Đề tài Thực trạng và giải pháp tăng cường tính đầy đủ và tính tin cậy của bằng chứng kiểm toán

MỤC LỤC

Trang

A. Lời nói đầu 1

B. Nội dung 2

1. Khái quát về bằng chứng kiểm toán 2

1. 1. Khái niệm. 2

1. 2. Phân loại bằng chứng kiểm toán. 2

a. Phân loại bằng chứng kiểm toán theo nguồn gốc. 3

b. Phân loại bằng chứng kiểm toán theo loại hình : 4

1. 3. Tính đầy đủ và tính tin cậy của bằng chứng kiểm toán. 5

1. 3. 1. Bằng chứng kiểm toán thu thập được phải có tính đầy đủ. 5

1. 3. 2. Bằng chứng kiểm toán thu thập được phải có tính tin cậy. 6

1. 4. Xét đoán và sử dụng. 8

1. 5. Phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán 9

1.5.1. Phương pháp kiểm tra, đối chiếu. 10

1.5.2. Phương pháp quan sát. 11

1.5.3. Phương pháp thẩm tra và xác nhận. 12

1.5.4. Phương pháp phỏng vấn. 12

1.5.5. Phương pháp tính toán. 13

1.5.6. Phương pháp phân tích. 13

2. Một số bằng chứng kiểm toán đặc biệt tác động đến tính đầy đủ và tính tin cậy. 18

2. 1. Công việc của chuyên gia 18

2. 2. Giải trình của Giám đốc. 19

2. 3. Công việc của kiẻm toán viên nội bộ 20

2. 4. Công việc của kiển toán việc khác 21

2.5. Bằng chứng về các bên hữu quan. 22

3. Thực trạng và giải pháp tăng cường tính đầy đủ và tính tin cậy của bằng chứng kiểm toán. 24

3. 1. Thực trạng. 24

3.2. Giải pháp. 25

C. Kết luận 28

Tài liệu tham khảo 29

doc30 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp tăng cường tính đầy đủ và tính tin cậy của bằng chứng kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chứng đó. Khi xét đoán bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên còn cần kết hợp nhiều loại bằng chứng và mối liên quan của các bằng chứng đó đối với một vấn đề, hay một nhận định để độ tin cậy của các bằng chứng cao hơn và đủ tính thuyết phục. Trường hợp ngược lại, nếu nhiều bằng chứng (từ 2 trở lên) liên quan đến một vấn đề mà có kết quả trái ngược nhau, thì kiểm toán viên cần phải xem xét vấn đề một cách thận trọng để có cơ sở giải thích được sự khác biệt đó bằng cách mở rộng diện điều tra, khảo sát để có khẳng định cuối cùng. Khi bằng chứng kiểm toán chưa thật tin cậy, thì không được sử dụng làm chứng cứ cho những kết luận, vì điều đó có thể dẫn đến những kết luận sai lầm của kiểm toán viên. Khi kiểm toán viên còn có những nghi ngờ nhất định về các bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp, thì cần phải tiếp tục tìm kiếm những bằng chứng đầy đủ và có gía trị để chứng minh hoặc giải toả những nghi ngờ của mình. Nếu trường hợp không thể thu thập đầy đủ những chứng cứ có gía trị, thì kiểm toán viên không thể ghi ý kiến nhận xét hoàn hảo về báo cáo tài chính của doanh nghiệp ( báo cáo kiểm toán chấo nhận toàn bộ). Kiểm toán viên cũng cần phải hết sức thận trọng trong khi xét đoán và sử dụng những bằng chứng có tác dụng khẳng định điều kết luận này nhưng lại phải phủ nhận điều kết luận khác. 1. 