Đề tài Tìm hiểu về phân tích kỹ thuật và ứng dụng một số chỉ báo cơ bản với thị trường Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I:LÝ THUYẾT CHUNG VỀ PHÂN TÍCH KỸ THUẬT 2

1.1.LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT. 2

1.2.KHÁI NIỆM PHÂN TÍCH KỸ THUẬT. 2

1.3. CÁC GIẢ ĐỊNH TRONG PHÂN TÍCH KỸ THUẬT. 2

1.4.CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA PHÂN TÍCH KỸ THUẬT. 3

1.4.1. Lịch sử hình thành lý thuyết Dow. 4

1.4.2. Những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Dow. 4

CHƯƠNG II: MỘT SỐ CHỈ BÁO CƠ BẢN VÀ ỨNG DỤNG PHÂN TÍCH CỔ PHIẾU Ở VIỆT NAM. 10

2.1. ĐƯỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG (Moving Average _ MA). 10

2.1.1.Khái niệm đường trung bình động 10

2.1.2. Cách sử dụng đường trung bình động 12

2.2. CHỈ SỐ CƯỜNG ĐỘ TƯƠNG ĐỐI (RSI) 15

2.2.1. Khái niệm: 15

2.2.2. Phương pháp tính 15

2.2.3.Quy tắc giao dịch 15

2.3. HỘI TỤ VÀ PHÂN KỲ CỦA ĐƯỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG (MACD) 19

2.3.1. Khái niệm: 19

2.3.2. Phương pháp tính: 19

2.3.3.Quy tắc giao dịch 20

2.4. DẢI BOLLINGER 21

2.4.1. Khái niệm 21

2.4.2. Cách xác lập dải Bollinger 21

2.4.3.Cách sử dụng dải Bollinger 21

2.5. ÁP DỤNG 4 CHỈ BÁO SMA, RSI, MACD, DẢI BOLLINGER CHO CỔ PHIẾU GMD TRONG GIAI ĐOẠN SẮP TỚI 23

KẾT LUẬN 24

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về phân tích kỹ thuật và ứng dụng một số chỉ báo cơ bản với thị trường Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu về phân tích kỹ thuật,nhưng hai lý thuyết được sử dụng phổ biến nhất là lý thuyết Dow và lý thuyết Sóng.Bài viết này chỉ tập trung vào phân tích một số nghiên cứu của lý thuyết Dow trong phân tích kỹ thuật. 1.4.1. Lịch sử hình thành lý thuyết Dow. Lý thuyết Dow được đặt tên theo tên của Charles Dow, chủ bút đầu tiên của tờ thời báo phố Wall và là người sáng tạo ra khái niệm chỉ số trung bình của thị trường, ngày nay được biết đến dưới cái tên Chỉ số trung bình Dow Jones. Lý thuyết Dow là cơ sở đầu tiên cho mọi nghiên cứu kỹ thuật trên thị trường chứng khoán. Dow đã đưa ra khái niệm chỉ số trung bình thị trường khi nhận thấy giá của hầu hết các cổ phiếu lên ,xuống cùng với sự biến động của thị trường. Có thể coi lý thuyết Dow là một lý thuyết khởi đầu trong các kỹ thuật liên quan đến giá và khối lượng giao dịch bởi vì đây là một trong những lý thuyết xuất hiện sớm nhất và cho đến nay vẫn là nền tảng của nhiều chỉ báo kỹ thuật. 1.4.2. Những nguyên tắc cơ bản của lý thuyết Dow. 1.4.2.1. Trung bình giá thị trường không phụ thuộc vào yếu tố nào Giá cả của các chứng khoán trên thị trường biến động một cách ngẫu nhiên chỉ phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường. 1.4.2.2.Thị trường luôn có 3 luồng vận động Có 3 luồng vận động của mức giá trung bình của thị trường, tất cả có thể diễn ra ngay lập tức và cùng một thời điểm. Luồng vận động thứ 1, và cũng là quan trọng nhất, là xu hướng chính của thị trường: xu hướng vận động đi lên hoặc xuống với biên độ rộng được gọi là thị trường giá lên và thị trường giá xuống. Xu hướng này có thể tồn tại một vài năm. Luồng vận động thứ 2, luồng vận động dễ gây hiểu lầm nhất, chính là luồng phản ứng điều chỉnh phụ của thị trường:một đợt giảm giá đáng kể trong thị trường mà xu hướng chính là lên giá hoặc ngược lại trong 1 