Giáo án Ngữ văn 7 - Bài 26: Sống chết mặc bay

* Mức độ đam mê cờ bạc của quan phủ:

- Địa điểm: Gần kề nơi dân chúng phòng chống lụt: “đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chắc.” trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao.

- Không khí, quang cảnh: "tĩnh mịch", "trang nghiêm", "nhàn nhã", "đường bệ", "nguy nga", “đèn thắp sáng trưng” (phản ánh uy thế của viên quan phủ với nha lại, tay sai).

- Đồ dùng sinh hoạt cho tên quan phủ trong khi đi "hộ đê" sang cả, quý phái: bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau bạc, rễ tía. (chứng tỏ một cuộc sống hưởng thụ đến tận cùng, quý phái, rất cách biệt với cuộc sống lầm than cơ khổ của nhân dân).

- Dáng ngồi quan dạng, cách nói của tên quan phủ, cảnh tượng kẻ hầu người hạ: nghi vệ tôn nghiêm

- Sự đam mê tổ tôm và quang cảnh đánh tổ tôm của tên quan phủ với nha lại, chánh tổng. Mê mải theo dõi từng quân bài, khoái trá vỗ tay xuống sập khi thắng ván to. - Thái độ của bọn nha lại, của tên quan phủ khi có người dân quê xông vào báo tin đê vỡ.

- Niềm vui phi nhân tính của tên quan phủ hoàn toàn điềm nhiên trước tiếng kêu vang trời dậy đất của đám dân quê khốn khổ khi đê vỡ: "Ừ! Thông tôm, chi chi nảy".

 