5. Phương pháp thu thập bằng chứng kiểm toán Để có thể thu thập được những bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có gía trị, đáp ứng được yêu cầu, kiểm toán viên phải áp dụng các phương pháp kỹ thuật nhất định trong qúa trình thu thập bằng chứng. Tuy nhiên, mỗi cuộc kiểm toán có thể có mục tiêu, đối tượng cụ thể không hoàn toàn giống nhau, các đặc điểm của các doanh nghiệp được kiểm toán cũng khác nhau, do đó kiểm toán viên cần phải vận dụng và kết hợp các phương pháp thu thập bằng chứng phù hợp để có được kết quả như mong muốn. Thông thường các kiểm toán viên áp dụng phương pháp thu thập bằng chứng sau : 1.5.1. Phương pháp kiểm tra, đối chiếu. Là phương pháp thu thập bằng chứng thông qua việc xem xét, rà soát, đối chiếu giữa các tài liệu, số liệu có liên quan với nhau, như đối chiếu giữa các sổ sách kế toán, giữa sổ kế toán với số liệu kiểm kê thực tế, giữa kế hoạch với thực hiện, giữa định mức với thực tế, giữa những quy định và thực hiện… Thông thường bao gồm 2 loại kiểm tra, đối chiếu là kiểm tra vật chất và kiểm tra tài liệu. + Kiểm tra vật chất là qúa trình kiểm kê tài sản hữu hình của kiểm toán viên. Đối tượng kiểm tra vật chất thường là :hàng tồn kho, tài sản cố định hữu hình, tiền mặt tồn quỹ, các chứng khoán đầu tư, phiếu nợ phải thu… Kiểm tra vật chất cung cấp bằng chứng vật chất có độ tin cậy cao nhất. Bởi vì kiểm tra vật chất là qúa trình xác minh tài sản có thực hay không, nó thuộc về khách quan. Tuy nhiên phương pháp nay cũng có những hạn chế nhất định : - Kiểm tra vật chất chưa đủ là bằng chứng chứng minh tài sản hiện có đó thuộc quyền sở hữu của ai, vì có thể tài sản hiện có ở doanh nghiệp nhưng là tài sản đi thuê hay nhận đại lí, hoặc đã bị thế chấp …Do vậy muốn xác minh tài sản thuộc quyền sở hữu của đơn vị hay của người khác thì phải vận dụng cả các phương pháp khác. - Kiểm tra vật chất chỉ cho biết sự tồn tại thực tế về mặt số lượng của tài sản, còn về chất lượng, tình trạng kỹ thuật, tính lỗi thời của tài sản thì chưa đủ căn cứ để phán xét. Hơn nữa, kiểm tra vật chất cho biết là tài sản có được đánh giá đúng hay không. Do đó cần phải vận dụng kết hợp với các phương pháp khác để thu thập bằng chứng có gía trị và tính thuyết phục cao hơn. + Kiểm tra tài liệu là qúa trình xem xét xác minh của kiểm toán viên thông qua việc kiểm tra đối chiếu các chứng từ, tài liệu, sổ kế toán, các văn bản có liên quan đến báo cáo tài chính. Việc kiểm tra, đối chiếu tài liệu, kiểm toán viên có thể tiến hành theo các cách : - Kiểm tra, đối chiếu số liệu, tài liệu liên quan đến nghiệp vụ hoặc vụ việc được chọn làm mẫu kiểm toán hoặc mẫu ngẫu nhiên, việc kiểm tra đối chiếu số liệu có thể tiến hành theo trình tự ghi sổ, tức là từ chứng từ gốc đến sổ kế toán và đến các báo cáo kế toán, hoặc ngược lại từ báo cáo kế toán đến sổ kế toán và đến chứng từ kế toán. Nếu kiểm tra theo trình tự ghi sổ kế toán sẽ cho chúng tabcs là nghiệp vụ phát sinh đều được ghi sổ đầy đủ hay chưa. Ngược lại nếu kiểm tra từ báo cáo kế toán, đến sổ kế toán và cuối cùng kiểm tra chứng từ kế toán sẽ cho bằng chứng là mọi số liệu ghi trên sổ kế toán có phải có đầy đủ chứng từ hay không. - Từ một kết luận có trước, kiểm toán viên thu thập tài liệu làm bằng chứng cơ sở cho kết luận. Theo cách này đã xác định được phạm vi cần kiểm tra, đối chiếu, khi đó kiểm toán viên chỉ kiểm tra, đối chiếu những chứng từ, tài liệu liên quan đến kết luận có trước. Phương pháp kiểm tra tài liệu cho chúng ta những bằng chứng là tài liệu chứng minh. Tài liệu chứng minh là một hình thức bằng chứng được sử dụng rộng rãi trong các cuộc kiểm toán, vì chúng thường sẵn có, mặt khác chi phí để thu thập cũng thấp hơn các phương pháp khác. Đôi khi tài liệu chứng minh có thể là bằng chứng hợp lí duy nhất nếu chúng ta không tìm được các bằng chứng khác. Khi thu thập bằng chứng theo phương