thị trường gía xuống. Thường thì những phản ứng như vậy kéo dài từ 3 tuần đến vài tháng. Luồng vận động thứ 3, và thường là không quan trọng, chính là sự biến động của giá theo ngày. Đồ thị biểu diễn các luồng vận động chủ yếu Giá trung bình thời gian thị trường giá lên thị trường giá xuống */Luồng vận động chủ yếu Luồng vận động này là nội dung trọng tâm của Lý thuyết Dow Nói chung luồng vận động chủ yếu là xu hướng chính có biên độ rộng, được biết đến với tên gọi là thị trường bò hay thị trường gấu, có thể kéo dài trong khoảng thời gian vài năm. Hoạt động đầu cơ muốn thành công phụ thuộc rất nhiều vào việc xác định đúng hướng cuả luồng vận động này. Chưa có phương pháp nào dự báo được luồng vận động chủ yếu này của thị trường diễn ra trong bao lâu. Thị trường bò là thị trường có xu hướng chủ yếu là đi lên có biên độ rộng, bị gián đoạn bởi một xu hướng phụ có hướng ngược lại và trung bình thường kéo dài lâu hơn 2 năm. Trong suốt quá trình này, giá cổ phiếu đi lên bởi nhu cầu mua của cả nhà đầu tư lẫn nhà đầu cơ khi hoạt động kinh doanh phát triển và hoạt động đâu cơ trở nên sôi động . Thị trường gấu là thị trường có xu hướng chủ yếu là đi xuống có biên độ rộng, bị gián đoạn bởi xu hướng phụ đáng kể có xu hướng ngược lại. Nguyên nhân là do những điều kiện kinh doanh khó khăn và xu hướng này sẽ kéo dài cho đến khi giá cổ phiếu giảm đến mức thấp nhất. */Luồng vận động phụ Giá trung bình thị trường giá lên thị trường giá xuống Thời gian biến động giá phụ Luồng vận động phụ là một sự phản ứng phụ của thị trường, đó là một sự đi lên đáng kể trong một thị trường giá xuống và ngược lại: một sự đi xuống đáng kể trong một thị trường giá lên. Xu hướng này tồn tại khoảng từ vài tuần đến vài tháng Trong suốt quá trình diễn ra xu hướng phụ,nó khiến giá lệch từ 33% đến 66% so với giá trong xu hướng chính kể từ khi kết thúc lần điều chỉnh giá cuối cùng Những phản ứng điều chỉnh giá của thị trường hay những xu hướng phụ này khiến người ta hiểu nhầm là xu hướng chính đã thay đổi. */ Dao động giá hàng ngày thị trường giá lên thị trường giá xuống Theo lý thuyết dao động hàng ngày của giá không đóng vai trò quan trọng trong việc xác định xu hướng biến động của toàn bộ thị trường. (*) Một vài dấu hiệu nhận biết để xác định giai đoạn đang diễn ra của thị trường: Chỉ số Giá trên thu nhập trung bình của thị trường Mức cổ tức trung bình của thị trường Phản ứng của thị trường đối với các tin tức Mức độ huy động vốn mới và mức độ phát hành lần đầu ra công chúng Các xu hướng của thị trường(xu hướng lên hoặc xuống) Mức độ tham gia của công chúng vào thị trường Mức độ quan tâm của các phương tiện truyền thông chính đối với thị trường-truyền hình ,báo chí,và internet. Số lượng các nhân viên mô giới ,các hoạt động củng cố hoặc phá sản,và mối quan tâm đối với các khách hàng riêng Mức độ hoạt động ,tuyển dụng nhân lực,thua lỗ trong kinh doanh…..trong nền kinh tế. 1.4.2.3. Luồng vận động chính có 3 giai đoạn phát triển. Ba giai đoạn phát triển này chính là các phản ứng của thị trường thông qua việc nghiên cứu các đồ thị biểu diễn các mức giá trung bình của thị trường.Nhưng không thể nào xác định chính xác được vì thời điểm khởi đầu và kết thúc của mỗi giai đoạn phát triển luôn giao thoa với nhau.Theo lý thuyết,ba giai đoạn phát triển của luồng vận động chủ yếu