doc6 trang | Chia sẻ: binhan19 | Lượt xem: 684 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo án Ngữ văn 7 - Bài 26: Sống chết mặc bay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI 26: SỐNG CHẾT MẶC BAY I. Mục tiêu: (Như tài liệu) II. Chuẩn bị: Gv soạn bài HS: Đọc trước bài, làm bài theo HD III. Lên lớp 1. CTHĐ tự quản cho lớp hát (trò chơi) – báo cáo sĩ số, chuẩn bị bài của lớp, mời GV lên lớp. 2. GV lên lớp A. Hoạt động khởi động * Mục tiêu: tạo cho HS tâm thế thoải mái khi vào bài học, định hướng kiến thức cần đạt được. * GV: Cho HS hoạt động nhóm câu hỏi phần khởi động. * HS: Nhận nhiệm vụ - suy nghĩ – trao đổi kết quả với bạn – thống nhất kết quả - xin ý kiến, báo cáo. GV: Quan sát HS làm bài – trợ giúp (nếu có) – cho 2-3 nhóm báo cáo kết quả - nhóm khác nghe, nhận xét, bổ sung. GV đánh giá, điều chỉnh (nếu cần), vào bài. B. Hoạt động hình thành kiến thức 1. Đọc văn bản * Mục tiêu: Rèn kĩ năng đọc, kể tóm tắt, phân tích nhân vật qua các cảnh đối lập- tương phản và tăng cấp. * HĐ chung * GV giao nhiệm vụ: ? Với văn bản này cần đọc với giọng ntn? HS đọc * HS thực hiện nhiệm vụ - GV hướng dẫn: Chú ý phân biệt giọng kể, tả của tác giả với giọng quan phụ mẫu hống hách, nạt nộ; giọng thầy đề và dân phu khúm núm, sợ sệt. ? HD học sinh tìm hiểu phần chú thích ? Dựa vào chú thích*, em hãy nêu 1 vài nét về tác giả, tác phẩm. *Tác giả: Phạm Duy Tốn (1883-1924), Quê : Thường Tín, Hà Tây. - Ông là 1 cây bút tiên phong và xuất sắc của khuynh hướng hiện thực ở những năm đầu TK XX. - Truyện ngắn của ông chuyên về phản ánh hiện thực XH. * Tác phẩm: Sáng tác 7.1918. - Thể loại: truyện ngắn hiện đại. Gv: Truyện ngắn hiện đại được viết bằng tiếng Việt hiện đại, là sản phẩm của 1 kiểu tư duy NT mới, xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học (đầu TK XX). So với truyện trung đại, cốt truyện phức tạp hơn, đã thiên về tính chất hư cấu đã hướng vào việc khắc họa hình tượng, phát hiện bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con ngời. Truyện trung đại được viết bằng tiếng Hán, cốt truyện đơn giản còn thiên về mục đích giáo huấn. 2. Tìm hiểu văn bản * Mục tiêu: Hiểu được giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và những thành công NT của truyện ngắn Sống chết mặc bay. * HĐ nhóm * GV giao nhiệm vụ: * HS thực hiện nhiệm vụ a. Truyện ngắn Sống chết mặc bay có thể chia làm 3 đoạn: - Đoạn 1 (từ đầu đến “Khúc đê này hỏng mất”): Nguy cơ đê bị vỡ và sự chống đỡ của người dân. - Đoạn 2 (tiếp theo đến “Điếu, mày!”): Quan phụ mẫu vô trách nhiệm, mải mê bài bạc trong khi đi hộ đê. - Đoạn 3 (còn lại): Đê bị vỡ, nhân dân lâm vào cảnh thảm sầu. b. Dân Tương phản Quan - Thời gian: 1h đêm - Mức độ nghuy hiểm: nước lên to, 2 ba đoạn thẩm lậu không khéo vỡ mất - Người dân vật lộn, chống chọi với mưa gió hết sức căng thẳng, vất vả. - Làm việc liên tục từ chiều đến gần một giờ đêm. -Họ bì bõm dưới bùn lầy, ướt như chuột lột, ai ai cũng mệt lử cả rồi; trong khi mưa tầm tã trút xuống, nước sông cuồn cuộn bốc lên. Tác giả nhận xét: "Tình cảnh trông thật là thảm". Cảnh hộ đê - Địa điểm: trong đình, cao ráo, đê vỡ cũng k sao - Thành phần: quanphur, tránh tổng và nha lại - Không khí: tĩnh mịch, trang nghiêm, nhàn nhã - Đồ dùng: k thiếu 1 thứ gì tất cả đều sang trọng -Viên quan đi hộ đê thì ngồi trong đình ở chỗ cao ráo, an toàn. Người gãi chân, kẻ quạt mát, các tay chân ngồi hầu bài. -Khung cảnh nhàn nhã, đường bệ, nguy nga. - Khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết. - Kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ, tình cảnh thảm sầu, kể sao cho xiết ! - Dân rơi vào tình cảnh lầm than, mất nhà cửa , mất cả tính mạng Cảnh vỡ đê -Quan chỉ mê bài. Đáng lẽ phải tắm mưa, gội gió, đứng trên đê đốc thúc, thì quan lại ngồi chơi nhàn nhã, có kẻ hầu, người hạ. -Quan gắt khi có người báo tin đê vỡ. Quan đỏ mặt tía tai đòi cách cổ, bỏ tù người dân báo đê vỡ. - Lúc vỡ đê là lúc quan thắng bài. Đang vui tột độ còn bên ngoài k biết dân khổ ntn => Nhận xét: Chính sự tương phản trong đình – ngoài đê, sự tàn bạo của quan – sự khốn khổ của dân đen đã tạo nên giá trị tố cáo sâu sắc cho tác phẩm. c. * Cảnh thiên nhiên: - Thời gian gần một giờ đêm. Mưa càng lúc càng to, mực nước sông càng dâng cao: mưa tầm tã trút xuống... nước cứ cuồn cuộn bốc lên.     - NX: Phép tăng cấp đã được sử dụng để miêu tả tình cảnh nguy ngập của khúc đê. Mưa mỗi lúc một tầm tã. Nước sông càng dâng cao. Dân chúng thì đuối sức, mệt lử cả rồi. * Sự vất vả căng thẳng của người dân hộ đê - Cảnh dân làng hộ đê vất vả, mệt nhọc: kẻ thì thuổng, người thì cuốc, kẻ đội đất, kẻ vác tre... lướt thướt như chuột lột. Không khí nhốn nháo, căng thẳng: Trống đánh liên thanh, ốc thổi vô hồi... - Cảnh cho thấy sự bất lực của sức người trước sức trời, sự yếu kém của thế đê trước thế nước.  => NX: Gợi cảnh tượng nhốn nháo, hối hả, chen chúc, căng thẳng, cơ cực và hiểm nguy * Mức độ đam mê cờ bạc của quan phủ: -     Địa điểm: Gần kề nơi dân chúng phòng chống lụt: “đình ấy cũng ở trên mặt đê, nhưng cao mà vững chắc...” trong đình vững chãi, đê vỡ cũng không sao. -  Không khí, quang cảnh: "tĩnh mịch", "trang nghiêm", "nhàn nhã", "đường bệ", "nguy nga", “đèn thắp sáng trưng” (phản ánh uy thế của viên quan phủ với nha lại, tay sai). - Đồ dùng sinh hoạt cho tên quan phủ trong khi đi "hộ đê" sang cả, quý phái: bát yến hấp đường phèn, tráp đồi mồi, ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau bạc, rễ tía... (chứng tỏ một cuộc sống hưởng thụ đến tận cùng, quý phái, rất cách biệt với cuộc sống lầm than cơ khổ của nhân dân). - Dáng ngồi quan dạng, cách nói của tên quan phủ, cảnh tượng kẻ hầu người hạ: nghi vệ tôn nghiêm - Sự đam mê tổ tôm và quang cảnh đánh tổ tôm của tên quan phủ với nha lại, chánh tổng... Mê mải theo dõi từng quân bài, khoái trá vỗ tay xuống sập khi thắng ván to. - Thái độ của bọn nha lại, của tên quan phủ khi có người dân quê xông vào báo tin đê vỡ. - Niềm vui phi nhân tính của tên quan phủ hoàn toàn điềm nhiên trước tiếng kêu vang trời dậy đất của đám dân quê khốn khổ khi đê vỡ: "Ừ! Thông tôm, chi chi nảy". d. Phép tăng cấp cũng được sử dụng để miêu tả thái độ vô trách nhiệm, lòng lang dạ thú của viên quan. Viên quan hộ đê không cùng dân chống đỡ mà ngồi trong đình vững chãi, an toàn. Bao kẻ phải hầu hạ quan. Không phải là vì công việc mà chỉ vì một thú chơi bài. Quan chơi bài nhàn nhã, ung dung. Quan gắt khi có người quấy rầy. Quan quát mắng, đòi cách cổ, bỏ tù khi có người báo đê vỡ. Quan sung sướng vì ván bài ù. Mức độ vô trách nhiệm và cáu gắt vô lí của quan càng thể hiện rõ nét. - Sự kết hợp của nghệ thuật tương phản và tăng cấp đã tố cáo và phê phán hành động ham mê bài bạc và vô trách nhiệm của viên quan. Nếu viên quan chỉ ham đánh bạc thì đó là thói xấu trong sinh hoạt của cá nhân y. Nhưng y đánh bạc khi làm công vụ, cụ thể là khi đi hộ đê, liên quan đến tính mạng và tài sản của dân chúng thì đó là sự vô trách nhiệm. Y thắng ván bài đã chờ thì y sung sướng là lẽ thường tình. Nhưng y thắng bài khi đê vỡ, y sung sướng khi bao người dân khổ sở, cùng cực thì sự vui mừng của y là một hành động phi nhân tính của kẻ lòng lang dạ thú. Chính sự kết hợp này đã làm cho tính chất tố cáo và phê phán thêm sâu sắc. e. + Giá trị hiện thực của truyện Sống chết mặc bay là đã phản ánh bộ mặt của giai cấp thống trị mà tiêu biểu là tên quan có vai trò “cha mẹ” người dân nhưng đã chỉ ham mê bài bạc, hết sức vô trách nhiệm, làm cho dân chúng khốn khổ vì đê vỡ, nước lụt. + Giá trị nhân đạo của truyện là đã cảm thông với sự vất vả, khốn khổ của người lao động trước cảnh thiên tai xảy ra do thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại. * Tổng kết: + Nội dung: - Lên án gay gắt tên qan phủ lòng lang dạ thú - Bày tỏ niềm cảm thương trước cảnh nghìn sầu muôn thảm của nhân dân do thiên ti và cũng do thí độ vô trá nhiệm của kẻ cầm quyền gây nên. + Nghệ thuật: Dùng biện pháp tương phản để khắc họa nhân vật làm nổi bật tư tưởng của tác phẩm. C. Hoạt động luyện tập Các hình thức đã được vận dụng trong truyện Sống chết mặc bay: Hình thức ngôn ngữ Có Không Ngôn ngữ tự sự X Ngôn ngữ miêu tả X Ngôn ngữ biểu cảm X Ngôn ngữ người kể chuyện X Ngôn ngữ nhân vật X Ngôn ngữ độc thoại nội tâm X Ngôn ngữ đối thoại X * Qua ngôn ngữ đối thoại của tên quan phủ, có thể tháy hắn hiện lên với một nhân cách xấu xa, bỉ ổi. Đó là một tên quan vô trách nhiệm, tham lam và tàn bạo. Từ đây cũng cần phải rút ra một nhận định rằng: trong tác phẩm tự sự ngôn ngữ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nên tính cách của nhân vật.  D. Hoạt động vận dụng   Dân gian có câu: Lời nói gói vàng, đồng thời lại có câu: Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Qua 2 câu trên, em hãy cho biết dân gian đã hiểu như thế nào về giá trị, ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống.    Hằng ngày, trong giao tiếp, ứng xử, ta phải lựa chọn lời nói, cách diễn đạt sao cho vửa đảm bảo mối quan hệ đoàn kết, thân ái vừa đạt được hiểu quả giao tiếp.   Điều này được nhân dân ta từ xưa luôn nhắc nhở nhau: "Lời nói gói vàng" và "Lời nói không mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau".   Hai câu trên thể hiện quan niệm của dân goan về giá trị và ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống.   Câu đầu là một phép ẩn dụ: lời nói được ngầm so sánh với gói vàng . Điều nào đủ cho thấy lời nói, cụ thể là Tiếng Việt, là một thứ của quý lâu đời của nhân dân ta (Bác Hồ).   Câu hai mộc mạc đơn sơ nhưng bóng bẩy không kém câu đầu. Lời khuyên của dân gian ở đây thật nhẹ nhàng mà sâu sắc biết bao. Tuy quý giá, nhưng "lời nói không mất tiền mua". Ai cũng có thể nói ra những điều mình nghĩ đâu cần phải có tiền bạc hay có "gói vàng" mới bói được. Có điều biết "lựa lời" biết chọn từ ngữ, câu chữ để diện đạt những suy nghĩ và cảm xúc của mình cần nói ra thì sẽ khiến người đối thoại được vui lòng "cho vừa lòng nhau" là như vậy. Và cuộc giao tiếp nhờ đó có hiệu quả tốt đẹp.   Trong giao tiếp hằng ngày, chúng ta phải lựa lời mà nói. Vì sao? Bởi vì tuy không phải tốn kém không mất tiền mua, nhưng giá trị của lời nói thật to lớn. Lời nói phản ánh trình độ văn hóa, là thước đo phẩm chất của mỗi người. Vì thế ta phải tự rèn luyện cho mình cách ăn nói lịch sự thể hiện lối sống văn minh, văn hóa.   Thế nào là cách nói văn minh lịch sự? Cách ăn nói văn minh lịch sử được biểu hiện ở nhiều mặt từ các sử dụng từ ngữ, giọng điệu, dáng vẻ, nội dung vấn đề. Dù hoàn cảnh thế nào ta cũng phải nói năng đúng mực: không sử dụng những từ ngữ thô tục, không có thái độ cáu gắt, hỗn láo, hách dịch và phải luôn tỏ ra tôn trọng người đối thoại.   Tuy nhiên, không phải chỉ vì "để vừa lòng nhau" mà ta không chân thành, thẳng thắn nói thật lời phê bình những sai lầm khuyết điểm của bạn bè, đồng chí. Bởi vì như thế là ta xuề xòa, chín bỏ làm mười, thủ tiêu đấu tranh. Có điều trong những trường hợp này, ta lại càng hơn lúc nào hết phải "lựa lời", lựa lúc tạo được sự đồng tình nơi người nghe. Chọn được những lời nói thích hợp như thế chính là ta đã làm tốt việc lựa lời theo đúng lời dạy của người xưa.   Cùng mang ý nghĩa tương tự còn có những câu tục ca dao khác:   - Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói.   - Học ăn, học nói, học gói, học mở.   - Chim khôn kêu tiếng rảnh rang   Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.   Câu ca dao trên rất hay, như một danh ngôn, một lời khuyên quý giá, một kinh nghiệm đặc sắc về nói năng.   