pháp kiểm tra tài liệu, kiểm toán viên cần chú ý các vấn đề : - Độ tin cậy của tài liệu chứng minh phụ thuộc nhiều vào nguồn gốc của tài liệu. Nếu sự độc lập của tài liệu thu thập được đối với doanh nghiệp được kiểm toán càng cao thì độ tin cậy của tài liệu chứng minh càng cao. - Đề phòng các trường hợp tài liệu thu thập được dã bị người cung cấp sửa chữa, tẩy xoá, giả mạo …làm mất tính khách quan của tài liệu do vậy cần phải có sự kiểm tra, xác minh thông qua các phương pháp khác. 1.5.2. Phương pháp quan sát. Là phương pháp thu thập bằng chứng thông qua qúa trình kiểm toán viên trực tiếp quan sát, xem xét để đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp. Đó là sự chứng kiến tận mắt các công việc, tiến trình thực hiện các công việc của đối tượng mà kiểm toán viên cần thu thập bằng chứng về họ. Thí dụ, để đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp, kiểm toán viên cần quan sát qúa trình thực hiện các thủ tục kiểm soát nội bộ ở các bộ phận trong doanh nghiệp. Hoặc muốn biết tình trạng máy móc thiết bị, hoặc tính lỗi thời hay không, mẫu mã hàng hoá ra sao ?… Phương pháp quan sát có thể rất hữu ích trong nhiều phần của cuộc kiểm toán, song bản thân nó chưa thể hiện tính đầy đủ, do vậy cần phải kết hợp với các phương pháp khác. Mặt khác, cũng cần lưu ý khi sử dụng phương pháp này là việc quan sát thực tế sẽ cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao, nhưng bằng chứng đó không thể hiện tính chắc chắn ở các thời điểm khác, ngoài thời điểm quan sát. 1.5.3. Phương pháp thẩm tra và xác nhận. Là phương pháp thu thập các bản xác nhận của những người có trách nhiệm, liên quan, am hiểu công việc hoặc đối tượng cần kiểm toán ở trong doanh nghiệp. Thí dụ :xác nhận của người bán về nợ phải trả của doanh nghiệp, xác nhận của ngân hàng về các khoản phải thu của doanh nghiệp, … Việc tiến hành thẩm tra và xác nhận có thể được thực hiện bằng cách kiểm toán viên có văn bản yêu cầu những người liên quan xác nhận thông tin (được viết thànhvăn bản) theo yêu cầu của kiểm toán viên. Không phải tất cả các đối tượng hoặc tình huốnh đều cần bằng chứng xác nhận. Đối tượng của phương pháp xác nhận chủ yếu là các khoản phải thu ;các khoản phải trả, tiền gửi ngân hàng, tài sản ký gửi, ký quỹ, thế chấp… Các bằng chứng thu thập được thông qua phương pháp thẩm tra, xác nhận để có đủ độ tin cậy thì cần phải đảm bảo các yêu cầu : - Thông tin cần xác nhận phải theo yêu cầu của kiểm toán viên. - Sự xác nhận phải thực hiện bằng văn bản. - Sự độc lập của người xác nhận thông tin. - Kiểm toán viên phải kiểm soát được toàn bộ qúa trình thu thập xác nhận bằng chứng. Kiểm toán viên yêu cầu đơn vị lập giấy đề nghị xác nhận và giao cho mình để gửi cho người được yêu cầu xác nhận và yêu cầu họ xác nhận xong thì gửi lại cho kiểm toán viên. Như vậy, qúa trình thực hiện việc xác nhận do kiểm toán viên theo dõi và quản lí có tính độc lập nhất định đối với doanh nghiệp được kiểm toán. Phương pháp thẩm tra, xác nhận cho những chứng cứ tin cậy, nhưng chi phí tương đối lớn, do vậy chỉ những trường hơp cần thiết thì kiểm toán viên mới áp dụng phương pháp này. Tuy nhiên, kiểm toán viên cũng cần phải đề phòng trường hợp các xác nhận của đối tượng độc lập với doanh nghiệp nhưng đã có sự “dàn xếp, đạo diễn” của doanh nghiệp. 