Đề tài Tìm hiểu về một số lễ hội ở Việt Nam

Trung thu là giữa mùa thu, Tết Trung Thu như tên gọi đến với chúng ta vào đúng giữa mùa thu tức là vào rằm tháng Tám âm lịch. Tết Trung Thu là tết của trẻ em.

Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn mầu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.

Trẻ em đón tết có đèn xếp, đèn lồng, đèn ông sao, đèn con giống. sặc sỡ thắp sáng kéo nhau đi từng đoàn ca hát vui vẻ, tối tối cùng nhau đi nhởn nhơ ngoài đường, ngoài ngõ. Và khi rằm tới, có những đám múa sư tử với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Trong dịp này, để thưởng trăng có rất nhiều cuộc vui được bày ra. Người lớn có cuộc vui của người lớn, trẻ em có cuộc vui của trẻ em.

 

doc46 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2469 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về một số lễ hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tình, hàng Long Vân, hang Cá. Trên cao có hang Hồng Sự, hang Sũng Sàm, hang Trú Quân, động Tiên, động Tuyết, động Hương Tích. Con người đến với thiên nhiên bằng tấm lòng bè bạn, đặt tên cho động, cho hang rồi xây chùa, lập điện tôn thành những chùa động hang độc đáo, tạo nên cái thiêng cái đẹp. Để rồi lại chính con người thăm viếng, ngưỡng mộ thờ phụng và hưởng thụ thành quả về miền thành tín của mình. Hang động ở Hương Sơn là yếu tố cấu thành quan trọng để quần thể Hương Sơn trở thành danh thắng nổi tiếng và đặc thù của quần thể này. Cả 3 tuyến du lịch (Hương Tích, Long Vân, Tuyết Sơn) đều khai thác các vị trí trong đá để thu hút khách. Tuyến thứ nhất gọi là tuyến Hương Tích. Khách chủ yếu đi tuyến này bởi vì ở tuyến này những gì đặc sắc nhất đều tập trung ở đó. Bắt đầu từ bến đò Yến Vĩ - Suối Yến - đền Trình Ngũ Nhạc - cầu Hội - chùa Thanh Sơn chùa Hương Đài - chùa Thiên Trù - chùa Hinh Bồng - chùa Tiêu - chùa Giải Oan - đền cửa Võng và cuối cùng vào trong Hương Tích. Bến Đục là nơi tập kết để vào chùa Hương. Khách theo dòng suối Yến bập bềnh vào cõi tiên, lên khỏi đò cách chừng hơn nửa km là đền Trình. Ngôi đền này thờ Sơn Thần, và mùng 6 tháng Giêng lễ mở cờ rừng được cử hành trọng thể tại đây để người trần gian xin phép thần rừng được vào rừng bái lễ và làm ăn sinh sống. Tiếp tuyến đường là đến bến Trò, tức là bến đò chùa Thiên Trù nằm lọt giữa một thung lũng xinh đẹp. Chặng đường tiếp, theo lối lên gập ghềnh vào chùa, trong có lối rẽ vào Chùa Tiên, đó là một hang động thoáng rộng. Trong chùa Tiên có vô số những pho tượng bằng đá và nhũ đá. Khi gõ lên nghe như tiếng chiêng, tiếng khánh và có một pho tượng trong suốt như thủy tinh hồng khi đặt ngọn đèn phía bên kia tượng. Hành trình tiếp đến chùa Giải Oan, trong khu vực chùa có giếng nước mang tên giếng Giải Oan, tương truyền xưa kia Đức Phật đõ tâty trầm tại Giếng nước này. Những di tích đậm màu sắc Phật như am Phật tích, đông Tuyết Quỳnh … dẫn dắt giúp du khách quen với cảnh thâm u của đất trời. Đến động Hương Tích (tức là chùa Trong) du khách được chiêm ngưỡng những nhũ đá - tác phẩm tuyệt mỹ mà tạo hóa phải thầm lặng hàng triệu năm bồi hoàn mới thành khối, thành hình lạ lùng đến thế, Tương truyền trong động này, Đức Phật Bà đã tu hành đắc đạo. Sau đó các La Hán cũng tu luyện nơi đây. Một hệ thống các tạo tác nghệ thuật do những nghệ sĩ vô danh tài ba để lại trong hang động, tiêu biểu nhất là tượng Phật Bà Quan Âm. Phật Bà có hình dáng một thiếu nữ, khuôn mặt trái xoan, cổ cao ba ngấn, đầu đội mũ Bồ Tát. Phật Bà ngồi lên tảng đá trông tựa gốc cổ thụ, chân như để hờ lên một bông sen độ nở. Đây là pho tượng khá đẹp, nét chạm rắn rỏi mà thanh thoát. Hình tượng Phật Bà thật gần gũi với người lao động... Phía trong cùng hang động, có đường "lên trời" và cả lối xuống "địa phủ”. Tuyến thứ hai là tuyến Tuyết Sơn. Đò cũng xuất phát từ bến Yến, đưa khách đến thăm đền Trình. Ngắm nhìn sông nước, khách lần lượt thấy núi Thuyền Rồng, núi con Phượng... cho tới bến Tuyết Sơn. Trong động Tuyết Sơn có nhũ đá nhủ xuống, trùng trập hiện ra coi như vảy rồng. Trên ngọn núi có tượng Phật bằng đá, lai có những cây thông mọc từng hàng coi như một dãy tán. Cảnh trí xanh tối âm u (thích trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú). Tuyến thứ ba là tuyến Long Vân, đò cũng xuất phát từ bến Yến, đi thăm đền Trình (Phú Yên) rồi rẽ sang một nhánh của suối Yến để tới chùa Long Vân. Lên thuyền vào chùa Long Vân, rồi leo núi thăm động cùng tên. Đi nữa đến chùa Cây Khế và cách đó chừng vài trăm mét là hang Sũng Sâm - một di chỉ khảo cổ lưu dấu tích của người xưa. Từ đó có thể thấy rằng không phải ngẫu nhiên các bậc thánh thơ của nhiều thời đại đã tìm đến Hương Sơn và để lại nhiều bài thơ hay, lắng sâu trong trái tim bạn đọc. Những bài thơ ấy sống mãi với thời gian và góp tiếng nói đưa Hương Sơn trở thành danh thắng không chỉ của một vùng mà còn là của cả nước. Do đó, tuy du khách đến chùa Hương có nhiều mục đích khác nhau nhưng mục đích tích cực nhất là đến chùa Hương đồng nghĩa đến với cái đẹp. Điều đó đã phản ánh sự khao khát của con ngưòi hướng tới cái đẹp để tự hoàn thiện bản thân mình. Yếu tố này tạo nên sắc thái văn hóa du lịch của chùa Hương. Theo cuốn Nam Hải Quan Thế âm - một truyện Nôm ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII - XIX thì chùa Hương là nơi lưu dấu tu hành của công chúa Diệu Thiện, con vua Diệu Trang Vương nước Hưng Lâm. Dân gian quen gọi công chúa Diệu Thiện là Bà chúa Ba. Bà tu hành chín năm ở động Hương Tích đắc đạo trở thành Đức Quan Thế âm bồ tát. Sau trở về diệt trừ cái ác, đáp hiếu cha mẹ, phổ độ chúng sinh. Phật thoại truyền miệng còn phong phú hơn. Theo các cụ bô lão làng Phú Yên (làng quản lý tuyến Tuyết Sơn) kể: khi mãnh hổ cõng Bà Chúa Ba đến núi Hương Sơn, ban đầu bà tu hành ở chùa Hỏa Quang - nay là nền đình làng Phú Yên, sau đó bà lên núi để tĩnh tâm, tu hành ở động Tuyết Sơn, ít lâu sau bà ngược hướng Bắc tu ở động Hương Tích. Các cụ ở làng Yến Vĩ thì kể : Khi Ngọc Hoàng sai thần linh hóa hổ đến cứu bà Diệu Thiện, vì quyết chí tu hành không tuân theo lời cha nên bị vua sai lính giết, mãnh hổ cõng bà vào núi Hương Sơn. Chỗ bà xuống đầu tiên là hang Thánh Mẫu, còn gọi là am Phật Tích, tương truyền trong hang còn dấu một bàn chân bà in trên đá. Ở đây, bà sang một vũng nước trong hang bên cạnh tắm gội rửa nỗi oan ức bụi trần. Chỗ đó sau thành chùa Giải Oan có giếng Giải Oan. Người xưa quan niệm ai oan ức điều gì thành kính đến nơi đây lễ Phật, uống nước ở giếng Giải Oan coi như đã giải được nỗi uẩn khúc trong lòng. Câu chuyện về bà chúa Ba là câu chuyện nhà phật sáng tác dựa trên các kinh điển đạo Phật. Nam Hải Quan Thế Âm bồ tát là biểu tượng đẹp đẽ của sự chân tu giữ đạo cứu đời, trở thành hình tượng gần gũi, thân thương, cảm thông sâu sắc nỗi bất hạnh của con người và dân chúng. Việc lưu truyền Phật thoại về bà chúa Ba và hang Phật Tích ở nơi thờ Tam Phủ đã khẳng định sự thắng thua của đạo Phật ở đất Hương