có thể được biểu diễn dưới dạng đồ thị như sau: thị trường giá lên thị trường giá xuống đầu cơ Tăng thu nhập tự tin hết hy vọng giảm thu nhập buộc phải bán Ba giai đoạn phát triển của thị trường giá lên Giai đoạn đầu tiên cho thấy việc người đầu tư lấy lại niềm tin vào tương lai của thị trường; Giai đoạn thứ 2 là phản ứng của giá khi có thông tin làm ăn có lãi của các công ty ,và: Giai đoạn thứ 3 là giai đoạn khi hoạt động đầu cơ vượt ra khỏi vòng kiểm soát và lạm phát xảy ra –giai đoạn giá cổ phiếu tăng vì có sự kỳ vọng của các nhà đầu tư. Ba giai đoạn phát triển cuả xu hướng thị trường giá xuống Giai đoạn đầu tiên cho thấy nhà đầu tư không có kỳ vọng vào thị trường do cổ phiếu được mua với giá bị thổi phồng. Giai đoạn thứ 2 phản ánh hoạt động bán do có sự sụt giảm lợi nhuận trong kinh doanh của các công ty,và; Giai đoạn 3 diễn ra là do người ta bán ra ồ ạt các chứng khoán làm giá sụt giảm nhanh chóng . 1.4.2.4. Xác định xu hướng Xu hướng thị trường lên giá diễn ra khi ta thấy trên đồ thị có một đỉnh cao hơn và một một điểm đáy cao hơn. Xu hướng thị trường lên giá kết thúc khi ta thấy trên đồ thị có một đỉnh thấp hơn và sau đó là 1 điểm đáy thấp hơn. Xu hướng thị trường xuống giá diễn ra khi ta thấy trên đồ thị một điểm đỉnh thấp hơn và sau đó là một điểm đáy thấp hơn. Xu hướng thị trường xuống giá kết thúc khi ta thấy trên đồ thị xuất hiện một điểm đáy cao hơn và sau đó là một điểm đỉnh cao hơn. 1.4.2.5. Khối lượng giao dịch cũng là một dấu hiệu khẳng định xu hướng Các nhà phân tích kỹ thuật xem xét sự thay đổi về khối lượng giao dịch cùng với diễn biến giá như là một chỉ báo về thay đổi quan hệ cung-cầu đối với một số chứng khoán nào đó hoặc các cổ phiếu nói chung. Sự thay đổi giá cổ phiếu theo hướng nào đó thể hiện các nhân tố ảnh hưởng,nhưng chỉ riêng thay đổi vể giá thì chưa phản ánh quan hệ cung-cầu tại thời điểm đó.Vì vậy ,các nhà phân tích kỹ thuật thường tìm kiếm một sự tăng giá kèm theo khối lượng giao dịch tương đối lớn so với khối lượng giao dịch thông thường như là một chỉ báo về xu hướng giá lên ,còn nếu giá giảm kèm theo khối lượng giao dịch lớn đồng nghĩa với xu thế giá xuống. Các nhà phân tích kỹ thuật cũng sử dụng tỷ lệ khối lượng giao dịch Giá lên/giá xuống như là một chỉ báo ngắn hạn của thị trường nói chung. Khối lượng giao dịch của các cổ phiếu tăng giá và khối lượng giao dịch của các cổ phiếu giảm giá được coi là một thước đo về trạng thái tâm lý của người đầu tư và sử dụng nó để xác định quan hệ cung-cầu trên thị trường. Khối lượng giao dịch là một đại lượng đo mức độ của giao dịch trên TTCK.Có một số cách để đo lường khối lượng ,dựa vào số liệu có được trên thị trửờng : Khối lượng giao dịch được tính bằng số lượng thực tế chứng khoán được giao dịch trong một khoảng thời gian nào đó. Đây là đại lượng tốt nhất để đo khối lượng nếu số liệu đó có sẵn trên thị trường Cách khác để xác định là dựa trên giá trị các chứng khoán được giao dịch trong 1 khoảng thời gian nhất định.Cách này được sử dụng chủ yếu cho các chỉ số thị trường,khi mà tỷ trọng vốn hoá có thể khiến cho ngta hiểu sai về số lượng chứng khoán. Khi không có số liệu về số lượng hay giá trị chứng khoán được giao dịch ,số lượng các giao dịch được thực hiện có thể được sử dụng thay thế.Một trong những bất lợi của việc sử dụng dữ liệu này là nó không