1.5.4. Phương pháp phỏng vấn. Phỏng vấn là phương pháp thu thập thông tin của kiểm toán viên thông qua việc trao đổi, phỏng vấn với những người trong đơn vị. Thí dụ, kiểm toán viên cần biết rõ hơn về những quy định của hệ thống kiểm soát nội bộ thì có thể trao đổi với những thành viên quản lí đơn vị, hoặc các nhân viên trong đơn vị về sự hoạt động của các quy chế kiểm soát nội bộ …Hoặc muốn biết phương pháp ghi sổ hay qúa trình kiểm tra các nghiệp vụ kế toán của đơn vị, thì kiểm toán viên có thể phỏng vấn, trao đổi, điêu tra thông qua những người quản lí, những người làm công tác nghiệp vụ … Việc phỏng vấn có thể được thực hiện đáp ứngới dạng vấn đáp hay văn bản. Kỹ thuật phỏng vấn đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu thập thông tin có đủ độ tin cậy và khách quan hay không. Do đó kiểm toán viên cần phải có sự chuẩnhưng bị trước cho sự phỏng vấn. Thông thường qúa trình phỏng vấn gồm 3 giai đoạn :giai đoạn lập kế hoạch, giai đoạn thực hiện phỏng vấn và giai đoạn kết luận. Giai đoạn lập kế hoạch là xác định mục đích, nội dung và đối tượng cần phỏng vấn, thời gian, địa điểm phỏng vấn, những trọng điểm cần phỏng vấn và thảo luận … Giai đoạn thực hiện phỏng vấn, trước hết kiểm toán viên cần cho người được phỏng vấn biết mình là ai và mục đích, lí do của cuộc phỏng vấn …, làm cho đối tượng được phỏng vấn thoải mái trao đổi những trọng điểm đã xác định và trả lời các ccâu hỏi của kiểm toán viên không bị miễn cưỡng hoặc bắt buộc. Kỹ thuật nêu câu hỏi của kiểm toán viên rất quan trọng, câu hỏi ngắn gọn, rõ nội dung và mục đích cần đạt được. Giai đoạn kết luận, thông qua việc phỏng vấn thu được những thông tin cần thiết, kiểm toán viên cần chú ý đến sự khách quan và sự hiểu biết của người được phỏng vấn để có được những kết luận đúng đắn phục vụ tốt cho mục đích kiểm toán. Nếu những kết luận của phỏng vấn có tính chất quan trọng thì kiểm toán viên cần ghi vào hồ sơ kiểm toán của mình. Độ tin cậy của bằng chứng thu thập qua phỏng vấn thường không cao, chủ yếu dùng để củng cố cho các bằng chứng khác, hoặc để thu thập các thông tin phản hồi. 1.5.5. Phương pháp tính toán. Tính toán để thu thập thông tin về các bằng chứng là kiểm tra độ chính xác của số liệu, của việc ghi chép kế toán, hoặc các phép tính của các nhân viên nghiệp vụ, nhân viên kế toán trong qúa trình sử lí chứng từ, ghi sổ kế toán và lập báo cáo kế toán …Thí dụ như tính toán lại các hoá đơn bán hàng, các chứng từ nhập, xuất kho, các sổ kế toán tổng hợp, sổ kế toán chi tiết, việc tính toán phân bổ chi phí giá thành, giá phí… các kiểm toán viên gọi là phương pháp làm lại hay thể thức làm lại. Phương pháp tính toán cung cấp những bằng chứng của có độ tin cậy cao xét theo giác độ số học. 1.5.6. Phương pháp phân tích. Là phương pháp sử dụng qúa trình so sánh các mối quan hệ để xác định tính hợp lí hay không của các số liệu trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Đây là một kỹ năng bao trùm nhất của việc khai thác bằng chứng kiểm toán. Thông qua việc phân tích các số liệu, so sánh các mối quan hệ, kiểm toán viên đánh giá các thông tin tài chính của doanh nghiệp đúng hay còn có vấn đề nghi ngờ. Việc phân tích bao gồm: - Xem xét các bộ phận, khoản mục của báo cáo tài chính hoặc số đáp ứng tài khoản để xác định vấn đề cần thẩm tra. - Nghiên cứu, đánh giá mối liên hệ nội tại giữa các thông tin tài chính khác để có thể phát hiện những sai xót của báo cáo tài chính. Phương pháp phân tích chủ yếu dựa vào qúa trình so sánh các mối liên hệ giữa các thông tin tài chính với nhau hoặc giữa các thông tin tài chính với các thông tin không có tính chất tài chính. Cụ thể bao gồm những so sánh chủ yếu sau: a. So sánh giữa các thông tin tài chính kỳ này với thông tin tài chính kỳ trước. Kiểm toán viên có thể so sánh các chỉ tiêu tài chính trên báo cáo tài chính kỳ này với kỳ trước. Hoặc có thể so sánh giữa số dư hoặc số phát sinh của các tài khoản cần xem xét giữa các kỳ. Mục đích của việc so sánh đó nhằm phát hiện ra những khoản mục, những chỉ tiêu hoặc tài khoản có sự biến động không bình thường để tập trung thẩm tra, xem xét. Thí dụ :Sự tăng đột ngột của chi phí sửa chữa tài sản cố định trên kỳ so với các kỳ trước đó, cần phải xem xét, điếu tra những ssai xót nếu có và xác định nguyên nhân. Hoặc lượng hàng tồn kho tăng đáng kể so với những kỳ trước đó, thì kiểm toán viên cần xem xét đến tỷ số giữa các vòng quay luân chuyển hàng tồn kho giữa kỳ này với kỳ trước có sự biến động lớn hay không và nếu có thì tìm nguyên nhân … Việc so sánh chỉ có thể áp dụng đối với các thông tin có thể so sánh được, tức là các chỉ tiêu hay khoả mục có cùng nội dung và phương pháp tính toán : b. So sánh giữa các số liệu thực tếvs số liệu kế hoạch, dự toán… Thông qua việc so sánh các chỉ tiêu tài chính giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch hoặc dự toán, sẽ giúp cho kiểm toán viên điều tra phát hiện được những sai xót trong báo cáo tài chính hoặc những biến động lớn về sản xuất kinh dónh mà kiểm toán viên cần xem xét, thẩm định. Thí dụ có sự chênh lệch quá lớn giữa gía thành thực tế và giá thành kế hoạch, hoặc hàng tồn kho thực tế với định mức hàng tồn kho, giữa gía trị sản lượng thực tế và kế hoạch … c. So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với các chỉ tiêu bình quân trong ngành. Thông thường, trong phạm vi nhất định thì các chỉ tiêu của các đơn vị cá thể với chỉ tiêu bình quân trong ngành có mối liên hệ tương đồng với nhau. (Như các chỉ tiêu: mức lợi nhuận, hệ số quay vòng vố, giá thành…). Do vậy, kiểm toán viên có thể so sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với chỉ tiêu bình quân của ngành, để phát hiện những sai biệt lớn, không bình thường, không hợp lí. Từ đó sẽ tìm ra những sai sót hoặc giúp cho kiểm toán viên tìm hiểu kỹ hơn về hoạt động của doanh nghiệp. Khi so sánh giữa chỉ tiêu của đơn vị với chỉ tiêu bình quân của ngành cần lưu ý đến nhân tố về quy mô cũng như tổ chức quản lí, phương pháp hạch toán khác nhau giữa các đơn vị trong ngành. Tuy nhiên, khi so sánh cần kết hợp so sánh trong một khoảng thời gian nhất định, chứ không chỉ so sánh ở một thời điểm, để có những kết luận xác đáng hơn Giả sử, so sánh giữa hệ số vòng quay vốn của doanh nghiệp với hệ số vòng quay vốn bình quân của ngành, kiểm toán viên có kết quả: Doanh nghiệp Bình quân ngành 19x4 19x5 19x4 19x5 - Hệ số quay vòng vốn 3, 5 3, 4 4, 1 4, 3 Nếu chỉ nhìn vào hệ số vòng quay vốn của doanh nghiệp trong 2 năm thì thấy rằng doanh nghiệp có vòng quay vốn tương đối ổn định và không có biểu hiện bất thường. Song nếu so sánh với ỷ lệ bình quân của ngành thì tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp có xu hướng xấu đi và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ bình quân của ngành. Trên cơ sở đó, kiểm toán viên sẽ tiếp tục