Sơn. Ở đó, Phật hiện thân trong tín ngưỡng thờ đá mà người dâm quen gọi là bụt mọc. Sức mạnh huyền diệu của Phật pháp đồng nhất với linh hồn thiêng liêng trong những cây đá, nhũ đá sẽ truyền cho các tín đồ niềm tin, tăng thêm sức mạnh cho mỗi người. Lạ thay, chốn bồng lai tiên cảnh, lại thể hiện khát vọng rất thực của cuộc đời, cầu mong sự sinh sôi nảy nở, ước mong cuộc sống đầy đủ. Nhà nông cầu mong mình làm ruộng gạo vun lên thành đụn gạo trắng như ngọc, người buôn bán mong sao có lẽ, có lời, tiền của như cây vàng, cây bạc. Ai muốn con trai thì xoa đầu núi cậu, ai ước con gái thì xoa đầu núi cô. Còn người bệnh thì tin rằng những giọt nước rớt tí tách từ bầu sữa tiên (vú mẹ) sẽ trợ thêm sức mạnh cho người mau khỏe… Đó thực là những tín ngưỡng của người lao động. Nơi đây không có chỗ cho những ai cầu vinh hoa danh vọng, chức tước, quyền hành. Những yếu tố trên đây cho thấy, dưới góc độ văn hoá dân gian, lễ hội chùa Hương mang màu sắc hội cầu may. Lễ hội chùa Hưng trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn. Xã Hương Sơn là xã sở tại trực tiếp quản lý các tuyến du lịch. Trước khi vào chùa, du khách phải nghỉ lại ở các làng quanh bến Đục, bến Yến. Vì thế đi hội chùa Hương du khách dễ có dịp hòa mình vào không khí của hội làng truyền thống. Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Trong lúc chạy đàn, hai vị tăng ni múa rất dẻo và đẹp mắt qua những động tác ít thấy ở mọi nơi. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Vòng là "chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngổn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần. Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho. Những tính chất tôn giáo có phần bị tình yêu thiên nhiên, tinh yêu nam nữ, tình cảm cộng đồng… tràn đầy chất thẩm mỹ vừa thanh cao, rất trần tục lấn đi. Trẩy hội chùa Hương vì cả tâm hồn và thể xác đều được đắm sâu vào trong mây ngàn cỏ nội. Ngày hội, làng tổ chức rước thần từ đền ra đình. Cờ trống đi trước dàn nhạc bát âm kế theo, trai thanh gái lịch phù kiệu, ông già bà cả thành tâm tiễn thần. Không khí ấy làm tâm linh mọi người sảng khoái. Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc. điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng. Trong suốt những ngày hội là sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, là sự thành kính của các bậc cao niên, là sự hoan hỷ mà nam phụ lão ai ai cũng có phần riêng của mình. Cả ở những triền núi thấp cao, những rừng cây, rừng mơ… là những đoàn người trẩy hội. Kẻ đi ra, người đi vào, kẻ đi lên, người đi xuống bồng bềnh vào những đám mây nhẹ. Họ gặp nhau, quen hay không quen cũng vui vẻ chào nhau bằng một lời chào: "Nam mô a di đà Phật" nhẹ nhàng. đằm thắm và ấm áp…Du khách đến chùa Hương sẽ có dịp được chứng kiến và may mắn tham dự vào không khí sinh hoạt văn hóa của lễ hội. Cảm nhận tinh thần thiên nhiên của ngày hội lịch sử ấy để từ đó hồi âm về quá khứ của tổ tiên ở một làng quê ven chân núi. Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn …Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc vào non tiên cõi Phật. Chính vì vậy, nói đến chùa Hương là nghĩ đến con đò - một dạng của văn hóa thuyền của cư dân Việt ngay từ thuở xa xưa. Và đến nay, ngày hội bơi thuyền ở chùa Hương luôn tạo cảm hứng mãnh liệt cho người đi hội. Rời con thuyền, giã từ sông nước, con người được hòa nhập vào núi vãn cảnh chùa chiền và bắt đầu hành trình mới - hành trình leo núi. Leo núi chơi hang, chơi động lý thú vui nước đông đảo mọi người tham gia và hưởng ứng. Vì vậy mà leo núi Hương Sơn dẫu có mệt nhưng có cảnh có người và có không khí của ngày hội nên ai cũng cảm thấy thích thú với cuộc chơi sông núi của mình. Cuộc leo núi ấy tạo ra trong con người tâm lý kỳ vọng, muốn vươn lên đến cái đẹp. Và sự kỳ vọng cái đẹp hẳn sẽ làm cho con người thêm phần sảng khoái tin yêu cuộc đời này hơn. Trong không khí linh thiêng của ngày hội. Ở bất cứ chỗ nào như sân chùa, sân nhà tổ, hình thức hát chèo đò đều được thực hiện. Các vãi có giọng hay đứng dậy làm động tác chèo đò và hát những đoạn văn trên sáu dưới tám liên quan đến tích nhà Phật. Đây là một sinh hoạt rất được các vãi hâm mộ. Có thể thấy, trẩy hội chùa Hương không chỉ dừng lại ở chốn Phật đài hay bầu trời - cảnh bụt, mà trước hết là do ở sự tiếp xúc - hòa nhập huyền diệu giữa con người trước thiên nhiên cao rộng. Đó là vẻ đẹp lung linh của sông nước, bao la của đất trời, sâu lắng của núi rừng, huyền bí của hang động… Và dường như đất - trời, sông núi đẹp hơn nhờ tài sáng tạo hình tượng - trí tưởng tượng này lòng nhân ái của con người. Quan niệm lưỡng hợp biểu hiện ở thế đối ứng hai hiện tượng, hai phạm trù khác nhau mà bên nhau, làm cho cuộc hành trình về nơi thờ Phật dù có lúc vất vả nhưng vẫn đem lại sự cân bằng trong tâm thức và thể lực cho du khách. Tổng thể thắng cảnh chùa Hương còn là biểu hiện của sự hòa hợp tự nhiên giữa tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Trẩy hội chùa Hương là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và tục - thực là nền tảng, mơ là uất vọng - trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà con người Việt Nam chất phác, nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và trao truyền. 2.4. Lễ hội Đền Hùng Giỗ Tổ Hùng Vương - từ rất lâu đã trở thành ngày Giỗ trọng đại của cả dân tộc; đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đất Cội nguồn - xã Hy Cương - Lâm Thao - Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam. Từ ngàn đời nay Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Video giới thiệu Lễ Hội Đền Hùng, do Trung Tâm Hợp Tác Báo Chí Quốc Tế - Bộ Thông Tin & Truyền Thông sản xuất Người Việt Nam may mắn có chung một đạo, Đạo thờ cúng Ông Bà. Người Việt Nam còn may mắn hơn nữa khi có chung một Tổ để hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân. Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng. Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba: “Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba” Ngày này cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng. Tổ tiên người Việt luôn muốn nhắc nhở con cháu: ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ và chức năng của mình, giữ đúng kỷ cương vua ra vua, cha ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống thiêng của dân tộc, gởi gắm trong biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng. Thông qua ngày giỗ Tổ, Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Đó là nỗi lo muôn thuở, là tấm lòng bao dung, tha thiết, rộng mở của Chư Tổ còn vang vọng mãi khắp núi sông: "Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu". Cây có gốc. Nước có nguồn. Chim tìm tổ. Người tìm tông. Trở về Đền Hùng, chúng ta như giọt máu trở về tim. Lễ hội Đền Hùng là lễ hội truyền thống của dân tộc Việt Nam, và có một đặc thù riêng là: Phần lễ nặng hơn phần hội. Tâm tưởng người về dự hội là hướng về tổ tiên, cội nguồn với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Ẩm hà tư nguyên - Uống nước nhớ nguồn). 