phản ánh đúng tỷ trọng của một giao dịch 10000 chứng khoán với giao dịch chỉ có 100 chứng khoán. Các nhà phân tích có thể sử dụng “bước nhảy về khối lượng”(tick volume)là số lần thay đổi về giá trong suốt khoảng thời gian đó .Thay đổi về giá là một đại lượng cơ bản để đo lường cường độ giao dịch. Lý thuyết Dow đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc phân tích cổ phiếu, đặt nền tảng cho việc so sánh chiến lược xác định thời điểm của thị trường với chiến lược “mua và nắm giữ”trong đầu tư chứng khoán. CHƯƠNG II MỘT SỐ CHỈ BÁO CƠ BẢN VÀ ỨNG DỤNG PHÂN TÍCH CỔ PHIẾU Ở VIỆT NAM. Trong vài thập kỉ phát triển của phân tích kỹ thuật, người ta đã đưa ra rất nhiều dấu hiệu, chỉ báo để phân tích và đánh giá các xu hướng dựa trên sự biến động của giá và khối lượng. Đã có rất nhiều các chỉ báo được đưa ra và ngày càng được hoàn thiện, tuy nhiên có thể chia làm hai loại dấu hiệu cơ bản : Dấu hiệu dự báo xu hướng thị trường và đà dao động giá. Thứ nhất, dấu hiệu dự báo xu hướng thị trường là một nhóm các dấu hiệu được sử dụng để xác định xu hướng thị trường một các khách quan. Mục đích của việc sử dụng nhóm này là nhằm xác định sự mở đầu và kết thúc của các xu hướng thị trường. Thứ hai, đà dao động của giá là một nhóm các dấu hiệu thị trường được sử dụng để đo lường tốc độ biến động của giá cả. Các dấu hiệu này được coi là các dấu hiệu dẫn đường hoặc dấu hiệu ngẫu nhiên, chúng đựoc thiết kế nhằm phát hiện những giao động của giá trong phạm vi một khoảng giao động giá hay trong phạm vi của một xu hướng. Mục đích là để xác định thời điểm giao dịch khi giá thay đổi do việc định giá quá cao hay quá thấp. Bài phân tích này tập trung vào một số chỉ báo cơ bản như : đường trung bình động (Moving Average - MA), hội tụ và phân kì của đường trung bình động ( Moving Average Convergence Divergence - MACD), chỉ số cường độ tương đối (Relative strength Index- RSI), dải Bollinger … 2.1. ĐƯỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG (Moving Average _ MA). Phân tích kĩ thuật cổ điển tiếp cận với khái niệm về xu huớng giá thông qua điểm cận trên (điểm giá cao) và điểm cận dưới (điểm giá thấp) trong pha thời gian ngắn hạn; cũng như các đỉnh và đáy trong pha thời gian dài hạn. Với cách tiếp cận này, người ta sử dụng dấu hiệu chỉ báo là đường xu hướng giá. Tuy nhiên phương thức này mang tính chủ quan cao, do đó các nhà phân tích chuyển hướng sang nghiên cứu xu hướng giá theo phương thức toán học. Đường trung bình động là công cụ rất quan trọng của phương thức này. 2.1.1.Khái niệm đường trung bình động 2.1.1.1. Khái niệm - Mục đích - Phân loại: Đường trung bình động là một dấu hiệu dự báo xu hướng thị trường được xác định bằng giá trị trung bình của mức giá đóng cửa trong một khoảng thời gian nhất định, tại các thời điểm khác nhau. Mục đích của đường trung bình động là giản lược dữ liệu về giá đóng cửa bằng cách xây dựng một đường đồ thị biểu hiện xu hướng giá. Thay vì lập đồ thị giá trực tiếp cho từng kỳ giao dịch, giá đóng cửa trung bình cho một số kỳ giao dịch nhất định được tính toán và đưa vào đồ thị. Có 4 loại đường trung bình động : đường trung bình động giản đơn (SMA), đường trung bình động tuyến tính có trọng số, đường trung bình động tính theo hệ số mũ, đường trung bình động biến đổi (VMA). Trong phần nghiên cứu này chỉ nghiên cứu về đường trung bình động giản đơn. 2.1.1.2. Cách xây dựng đường trung bình động Để thiết lập đường trung bình động 5 kỳ, chúng ta cần dữ liệu giá cả cho tối thiểu 5 kỳ. Khi có đủ số liệu của 5 kỳ đầu tiên, ta sẽ xác định được điểm đầu tiên của đồ thị đường trung bình động. Dưới đây là bảng ví dụ: Kỳ Giá đóng cửa Tổng 5 kì cuối Trung bình của 5 kì cuối 1 100 - - 2 102 - - 3 106 - - 4 104 - - 5 102 514 102,8 (= 514/5) Để tính trung bình động của kì thứ 6, có hai cách: - Cách 1: cộng giá đóng cửa từ kì thứ 2 đến kì thứ 6, sau đó chia cho 5. - Cách 2: Lấy tổng của 5 kì trước, trừ đi giá trị của một kỳ, sau đó chia cho 5. Kỳ Giá đóng cửa Tổng 5 kì cuối Trung bình của 5 kì cuối 6 108 522 104,4 hoặc 106 514-100+108 = 522 104.4 Với những kì xảy ra tiếp theo, chúng ta sẽ làm tương tự như trên. VD: Kỳ Giá đóng cửa Tổng giá của 5 kì cuối Trung bình của 5 kì cuối 1 100 - - 2 102 - - 3 106 - - 4 104 - - 5 102 514 102,8 6 108 522 104,4 7 110 530 106 8 113 537 107,4 9 119 552 110,4 10 114 564 112.8 Sau khi tính toán được các giá trị của đường trung bình động, người ta sẽ xây dựng được đồ thị của đường trung bình động và sử dụng đồ thì này cùng với đồ thị về giá đóng cửa để tiến hành phân tích. 2.1.2. Cách sử dụng đường trung bình động 2.1.2.1. Sử dụng một đường trung bình động Nguyên tắc sử dụng đường trung bình động: khi có xu hướng giá lên, đường trung bình động có xu hướng lên trễ hơn đường giá; khi đường xu hướng giá lên kết thúc và bắt đầu xu hướng giá xuống thì giá có xu hướng chuyển xuống thấp hơn và nằm dưới đường trung bình động trễ. Điều này có nghĩa đường trung bình động được coi như một dấu hiệu dự báo xu hướng thị trường. Căn cứ vào dấu hiệu này có 3 trường hợp xảy ra: - Đường trung bình động đi lên, chúng ta đang ở xu hướng tăng giá - Đường trung bình động đi xuống, chúng ta đang ở xu hướng giảm giá - Đường trung bình động nằm ngang chúng ta không ở xu hướng nào cả mà nằm trong khoảng giao động giá. Nguyên tắc là chúng ta chỉ sử dụng đường trung bình động để giao dịch khi thị trường có xu hướng rõ ràng , còn khi thị trường nằm ngang không theo xu hướng thì tốt nhất nên dùng công cụ khác ( công cụ đo đà giao động giá chẳng hạn). Chính vì vậy khi sử dụng đường trung bình động chúng ta thực hiện theo quy tắc sau: - Chỉ thực hiện mua khi đường trung bình động di chuyển lên trên - Chỉ thực hiện bán khi đường trung bình động di chuyển xuống dưới Theo quy tắc này thì chúng ta có thể thực hiện một kế hoạch giao dịch như sau: - Mua tại điểm đường đồ thị giá cắt đường trung bình động theo hướng từ dưới lên trên. Tất toán giao dịch mua khi đường giá cắt đường trung bình động từ trên xuống dưới - Bán tại điểm đường giá cắt đường trung bình động theo hướng từ trên xuống dưới. Tất toán giao dịch bán khi đường giá cắt đường trung bình động theo hướng từ dưới lên trên. Kế hoạch này được minh hoạ trong hình vẽ sau Giá Bán Đường giá Đường MA Mua Ta thực hiện phân tích cổ phiếu của CTCP Đại lý liên hiệp vận chuyển (GMD) để thấy rõ hơn những dự báo này trong những biến động của xu hướng giá theo chỉ báo SMA. Hình 1 cho ta thấy biểu đồ giá của GMD trong 3 tháng trở lại đây(từ giữa tháng 10/2006 đến giữa tháng 1/2007).Ta sử dụng đường SMA 9 ngày và đường giá đóng cửa của GMD. Nhìn vào đồ thị ta thấy trong tháng 10 đường giá của GMD không có biến động lớn, đường SMA và đường giá dao động gần nhau, đường giá vẫn nằm trên SMA.Sang tháng 11,bắt đầu có những biến động rõ nét hơn. Đường giá bắt đầu chuyển động lên trên đường SMA,kèm theo khối lượng tăng dần,thể hiện dấu hiệu của xu hướng tăng giá.Theo dấu hiệu này ta nên tiến hành mua vào.Trên thực tế giá của GMD đã liên tục tăng từ mức 90.000đ/cp (đầu tháng 11/2006) lên đến mức xấp xỉ 160.000đ/cp vào giai đoạn cuối tháng 11.Khối lượng giao dịch liên tục tăng mạnh. Sau giai đoạn giá tăng đến mức xấp xỉ 160.000đ/cp,ta thấy giá cổ phiếu bắt đầu giảm, đường giá đi xuống và cắt đường SMA.Thể hiện xu hướng bán ra. Hình1 Nguồn:www.ssi.com.vn 2.1.2.2. Sử dụng hai đường trung bình động: Khi sử dụng một đường trung bình động, chúng ta thường gặp phải một vấn đề là rất khó xác định thời điểm đưòng giá cắt đường trung bình động. Để giải quyết vấn đề này, người ta có thể sử dụng các "bộ lọc" hoặc sử dụng hai đường trung bình động. Phần này chỉ đề cập đến phương pháp sử dụng hai đường trung bình động. Theo phương pháp này người ta sẽ sử dụng hai đường trung bình động với hai độ dài một kỳ phân tích là khác nhau (như ví dụ trên , ta sử dụng độ dài kỳ phân tích là 5 ngày). Đường trung bình động có độ dài kỳ phân tích ngắn hơn được gọi là đường trung bình nhanh, đường trung bình động có độ dài kỳ phân tích dài hơn được gọi là đường trung bình chậm. Đường trung bình nhanh được sử dụng thay cho đường giá thô. Quy tắc sử dụng hai đường trung bình động tương tự như quy tắc sử dụng một đường trung bình động, trong đó đường trung bình động nhanh được sử dụng thay thế cho đường giá: - Khi đường trung bình động nhanh cắt đường trung bình chậm theo hướng từ dưới lên thì thực hiện mua vào. - Và thực hiện bán ra khi đường trung bình nhanh cắt đường trung bình chậm theo hướng từ trên xuống. Hình 2 cho ta ví dụ về sử dụng 2 đường SMA: đường trung bình nhanh là đường SMA 5 ngày, đường trung bình chậm là đường SMA 20 ngày. Vẫn với ví dụ về GMD như trên, ta thấy dấu hiệu của hai đường trung bình động chậm hơn dấu hiệu khi sử dụng một đường trung bình động tuy nhiên dấu hiệu này chính xác hơn khi xác định điểm bán muộn hơn do vậy khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn. Qua ví dụ này ta có thể thấy một nguyên tắc khi sử dụng đường trung bình động, đó là: với kỳ thời gian càng dài thì đường trung bình phản ứng với biến động giá càng chậm tuy nhiên lại đem đến dấu hiệu chính xác hơn. Hình2 2.2. CHỈ SỐ CƯỜNG ĐỘ TƯƠNG ĐỐI (RSI) 2.2.1. Khái niệm: Chỉ số cường độ tương đối được Welles Wilder xây dựng để đo lường đà dao động của giá. Đây là một công cụ khá phổ biến với các nhà phân tích kỹ thuật. 2.2.2. Phương pháp tính Welles Wilder đã sử dụng công thức sau để tính điểm đầu tiên của đường RSI. (*) A: giá đóng cửa trung bình tăng của n ngày B :giá đóng cửa trung bình giảm của n ngày RSI nằm trong khoảng (0, 100). Khi RS = 0 thì RSI = 0 Khi RS = ∞ thì RSI = 100. Để tính được RS cho các điểm tiếp theo, Wilder đã sử dụng cách tính sau: (a) Để có được mức giá đóng cửa trung bình tăng tiếp theo,ta nhân mức giá đóng cửa trung bình tăng trước đó với (n-1),cộng kết quả này với mức giá đóng cửa tăng của ngày hôm nay, rồi chia cho (n). (b) Để có được mức giá đóng cửa trung bình giảm tiếp theo, ta nhân mức giá đóng cửa giảm trước đó với (n-1),rồi cộng kết quả này với mức giá đóng cửa giảm của ngày hôm nay, rồi chia cho (n). (c ) Chia (a) cho(b) ta được giá trị RS của điểm tiếp theo.Thay vào công thức (*)để tính RSI. 2.2.3.Quy tắc giao dịch 2.2.3.1.Khái niệm sử dụng trong quy tắc giao dịch: a, Mức mua quá lớn và bán quá lớn. RSI biến động trong khoảng 0 đến 100. Khi RSI dưới 30 tạo thành mức bán quá lớn, ngược lại RSI trên 70 tạo thành mức mua quá lớn. -Trong xu hướng giá tăng, RSI biến động chủ yếu ở mức mua quá lớn nó hiếm khi dao động sang bên bán quá lớn -Tương tự như vậy, trong một xu hướng giảm, RSI biến động chủ yếu ở mức bán quá lớn, hiếm khi dao động sang mức mua quá lớn. b, Phân kì: Phân kì xảy ra khi giá đạt đỉnh mới hoặc đáy mới nhưng đà dao động không đạt đỉnh mới hoặc đáy mới tương ứng mới tương ứng. - Phân kì thị trường giá lên xuất hiện vào cuối giai đoạn giảm và có một dự báo về thị trường giá lên. - Phân kì thị trường giá xuống xuất hiện vào cuối giai đoạn tăng và có một dự báo về thị trường giá xuống. Tuy nhiên độ tin cậy của phân kì rất nguy hiểm nên phải sử dụng kết hợp với các công cụ khác. Người ta thường sử dụng phân kì như một dấu hiệu cảnh báo sớm hoặc bằng chứng xác nhận thêm về khả năng thay đổi trong xu hướng. C, Các dao động thất bại. Hình dưới đây cho thấy các dạng của dao động thất bại: 100 70 điểm thất bại điểm thất bại 30 0 -Dạng 1: Đỉnh tăng thứ hai thấp hơn đỉnh tăng thứ nhất sau đó RSI giảm xuống thấp hơn vùng lõm giữa hai đỉnh -Dạng 2: Đáy thứ hai cao hơn đáy thứ nhất, sau đó RSI tăng cao hơn đỉnh giữa hai đáy. Một dao động thất bại có giá trị là đỉnh đầu tiên phải nằm trên mức 70, đáy đầu tiên phải năm dưới mức 30. Dao động thất bại không sử dụng như một dấu hiệu riêng tách tách rời mà phải kết hợp với các dấu hiệu khác để khằng định xu hướng. 2.2.3.2. Qui tắc giao dịch. -Quy tắc 1: Mua vào khi RSI xuống dưới đường bán quá lớn và hướng lên trên đường đó. Quy tắc này được thể hiện rõ trên biểu đồ giá của VNM trong khoảng 5 tháng (từ tháng 5/2006 đến tháng 10/2006).Giá của VNM cũng theo xu hướng giá xuống của thị trường trong khoảng tháng 7,tháng 8. Mức giá đi xuống vùng bán quá lớn lần thứ nhất vào khoảng cuối tháng 6 và lần thứ hai vào khoảng cuối tháng 7, đầu tháng 8. Dấu hiệu để mua vào được đánh dấu ở điểm A, B sau khi RSI vượt qua vùng bán quá lớn . Tuy nhiên mua ở điểm B tốt hơn vì sau đó là một xu hướng tăng giá mạnh hơn. Hình3 -Quy tắc 2: Bán ra khi RSI tăng trên đường mua quá lớn và đang giảm lại xuống phía dưới đường đó. Hình4 Trong hình trên chúng ta vẫn sử dụng biểu đồ GMD 3 tháng (từ tháng 10/2006 đến tháng 1/2007).Giá GMD tăng liên tục trong giai đoạn này từ mức 90.000đ/cp lên đến đỉnh ở mức 156.500đ/cp.Mức giá bắt đầu lên trên vùng mua quá lớn vào đầu tháng 11,và liên tục ở trên vùng mua quá lớn trong suốt tháng 11. Đến cuối tháng 11 có xu hướng giảm,kèm theo một khối lượng giao dịch lớn. Dấu hiệu để bán được đánh dấu ở điểm A, khi mà RSI đi qua vùng bán quá lớn và đang giảm xuống dưới mức đó.Tuy nhiên, đây chỉ là một biến động giả tạo trong xu thế giá lên của GMD. -Quy tắc 3: Mua vào trên các phân kì thị trường giá lên, khi vùng lõm đầu tiên nằm dưới mức 30. Nếu phân kỳ hình thành một dao động thất bại, đó chính là dấu hiệu mạnh hơn.. Hình 5 Hình 5 cho thấy một phân kì thị trường giá lên trong giai đoạn đầu tháng 8/2006,giá