thu thập các bằng chứng cho điều dự đoán trên. Thông qua việc so sánh với ngành để hiểu rõ hơn công việc kinh doanh của doanh nghiệp, thấy được dấu hiệu phát triển hay thất bại về mặt tài chính của doanh nghiệp … Nhưng việc so sánh với ngành cũng có những nhược điểm nhất định là kết quả so sánh đôi khi không được chuẩn xácv nhiều khi không thể hịên được ý nghĩa như mong muốn, bởi vì trong việc bình quân hoá các chỉ tiêu trong toàn ngành đã chứa đựng những yếu tố không đồng đều giữa các đơn vị. d. So sánh số liệu của doanh nghiệp với các kết quả dự kiến của kiểm toán viên. Theo cách so sánh này, kiểm toán viên ước tính số dư của một tài khoản nào đó bằng cách dựa vào số liệu liên quan hoặc một số tài khoản có mối liên hệ với chỉ tiêu ước tính, sau đó kiểm toán viên so sánh số liệu ước tính đó. Nếu có sự khác biệt trọng yếu giữa số liệu ước tính với số liệu thực tế, thì cần được điều tra xem xét để xác định nguyên nhân cụ thể. Thí dụ, khi kiểm toán viên xem xét mức hợp lí của chi phí lãi tiền vay thì có thể vận dụng cách thức so sánh thực tế chi phí tiền vay phát sinh với lãi tiền vay ước tính của kiểm toán viên. Việc đó được tiến hành bằng cách :Trước hết kiểm toán viên có thể ước tính chi phí lãi tiền vay bằng cách nhân lãi suất tiền vay bình quân tháng với số dư cuối tháng của tài khoản tiền vay. Sau đó so sánh với chi phí lãi vay thực tế của doanh nghiệp để tìm sai biệt và đánh giá mức độ trọng yếu của sự sai biệt đó. Việc so sánh đó được thể hiện qua bảng tính toán sau đây: Công ty Milfred. Khảo sát lãi tiền vay đến ngày 31. 12. 19x4 Bảng liệt kê số No 3 ngày… Lập bởi: JL6/3/x5 Phê chuẩn bởi PA12/3/x5 - Chi phí lãi tiền vay trên sổ cái tổng hợp - Qúa trình tính toán ước tính 17. 539 (1) + Vay ngắn hạn. Số dư vào cuối tháng: (2) - Tháng 1 47. 500 - Tháng 2 59. 200 - Tháng 3 70. 600 - Tháng 4 70. 800 - Tháng 5 61. 200 - Tháng 6 43. 700 - Tháng 7 20. 000 - Tháng 8 - - Tháng 9 - - Tháng 10 12. 700 - Tháng 11 26. 400 - Tháng 12 35. 600 Tổng cộng 447. 700 Lãi bình quân 37. 300x14, 5%(3) = 5. 410 + Vay dài hạn - Số dư đầu kỳ 137. 500 (2) -Số dư cuối kỳ 121. 700 (2) Lãi trung bình 259. 200 129600x9, 7% (4) =12. 570 17. 980 Tổng chi phí lãi vay ứơc tính chênh lệch 441 (5) Chú thích: (1)Thống nhất với sổ cái tổng hợp và bảng cân đối tài khoản (2)Lấy từ sổ cái tổng hợp (3)Ước tính tỉ lệ lãi suất dựa trên kiểm tra một số phiếu vay trong năm có mức lãi suất từ 14%đến 15%. (4)Thống nhất với bảng kê vay lãi dài hạn (5)Chênh lệch không đáng kể, như vậy chi phí lãi vay hợp lí Nguồn :Auditing-AlvinA. rens&James K. Loebbecker. e. Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin không có tính chất tài chính Các thông tin không có tính chất tài chính là các dữ kiện kinh tế kỹ thuật do các hệ thống hạch toán cung cấp. Thí dụ như :số lượng công nhân viên;số lượng phòng, giá phòng, hiệu suất phòng của một khách sạn, hoặc diện tích kho chứa hàng của doanh nghiệp …Mặc dù, những thông tin này không có tính chất tài chính, nhưng lại có mối quan hệ với các chỉ tiêu tài chính. Chẳng hạn, khi xem xét tính hợp lí về doanh thu của khách sạn, kiểm toán viên có thể xem xét tính hợp lí của nó so với số lượng phòng, giá phòng và hiệu suất của phòng…Hoặc khi xem xét, thẩm tra quỹ lương, mức lương bình quân, kiểm toán viên sẽ xem xét trong mối quan hệ của nó với số lượng công nhân viên của doanh nghiệp … Dựa trên các cách so sánh (phương pháp phân tích )trên đy để đánh giá các thông tin nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán. Phương pháp phân tích được sử dụng rộng rãi trong các cuộc kiểm toán. Nó được coi là phương pháp có hiệu quả cao vì chi phí thấp, thời gian ít để thu thập bằng chứng, nhưng các bằng chứng lại có tính chuẩn xác, đồng bộ và có gía trị về số liệu kế toán, thể hiện tính bao quát, không bị sa vào các nghiệp vụ cụ thể. Tuy nhiên, khi áp dụng phương pháp phân tích để thu thập bằng chứng, kiểm toán viên cần chú ý : - Mối quan hệ bản chất giữa các chỉ tiêu được so sánh, các chỉ tiêu so sánh phải đồng nhất về nội dung và phương pháp tính, giữa chúng phải có mối quan hệ hoặc mối liên hệ nhất định với nhau. - Những khoản mục hoặc chỉ tiêu trọng yếu không thể chỉ sử dụng phương pháp phân tích để kiểm toán mà cần kết hợp với các phương pháp khác để tìm bằng chứng kiểm toán cho thích hợp. - Nếu kiểm toán trong điều kiện hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém cần thận trọng khi phân tích để tìm bằng chứng kiểm toán nên kết hợp với nhiều phương pháp thu thập bằng chứng khác. 2. Một số bằng chứng kiểm toán đặc biệt tác động đến tính đầy đủ và tính tin cậy. Trong nhiều trường hợp, bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên thu thập chưa đủ tin cậy, để có thể đưa ra ý kiến nhận xét của mình, họ phải thu thập thêm các bằng chứng kiểm toán đặc biệt. Các bằng chứng này được thu thập từ một số đối tượng đặc biệt và được sử dụng trong kiểm toán báo cáo của kiểm toán viên, đó là: 2. 1. Công việc của chuyên gia Do kiểm toán viên không thể am tường tất cả mọi lĩnh vực của xã hội, vì vậy các chuẩn mực kiểm toán cho phép họ được sử dụng ý kiến của các chuyên gia có năng lực, kiến thức và kinh nghiệm cụ thể trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó, ngoại trừ lĩnh vực kế toán và kiểm toán, thí dụ như khi: - Đánh giá tài sản như đất đai và công trình xây dựng, máy móc thiết bị, tác phẩm nghệ thuật, đá quý… - Xác định số lượng hoặc chất tài sản hiện có, như trữ lượng khoáng sản thời gian hữu ích còn lại của máy móc… - Thẩm định các vấn đề có tính chất pháp lý như quyền sở hữu đối với tài sản… - Khi quyết định sử dụng tư liệu của chuyên gia đối với một khoản mục, kiểm toán viên cần nhắc về tính trọng yếu và sự phức tạp của khoản mục này, cũng như khả năng thu thập về các bằng chứng khác cho khoản mục. Để sử dụng kiểm toán viên phải xem xét về: Năng lực của chuyên gia: Thể hiện qua trình độ chuyên môn, bằng cấp, giấy phép hành nghề, sự tham gia vào tổ chức nghề nhiệp, kinh nghiệm và danh tiếng của họ. b) Sự khách quan của chuyên gia: Rủi ro do thiếu khách quan sẽ tăng nếu chuyên gia là nhân viên của đơn vị, hoặc có những mối quan hệ nào đó đối với đơn vị. Trong trường hợp này, kiểm toán viên phải đưa ra yêu cầu cao hơn ở chuyên gia, hoặc tốt nhất là mời một chuyên gia độc lập. c) Thu thập được các bằng chứng đầy đủ và thích hợp để chứng minh rằng phạm vi công việc của chuyên gia đáp ứng được các mục tiêu kiểm toán. Chẳng hạn phải xem xét về mục đích, phạm vi công ciệc của chuyên gia, việc sử dụng tư liệu của chuyên gia, vấn đề bảo mật thông tin, các phương pháp có thể sử dụng… d) Đánh giá công việc của chuyên gia: - Nguồn tư liệu do chuyên gia sử dụng có đầy đủ và thích hợp không? - Phương pháp áp dụng có hợp lý