41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Từ ngàn xưa, trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới. Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)... Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch ) hàng năm. Những năm hội chính thì phần lễ gồm: Tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. Có 41 làng được rước kiệu từ đình làng mình tới Đền Hùng. Đó là những cuộc hành lễ thể hiện tính tâm linh và nhân văn sâu sắc. Các kiệu đều sơn son thếp vàng, chạm trổ tinh vi, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với sự tham gia của các thành phần chức sắc và dân chúng trong tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, đu tiên, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ... và đặc biệt là các đêm hát xoan, hát ghẹo - hai làn điệu dân ca độc đáo của vùng đất Châu Phong. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của dân tộc ta. Kế tục truyền thống cao đẹp của cha ông, nhất là đạo đức "uống nước nhớ nguồn" nên giỗ Tổ Hùng Vương 1946 - sau khi Chính phủ mới được thành lập - là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ. Năm ấy, cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước, đã thay mặt Chính phủ VNDCCH lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng. Cụ mặc áo the, khăn xếp, khấn vái theo lễ tục cổ truyền. Cụ còn trang trọng dâng lên bàn thờ tấm bản đồ Việt Nam và thanh kiếm là hai vật báu nói lên ý chí của Chính phủ và nhân dân ta trước họa xâm lăng đang đe dọa trở lại. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, do chiến tranh ác liệt nên việc đèn hương nơi mộ Tổ do nhân dân vùng quanh Đền Hùng đảm nhiệm. Kháng chiến thắng lợi với thiên sử vàng Điện Biên Phủ (7-5-1954), ngày 19-9-1954, tại Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã căn dặn cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản thủ đô: "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn dặn cũng là lời hứa quyết tâm ấy của vị đứng đầu đất nước, dân tộc đã được thực hiện vào mùa xuân 1975: Sau 30 năm gian khổ hy sinh, nhân dân ta đã quét sạch bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi, giang san thống nhất, quy về một mối vẹn toàn. Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một gốc gác tổ tiên - một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, nửa theo cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc, nghĩa đồng bào và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam. Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa. Từ trong ý thức tâm linh cả dân tộc luôn hướng về: "Nước mở Văn Lang xưa Dòng vua đầu viết sử Mười tám đời nối nhau Ba sông đẹp như vẽ Mộ cũ ở lưng đồi Đền thờ trên sườn núi Muôn dân đến phụng thờ Khói hương còn mãi mãi". Lịch sử như một dòng chảy liên tục. Trải mấy nghìn năm, trước bao biến động thăng trầm, trong tâm thức của cả dân tộc, Đền Hùng vẫn là nơi của bốn phương tụ hội, nơi con cháu phụng thờ công đức Tổ tiên. Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng, mà tìm vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển từng đến thăm viếng Đền Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam... Đền Hùng là một di tích vô giá của nhân dân Việt Nam. Đây là biểu tượng của tổ tiên dân tộc Việt Nam - một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm". Về lễ hội Đền Hùng, thành phố Việt Trì (từ ngày 6/3 - 10/3 âm lịch); du khách không chỉ được xem chọi gà mà còn được thưởng thức các trò diễn dân gian như rước kiệu, múa lân, sư tử, kéo co, đu tiên, đấu vật, cờ người … và các loại hình dân ca truyền thống (hát xoan, hát ca trù, hát chèo cổ). Điểm nhấn của Lễ hội Hùng Vương là tổ chức các hoạt động văn hoá như triển lãm ảnh nghệ thuật, tổ chức hội chợ, triển lãm giới thiệu sách; tổ chức biểu diễn của các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp... Đặc biệt, rất nhiều người quan tâm tới Hội thảo khoa học xác định tiêu chí xây dựng hồ sơ khoa học "Không gian văn hoá Hùng Vương" để đề nghị công nhận là di sản văn hoá thế giới. Ngoài ra, trong dịp lễ hội còn có các hoạt động vui chơi tại Khu di tích lịch sử đền Hùng (từ tháng giêng - 6/3 âm lịch), các hoạt động phục vụ giỗ Tổ Hùng Vương (6/3 - 10/3 âm lịch) và các hoạt động mừng lễ hội trên cả 13 huyện, thị, thành. Trò “Bắt trạch trong chum” xã Tiên Du (Phù Ninh) trong ngày hội văn hóa các dân tộc tỉnh. Lễ hội dân gian cổ truyền ở vùng đất cội nguồn dân tộc rất phong phú, đa dạng, khá nhiều lễ hội có nguồn gốc lịch sử từ xa xưa. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, lễ hội dân gian cổ truyền ở vùng đất Tổ giữ một vai trò rất đặc biệt trong kho tàng lễ hội dân gian Việt Nam, nó mang đậm bản sắc dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn biểu thị tinh thần đại đoàn kết cộng đồng các dân tộc. Lễ hội ở đây phần lớn là hội làng song nhiều lễ hội mà tầm ảnh hưởng của nó lan tỏa trong một vùng rộng lớn, lễ hội Đền Hùng mang tính cả nước được kết tinh từ nét đẹp các hội làng của vùng đất Tổ.  Về cội nguồn lễ hội ở đây là lễ hội nông nghiệp, tuy nhiên trong tiến trình lịch sử, lễ hội dần mang ý nghĩa xã hội lịch sử và văn hóa phong phú. Nó giữ một vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng đặc biệt ở vùng nông thôn.  Khảo cứu lễ hội ở vùng đất Tổ ta dễ tìm thấy lễ hội nông nghiệp mang tính thuần túy, trong lễ hội lễ thức, tục lệ gắn với nghề nông của người Việt cổ. Trước hết phải kể đến lễ thức trình nghề mà mỗi nơi có tên gọi riêng như trò tứ dân, trò bách nghệ khôi hài thường được tổ chức vào dịp đầu xuân để cầu phúc cầu may cho nghề nghiệp. Hội làng Tứ Xã ở xóm Trám trong lễ thức trình nghề dân làng tổ chức rước “lúa thần”. “Lúa thần” là một cụm lúa giống hạt mập căng có đoàn người đi rước với các vai người vác cày, người dệt vải, thợ mộc, thầy đồ, học trò, người đi buôn… vừa đi vừa làm các động tác nghề nghiệp hát những câu về nghề và diễn các động tác khôi hài để gây cười. Hoặc lễ hội rước ông Khiu bà Khiu ở Thanh Đình, biểu hiện rất rõ ý niệm phồn thực rất phổ biến trong nghi lễ và phong tục của các cư dân nông nghiệp lúa nước xuất phát từ quan niệm giao hòa âm - dương/ đực – cái ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây lúa, mùa màng. Hội vào mùa xuân thường trình diễn các lễ nghi trò diễn mang tính phồn thực. Đó là trò cướp kén (kén làm theo hình dương vật và âm hộ gắn vào nhau) của dân lang Dị Nậu và Hương Nha huyện Tam Nông giữa cửa sân đình, ai cướp được tin rằng năm đó mình được may mắn, được mùa, sinh con đẻ cái: “Ai cướp được con kén chày kình Ấy thực nam đinh công hầu bá tước Ai mà cướp được con kén mo dài Ấy thực tài cung phi hoàng hậu Con con, cháu cháu tử thịnh tôn đa Ấy là dân ta thịnh người, thịnh vật”. Trò hú tùng dí vừa rước cụm lúa, nắm xôi vừa