VNM có xu hướng đi xuống trong ngắn hạn, đỉnh bán quá lớn thứ hai ở mức cao hơn đỉnh bán quá lớn thứ nhất và RSI có xu hướng đi lên từ vùng bán quá lớn,vượt qua đường 30 từ phía dưới lên, và liên tục tiến lên đường 70. Do đó theo quy tắc thì chúng ta nên mua vào tại điểm A. Và trên thực tế, đã có một đợt tăng giá liên tục đến đầu tháng 9 của VNM. -Quy tắc 4: Bán ra trên các phân kỳ thị trường giá xuống khi đỉnh đầu tiên nằm trên mức 70. Nếu phân kỳ hình thành nên một dao động thất bại, nó chính là một dấu hiệu mạnh hơn. Ta tiếp tục xét sự biến động giá của VNM trong giai đoạn từ tháng 3/2006 đến tháng 7/2006 để thấy được ví dụ về sự phân kỳ thị trường giá xuống. Hình 6 Hình 6 là đồ thị VNM, ta có thể thấy phân kì thị trường giá xuống vào giai đoạn cuối tháng 4,trong giai đoạn đây là một dấu hiệu mạnh tồn tại cùng với một dao động thất bại ở điểm A. Dấu hiệu rất rõ ràng vì thế B là cơ hội tốt để bán cổ phiếu ra. 2.3. HỘI TỤ VÀ PHÂN KỲ CỦA ĐƯỜNG TRUNG BÌNH ĐỘNG (MACD) 2.3.1. Khái niệm: MACD là một loại dấu hiệu dự báo thị trường kép, bởi vì bản thân nó là một công cụ đo độ dao động giá nhưng lại được sử dụng như là một phương tiện cơ bản để xác định các xu hướng giao dịch trên thị trường. MACD được xác định dựa trên các đường trung bình động. Nó chính là khoảng cách giữa hai đường trung bình động. MACD dao động không giới hạn và không được xem như là một dấu hiệu thị trường mua quá mức hoặc bán quá mức. 2.3.2. Phương pháp tính: Đường MACD được xác định như sau: Bước 1: Xác định theo hàm số mũ 12 kỳ của giá đóng cửa. Bước 2 :Xác định theo hàm số mũ 26 kỳ của giá đóng cửa. Bước 3 :Lấy khoảng chênh lệch giữa đường trung bình động 12 kỳ và 26 kỳ. Đây là đường MACD cơ bản. Bước 4 :Xác định đường trung bình động theo hàm số mũ 9 kỳ giá đóng cửa từ đường MACD đã tính được ở bước 3. Đây là đường tín hiệu. Như vậy, phương pháp MACD bao gồm đường MACD cơ bản và đường tín hiệu. 2.3.3.Quy tắc giao dịch MACD chỉ thực sự hữu ích đối với việc xác định các xu hướng giao dịch. Quy tắc 1:Thực hiện giao dịch mua vào khi đường MACD cơ bản cắt đường tín hiệu từ dưới lên.Tất toán giao dịch mua khi đường MACD thể hiện tín hiệu thị trường bán ra. Hình7 Trong hình 7, ta thấy trong giai đoạn đầu tháng 11/2006, với đồ thị cổ phiếu GMD, đường MACD cơ bản cắt đường tín hiệu theo hướng từ dưới lên, báo hiệu một xu hướng tăng giá, lúc này nên tiến hành giao dịch mua vào. Nhìn vào đồ thị ta cũng thấy rằng sau đó giá tăng đi kèm với khối lượng giao dịch lớn. Quy tắc 2: Bán ra khi đường MACD cắt đường tín hiệu từ trên xuống.Tất toán giao dịch bán khi đường MACD có dấu hiệu mua vào. Cũng vẫn theo đồ thị hình 7, ta thấy và thời điểm cuối tháng 11, đầu tháng 12, giá cổ phiếu GMD có xu hướng giảm, đường MACD cơ bản cắt đường tín hiệu theo hướng từ trên xuống. Theo quy tắc 4 thì ta nên thực hiên bán ra tại điểm này để tránh thua lỗ. Tuy nhiên, nhìn vào đồ thị ta thấy vào giai đoạn đầu tháng 12 thị trường vẫn còn rất nhập nhằng, trong giai đoạn này tốt nhất là kết hợp mua vào bán ra một cách hợp lý và phải kết thúc giao dịch mua, tiến hành bán ra ở điểm C. Dấu hiệu này cũng cho kết quả tương từ như ta sở dụng hai đương trung bình động để phân tích. 2.4. DẢI BOLLINGER 2.4.1. Khái niệm Dải Bollinger được đặt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0872.doc