và nhất quán với kỳ trước hay không? - Sự phù hợp về kết quả của công việc của chuyên gia với hiểu biết của kiểm toán viên về hoạt động của đơn vị, và với kết quả của các thủ tục kiểm toán khác. Nếu thoả mãn được các điều kiện trên, tư liệu của chuyên gia có thể được xem như một bằng chứng kiểm toán. Ngược lại, nếu kết quả làm việc của một chuyên gia không phù hợp, hoặc trái ngược với các bằng chứng kiểm toán khác, kiểm toán viên cần giải quyết sự khác biệt này thông qua thảo luận với đơn vị và chuyên gia, hoặc sẽ áp dụng các thủ tục kiểm toán bổ xung, hay có thể phải thuê thêm chuyên gia khác. Nếu những khác biệt này không thể giải quyết được và trọng yếu, kiểm toán viên sẽ đưa ra ý kiến từ chối, chấp nhận từng phần hoặc không chấp nhận. Tuy được sử dụng tư liệu của chuyên gia để làm bằng chứng kiểm toán, nhưng các chuẩn mực kiểm toán vẫn đòi hỏi rằng kiểm toán viên phải là người chịu trách nhiệm sau cùng về ý kiến nhận xét, về báo cáo tài chính được kiểm toán. Vì vậy kiểm toán viên không được tham khảo ý kiến của chuyên gia trên boá cáo kiểm toán để tránh bị hiểu lầm để chia sẽ trách nhiệm. 2. 2. Giải trình của Giám đốc. Kiểm toán viên cần phải thu thập bằng chứng về việc Giám đốc đơn vị được kiểm toán thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc lập trình và trình bày trung thực báo cáo tài chính phù hợp với chuẩn mực kế toán hiện hành và đã phê duyệt báo cáo tài chính. Theo VSA 580 – Giải trình của Giám đốc “Kiểm toán viên phải thu thập được các giải trình của Giám đốc(hoặc người đứng đầu) đơn vị được kiểm toán”. Theo ISA – Những chuẩn mực và nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán Quốc tế cũng qui định “Kiểm toán viên phải thu thập được các bằng chứng về sự thừa nhận trách nhiệm của các nhà quản lý đối với việc lập báo cáo tài chính thích hợp và các nhà quản lý đã phê chuẩn các báo cáo tài chính đó… Bằng cách thu thập các văn bản giải trình của nhà quản lý hoặc các báo cáo tài chính đã được ký”. Giải trình này thường do Giám đốc (hoặc người đứng đầu) đơn vị ký và thường được ghi ngày tháng trùng với ngày ghi trên báo cáo kiển toán, trong đó trình bày tóm tắt các vấn đề quan trọng như: - Báo cáo tài chính được lập và trình bày theo đúng chế độ hay chuẩn mực kế toán hiện hành. - Mọi sổ sách kế toán, tài liệu và các biên bản họp đại hội cổ đông, hội đồng quản trị đã cung cấp đầy đủ cho kiểm toán viên. - Mọi vấn đề cần khai báo theo chuẩn mực hay chế độ kế toán đều đã được khai báo đúng đắn trong phần thuyết minh. Kiểm toán viên không chỉ dựa vào thư giải trình để giảm bớt, hoặc không thực hiện các thủ tục kiểm toán, bởi lẽ thư này là một bằng chứng có giá trị thấp và hoàn toàn không thể thay thế cho các thủ tục kiểm toán cần thiết. Thư giải trình có tác dụng là: - Nhắc nhở các nhà quản lý về các trách nhiệm của họ đối với báo cáo tài chính. - Lưu hồ sơ kiểm toán về những vấn đề đã trao đổi giữa hai bên. - Là bằng chứng kiểm toán trong một số trường hợp nhất định. Thí dụ như là bằng chứng duy nhất về ý định của Giám đốc là sẽ thực hiện một khoản đầu tư trong tương lai. Tuy có giá trị thấp, nhưng giải trình của Giám đốc vẫn là một quyết định quan trọng. Do đố khi đơn vị từ chối cung cấp, kiểm toán viên có thể đánh giá lá phạm vi kiểm toán bị giới hạn và đưa ra

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35621.doc
Tài liệu liên quan