làm theo động tác múa dí dương vật - âm vật vào nhau theo nhịp trống “tùng”. Trò nam nữ, trẻ già trong hội xô đẩy, đùa cợt nhau gọi là hội chen với mong  ước “già mạnh khỏe, trẻ dẻo dai, của đồng làm ra, của nhà làm nên’’,  trò “Bắt trạch trong chum’’ ở xã Tiên Du huyện Phù Ninh nam nữ một tay quàng vai, một tay bắt trạch trong chum vừa đùa nghịch nhau vừa hát huê tình. Phổ biến nhất trong hội xuân là hát giao duyên trai gái: Hát Xoan ở Kim Đức, An Thái, hát Ghẹo ở Thanh Uyên, Nam Cường, Thục Luyện, Hùng Nhĩ... Ở Phú Thọ nhiều hội làng truyền thống khá đặc sắc trong đó phần nghi thức lễ được đặc biệt chú trọng: Lễ rước tiếng hú ở Chu Hóa, lễ cúng cung tên ở Phú Lộc, lễ đánh cá thờ ở Đào Xá, lễ gọi vía lúa ở Thanh Uyên, Đồng Lạc; lễ rước cầu ở Bạch Hạc, lễ cúng củ mài cùng mật ong ở Hương Nộn... đã phản ánh khá rõ đặc trưng tín ngưỡng bản địa với hoàn cảnh địa lý và điều kiện sinh hoạt của mình. Đây là bóng dáng còn lại của thời kỳ Hùng Vương (săn bắt và hái lượm). Lễ hội liên quan đến tín ngưỡng cổ xưa ở vùng đất Tổ. Do nhận thức còn hạn chế, người nông dân xưa rất tin vào trời, đất, sông, núi. Ở các làng thường có miếu thờ thiên thần, thờ nhân thần, thủy thần, sơn thần và một số làng đã tôn các vị thần ấy làm thành hoang làng. Lễ hội dân gian cổ truyền ở Phú Thọ đã phản ánh hiện tượng đó khá sâu sắc. Lễ tế thần nông, lễ hạ điền (xuống đồng) được dân chúng quan tâm và họ tin rằng trời, đất, sông, núi đã che chở cho sự tồn tại và phát triển của mình. Người làm nghề nông rất cần nước, cần nắng để làm ăn. Lễ rước nước ở Văn Lang (Hạ Hòa) mở đầu cho các ngày hội với mục đích để tắm tượng thần và rửa đồ tế khí nhưng đây cũng là hình thức cầu mùa của cư dân trồng lúa nước. Lễ gọi vía lúa, lễ khai cung... xuất phát từ ý thức cầu nguyện mùa màng tốt tươi, việc săn bắn được thuận lợi. Tín ngưỡng “uống nước nhớ nguồn”  là một đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Lễ hội Đền Hùng vào mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm biểu hiện đầy đủ truyền thống đó: “Dù ai đi ngược, về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba Khắp miền truyền mãi câu ca Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”. Vào dịp lễ hội, hàng chục vạn đồng bào cả nước nô nức hành hương về Đền Hùng thắp nén hương thơm tưởng nhớ công ơn dựng nước của các Vua Hùng, tổ tiên cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nét đẹp truyền thống đạo lý đó đã trở thành ý thức hệ văn hóa tinh thần và tín ngưỡng dân tộc độc đáo: Thờ cúng ông bà, tổ tiên trong dòng họ và thờ cúng tổ tiên chung của cộng đồng. Đền Hùng và lễ hội Đền Hùng trở thành biểu tượng và điểm hội tụ tâm linh biểu thị tinh thần đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Lễ hội là hoạt động của một tập thể người. Không có con người tham gia tổ chức thì không thành hội được. Ngoài ra còn phải kể đến sự đóng góp ngưỡng mộ của người xem thì hội mới càng thêm kết quả. Nếu như lễ được tổ chức có tính quy phạm nghiêm ngặt ở chốn đình chung thì trái lại hội là nơi sinh hoạt dân dã phóng khoáng diễn ra trên bãi sân để dân làng cùng bình đẳng vui chơi với hàng loạt trò diễn do mình chủ động tham gia. Đến hội mọi người dân được vui chơi thỏa thích không bị ràng buộc bởi lễ nghi, tôn giáo, đẳng cấp và tuổi tác. Sau những n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMôn cơ sở văn hóa_Tìm hiểu về một số lễ hội ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan