đi là không được trả tiền bảo hiểm, trong khi nếu được thì họ sẽ thu được những khoản tiền rất lớn. Đây là một vấn đề mà chúng ta cần nhanh chóng giải quyết. Bên cạnh đó, sự thiếu trách nhiệm của một bộ phận các cơ quan chức năng cũng tiếp tay cho tình trạng trục lợi gia tăng (ví dụ các giấy chứng từ giả mạo, giấy chứng nhận thương tật không đúng với tình trạng thương tật, xử lý không nghiêm các trường hợp có dấu hiệu trục lợi, lừa đảo...). Trong khi đó, giữa các doanh nghiệp bảo hiểm cũng chưa có cơ chế hợp tác, chia sẻ thông tin hoặc phát động các chiến dịch tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân và tranh thủ sự ủng hộ của công luận. Theo nhận xét của giới kinh doanh bảo hiểm, sự hợp tác giữa các cơ quan công quyền với các doanh nghiệp bảo hiểm không được như mong muốn. Có nhiều lý do dẫn đến tình trạng này, song việc nhận thức chưa đầy đủ về nguy cơ và mức độ nghiêm trọng của trục lợi bảo hiểm và những hạn chế khách quan về nguồn lực, các cơ quan bảo vệ pháp luật có xu hướng coi nhẹ hoặc thiếu sự quan tâm thoả đáng đến việc điều tra, truy tố và xét xử các vụ trục lợi bảo hiểm là những nguyên nhân chính. Do đó, trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp bảo hiểm cảm thấy đơn độc trong cuộc chiến chống trục lợi bảo hiểm. III. Một số vụ trục lợi bảo hiểm điển hình xảy ra ở Việt Nam Thời gian gần đây đã xuất hiện nhiều hình thức trục lợi, gian lận bảo hiểm không những ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm mà còn gây tác động xấu tới xã hộ, gây thiệt hại trưc tiếp cho những khách hàng mua bảo hiểm trung thực khác. Theo cách phân loại ở trên thì có 3 nhóm hành vi trục lợi bảo hiểm chính, vì vậy ở đây chúng tôi xin đưa ra 3 ví dụ điển hình, mỗi ví dụ tương ứng với một hình thức trục lợi bảo hiểm với mục đích làm rõ hơn về thực trạng cũng như ảnh hưởng tiêu cực của trục lợi bảo hiểm tới xã hội. 1. Trục lợi bảo hiểm tại công ty bảo hiểm PJICO – “cháy hàng rồi mới mua bảo hiểm” Vụ này điển hình cho nhóm hành vi thứ nhất, cố ý cung cấp thông tin sai sự thật hoặc khai báo không trung thực các thông tin liên quan tới đối tượng bảo hiểm. “Cháy hàng rồi mới mua bảo hiểm” là hình thức trục lợi phổ biến, tổn thất thực tế đã xảy ra chủ sở hữu mới bắt đầu đi mua bảo hiểm. Kiểu trục lợi này thường nảy sinh khi tai nạn, sự cố đã xảy ra khi chủ tài sản chưa tham gia bảo hiểm cho tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết các vụ trục lợi kiểu này chỉ có thể lừa dối thành công khi có sự tiếp tay của các cán bộ, nhân viên làm việc ở công ty bảo hiểm. Vụ việc được phát hiện ơ công ty cổ phần bảo hiểm PJICO mới đây tiêu biểu cho hình thức trục lợi này. Sau đây là diễn biến của vụ việc ở công ty PJICO: a. Từ “người xa lạ” thành “chủ hàng”: Bà Phan Hồng Thu, 45 tuổi trú tại 215 B6 Nguyễn Văn Hưởng, Thảo Điền, Quận 2, Tp HCM là giám đốc công ty Việt Thái Phong (VTP). Bà Thu có chồng là ông Nguyễn Thượng hải, giám đốc công ty TAIFUN GmbH Thụy Sĩ. Ngày 9/10/2002, công ty PIZOLER Thụy Sĩ kí hợp đồng mua 2 lô tôm biển của công ty Sông Tiền, vận chuyển từ cảng TP HCM tới cảng Hamburg (Đức). Về phần thanh toán, công ty PIZOLER sẽ trae tiền lô hàng này cho công ty Sông Tiền qua công ty TAIFUN do ông Nguyễn Thượng Hải làm đại diện. Thực hiện hợp đồng bán tôm, ngày 6/11/2002, lô hàng 14.209,4 kg tôm đã từ cảng TP HCM đến cảng Harmburg an toàn. nhưng lô hàng 15.840 kg rời cảng TP HCM ngày 1/11/2002 thì gặp nạn. khi đến Singapore, hàng được chuyển sang tàu Hanjini Pensylvania vào 8h30 (giờ Việt nam) ngày 11/11/2002, khi đến Colombo thì tàu bị cháy khiến lô tôm bị thiết hại hoàn toàn. Thế nhưng, 14h cùng ngày (tức 6 tiếng sau khi tàu bị cháy), bà Phan Hồng Thu mới đề nghị một nhân viên của công ty Sông Tiền đến chi nhánh PJICO tại TP HCM để mua bảo hiểm cho 2 lô tôm ( trong đó có một lô đã bị cháy). Cho mãi đến chiều ngày 18/11/2002 (tức một tuần sau khi tàu bị cháy), nhân viên công ty Sông Tiền mới nộp phí bảo hiểm. Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Bích Hợp – nhân viên chi nhánh PJICO TP HCM vẫn ghi hoá đơn thu phí bảo hiểm ngày 11/11/2002 tức là trùng với ngày tàu bị cháy. Mặc dù không liên quan gì tới lô hàng tôm của công ty Sông Tiền nhưng bà Phan Hồng Thu đã bày trò gian lận để thụ hưởng lô hàng nói trên. Để chứng minh công ty VTP do bà ta làm giám đốc có đủ tư cách mua và thụ hưởng số tiền bảo hiểm, ngày 31/3/2003 tức là hơn 3 tháng kể từ ngày xảy ra vụ cháy, bà Thu đã cung cấp cho PJICO chi nhánh Tp.HCM hàng loạt các chứng từ gian dối do bà ta tự lập ra. Các chứng từ gian dối này nhằm thể hiện: công ty Sông tiền đã bán 2 lô tôm trên cho công ty TAIFUN của ông Nguyễn Thượng Hải mà công ty VTP đã ký hợp đồng dịch vụ đối với các hợp đồng mua hàng của công ty TAIFUN Việt nam. Ngoài ra, Thu còn tạo ra được một giấy uỷ quyền với nội dung công ty Sông Tiền uỷ quyền cho VTP được toàn quyền quyết định để giải quyết mọi vấn đề liên quan tới lô hàng và được hưởng mọi quyền lợi phát sinh từ lô hàng đó. Về tấm giấy uỷ quyền này, bà Nguyễn Thị ánh-giám đốc công ty Sông Tiền đã khai nhận tại cơ quan điều tra rằng trên thực tế, công ty Sông Tiền không có quan hệ mua bán với VTP. Bà Nguyễn Thị Anh ký giấy uỷ quyền theo đề nghị của vợ chồng Thu chỉ với mục đích nhằm chứng minh việc ông Hải chồng bà Thu có mua hàng của công ty và còn cho công ty nợ tiền mà thôi. b. 1,9 tỉ đồng hối lộ và màn ảo thuật không thành có của các quan tham PJICO. Ngay sau khi công ty VTP có công văn đề nghị được bồi thường bảo hiểm hàng hoá, chi nhánh PJICO tại Tp.HCM đã báo cáo và fax toàn bộ hồ sơ ra Hà Nội cho Phòng Giám định bồi thường giải quyết theo thẩm quyền. Trần Nghĩa Vinh – tổng giám đốc và Hồ mạnh quân – phó tổng giám đốc là người có quyền quyết định giải quyết vụ việc. Với trình độ nghiệp vụ khá sắc sảo, ngay từ ban đầu Vinh và Quân đã nhận ra dấu hiệu trục lợi bảo hiểm của bà Thu trong vụ việc này. Vì thế, Vinh và Quân đã chỉ đạo phòng giám định bồi thường phải kiểm tra việc PJICO Sài Gòn thu phí đối với đơn bảo hiểm ngày 11/11/2002 mặc dù PJICO thu phí ngày 18/11 và điều này được thể hiện ở mặt sau của liên hoá đơn thu phí bảo hiểm, trên hoá đơn thu phí nội bộ và sổ quỹ tiền mặt. Tuy nhiên, Vũ Dương Quý – phó phòng giám định bồi thường vẫn có tờ trình gửi ban giám đốc PJICO xác nhận : “chủ hàng đã yêu cầu cấp đơn bảo hiểm và đã nộp phí bảo hiểm ngay sau khi nhận được đơn bảo hiểm”. Xác nhận này của Quý có nghĩa là chủ hàng đã nộp phí bảo hiểm ngày 11/11 chứ không phải là ngày 18/11 như trên thực tế, đồng nghĩa với việc PJICO không có tài liệu để xác định hợp đồng bảo hiểm là vô hiệu để từ từ chối việc chi trả tiền được bảo hiểm. Nhưng tờ trình này của Quý đã không được các sếp phê duyệt. Hồ Mạnh Quân và Tần Nghĩa Vinh đã đặt bút phê chỉ đạo với nội dung: “Vụ này có nhiều dấu hiệu của trục lợi bảo hiểm, do đó ta không cam kết thanh toán bồi thường mà sẽ chấp nhận ra toà và có biện pháp điều tra nhờ công an kinh tế hỗ trợ”. Đồng thời, Hồ Mạnh Quân cũng kí công văn gửi luật sư Trương Đình Tùng, người được công ty VTP uỷ quyền giải quyết khiếu nại với nội dung: “Công ty VTP không có quyền mua và thụ hưởng bảo hiểm”. Tiếp đó, ngày 22/4/2004 và ngày 30/7/2004, Ngô Hồng Khoa – trưởng phòng giám định bồi thường đã kí công văn gửi công ty VTP với nội dung chính thức từ chối trả tiền bảo hiểm với lí do công ty VTP mua bảo hiểm saukhi tổn thất đã xảy ra gần 6 tiếng. Hai tháng sau khi nhận được công văn từ chối chi trả bảo hiểm của PJICO, bà Thu đã tìm đến văn phòng luật sư Vietrust tại Tp.HCM và trao đổi với luật sư Nguyễn Chúng – trưởng văn phòng về việc Thu có thể chấp nhận chi cho các cán bộ PJICO số tiền tương ứng với 2/10 hoặc 3/10 hoặc 5/10 giá trị được PJICO chi trả. Ngày 21/2/2005, luật sư Nguyễn Chúng bay ra hà nội, gặp Hồ mạnh quân và đặt vấn đề công ty VTP và PJICO mỗi bên được hưởng một nửa tiền bảo hiểm. Sau đó, luật sư Chúng xin gặp Vinh nhưng Vinh nói rằng ông ta khong làm việc qua luật sư mà chỉ làm việc trực tiếp với bà Thu. Ngày hôm sau, bà Thu bay ra Hà Nội và trong cuộc gặp ngày 22/2/2005, Thu đã thống nhất được với Vinh và Quân mức chia 50/50. Thấy có hơi tiền, lập tức Vinh chỉ đạo phòng giám định bồi thường có báo cáo nhanh giải quyết vụ này. Ngày 1/3/2005, theo yêu cầu của phó tổng giám đốc Hồ Mạnh Quân, Phan Hồng Thu bay ra Hà Nội. Khoảng 11h trưa cùng ngày, tại khách sạn Phú Gia, bà Thu đề nghị Quân trả tiền cho Thu để thu rút từ đó ra chi lại cho Vinh Và Quân nhưng Quân không đồng ý khiến Thu đành chấp nhận phương án Thu sẽ chuyển khoản 300 triệu từ Tp.HCM ra để cho cho PJICO trước ngày 3/3/2005. Ngày 2/2, PJICO tổ chức họp các phòng nghiệp vụ và tại cuộc họp này sự việcđã quay ngoắt 180 độ khi thống nhất bồi thường toàn bộ cho công ty VTP. Cũng vào lúc này Thu đã nhận được số tiền 320 triệu chuyển từ Tp.HCM ra qua Vietcombank. Đúng hẹn, chiều ngày 3/3/2005, Thu đã cùng luật sư ra ngân hàng rút tiền và đến giao cho Quân tại phòng làm việc của ông ta trong trụ sở của PJICO ở hà Nội. Số tiền giao cho Quân lần này là 316.200.000 đồng. Chiều 4/3, Thu lại cùng với luật sư mang 1.583.880.000 đồng đến phòng làm việc của Quân đê giao tiếp cho Quân. Như vậy, đúng theo thoả thuận chia 50/50, Thuu đã chuyển cho Quân tổng số tiền là 1,9 tỉ đồng. Về phần mình, công ty VTP ngay sau đó được PJICO chuyển khoản số tiền chi trả bảo hiểm cho lô hàng là 3,8 tỉ đồng. Sau khi nhận được 1,9 tỉ đồng “lại quả” của Thu, ngay cuối giờ chiều 4/3, Quân đã đem 1,1 tỉ đồng sang giao cho tổng giám đốc Trần Nghĩa Vinh tại phòng làm việc của Vinh. Số tiền còn lại Quân hưởng 600 triệu và chi cho một số cán bộ dưới quyền có liên qua mỗi người người 50 triệu. Sau khi điều tra, bộ công an đã khởi tố và bắt tạm giam: Phan Hồng Thu( về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đưa hối lộ), Trần Nghĩa Vinh (tội nhận hối lộ), Hồ Mạnh Quân (tội nhận hối lộ), Vũ Dương quý ( tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng). Hai bị can được tại ngoại là Ngô Hồng Khoa (tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng) và Nguyễn Thị Bích Hợp (tội cố ý làm trái pháp luật). Vụ việc trên cho thấy hành vi trục lợi bảo hiểm đã có những tác động rất xấu tới xã hội như thất thoát tài sản nhà nước, tạo điều kiện cho tham nhũng, hối lộ Tuy nhiên, trong phạm vi môn học, chúng tôi chỉ xin phân tích các vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm mà thôi. Kết quả giám định của Vụ bảo hiểm- Bộ Tài Chính cho biết về tính chất pháp lí đối với hồ sơ mua bảo hiểm hàng hoá của công ty VTP thì đơn bảo hiểm số 362 do PJICO TP HCM cấp cho đơn vị này là vô hiệu ngay từ thời điểm kí kết hợp đồng bảo hiểm” vì đã vi phạm nguyên tắc trung thực tuyệt đối và việc PJICO bồi thường cho công ty VTP là trái với quy định hiện hành. Theo luật thì công ty PJICO không phải bồi thường cho bà Thu vì theo Điều 22 của Luật Kinh doanh bảo hiểm Việt nam thì hợp đồng này là vô hiệu: hợp đồng bảo hiểm được quy là vô hiệu khi: tại thời điểm giao kết hợp đồng, bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy ra hoặc tại thời điểm giao kết hợp đồng đối tượng bảo hiểm không còn tồn tại hoặc bên mua bảo hiểm có hành vi lừa dối hoặc bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể bảo hiểm.. Tuy nhiên, ở vụ việc này không những hàng đã bị cháy rồi mới mua bảo hiểm, nghĩa là đối tượng bảo hiểm đã không tồn tại, sự kiện bảo hiểm cũng xảy ra trước mà bà Thu còn không phải là chủ hàng nhưng vẫn mua bảo hiểm cho lô tôm đó. Đáng lo ngại hơn cả là có “bắt t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5995.doc
Tài liệu liên quan