Hiểu được điều này, chúng ta phải có ý thức rèn luyện lời ăn tiếng nói ngay từ lúc còn nhỏ. Phải học cách ăn nói lịch sự văn minh, tránh cách ăn nói thô tục để làm vừa lòng bạn bè, ông bà, cha mẹ thầy cô và cả những người xung quanh mình.    Bài viết: Mùa xuân là Tết trồng cây Làm cho đất nước càng ngày càng xuân. Bác Hồ muốn khuyên dạy chúng ta điều gì qua 2 dòng thơ này? Vì sao việc trồng cây trong mùa xuân của đất trời lại có thể góp phần làm nên mùa xuân của đất nước?    Bác Hồ là vị lãnh tụ, vị cha già của dân tộc, Bác dành thời gian quan tâm tới mọi mặt trong đời sống xã hội của con người. Trong những năm chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc, Bác Hồ vẫn kêu gọi nhân dân trồng cây, giữ lấy màu xanh của đất nước. Bác viết: “Mùa xuân là Tết trồng cây, làm cho đất nước càng ngày càng xuân”.   Khi đất nước còn đang chịu sự tàn phá của chiến tranh, Bác có rất nhiều việc phải chuẩn bị cho cuộc chiến nhưng Bác vẫn dành thời gian theo dõi, động viên, cổ vũ phong trào Tết trồng cây. Vào năm 1960, phong trào tết trồng cây bắt đầu được phát động. Những năm sau đó, cứ mỗi độ xuân về, Bác vừa viết báo nhắc nhở nhân dân thực hiện Tết trồng cây, vừa đi thăm và tham gia trồng cây cùng với nhân dân. Bác đã chỉ ra cho nhân dân biết “ích lợi to lớn cho kinh tế quốc phòng” của việc trồng cây gây rừng, “đồng bào các địa phương phải biến đồi trọc thành vườn cây”.   Trong thời khắc quan trọng của đất nước, và đến cuối đời tự tay Bác đã trồng nhiều cây đa mà nhân dân ta thường gọi bằng cái tên trìu mến “Cây đa Bác Hồ”. Nếu chúng ta có dịp đến thăm khu nhà của Bác, ta sẽ được chiêm ngưỡng cảnh đẹp với vườn cây aao cá của Bác. Bác đã dành thời gian trồng và chăm sóc cây như chăm sóc con người.   Bác coi việc trồng cây là nghi lễ quan trọng không thể thiếu khi Người đến thăm nước bạn hoặc tiếp đón các nguyên thủ quốc gia khác đến thăm Việt Nam. Những cây kỉ niệm đó cứ lớn lên theo thời gian, không chỉ thể hiện của tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và bạn bè thế giới mà còn thể hiện ý thức bảo vệ môi trường.    Bác quan tâm tới thiên nhiên và cây cối như quan tâm vận mệnh của dân tộc, bởi vậy trong di chúc Người để lại, Bác viết: “Nếu có kế hoạch trồng cây trên đồi, ai đến thăm thì trồng 1 cây làm kỷ niệm. Trồng cây nào phải tốt cây ấy. Lâu ngày cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho công nghiệp”.    Bác muốn cho thế hệ con cháu hiểu được rằng, con người sống không thể tách rời khỏi thiên nhiên, không thể thiếu trời mây, cây cỏ, phải biết giá trị to lớn mà thiên nhiên ban tặng. Với những giá trị to lớn của thiên nhiên, mỗi chúng ta phải bảo vệ rừng như bảo vệ ngôi nhà của chính mình vậy.   Với sự phát triển của xã hội, rừng và thiên nhiên xung quanh con người đang bị hủy hoại, việc trồng và bảo vệ rừng có thể chống nguy cơ thay đổi khí hậu thì lời dạy của Người càng có ý nghĩa biết bao.    Vào mỗi dịp xuân về lời dạy của Bác "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người", lại âm vang khắp non song đất nước, người người nhà nhà lại náo nức tham gia vào tết trồng cây của dân tộc. Tết trồng cây hàng năm trở thành phong trào không thể thiếu trên khắp đất nước, nó không chỉ thể hiện sự quan tâm của con người với môi trường mà còn là dịp để con cháu tưởng nhớ tới Bác. Và không biết tự khi nào, Tết trồng cây đã trở thành một nếp sống đẹp, một truyền thống gắn bó không thể thiếu trong mỗi người dân khi xuân về.    Ngày nay khi môi trường ngày càng ô nhiễm, trồng cây càng trở nên có ý nghĩa với con người. Mỗi nhà, mỗi khu phố, mỗi ban ngành... đều phải có trách nhiệm trồng cây xanh ở khu vực mình hay ở, những nơi công cộng để bảo vệ môi trường, bảo vệ cuộc sống của mỗi chúng ta. 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBÀI 26.doc