Hoạt động quảng cáo đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường

 

Lời mở đầu 1

Phần 1 3

Những lý luận cơ bản về hoạt động Quảng cáo trong nền kinh tế thị trường 3

I. những vấn đề chung về hoạt động quảng cáo 3

1. Khái niệm về quảng cáo. 3

2 . Yêu cầu của quảng cáo. 4

4. Nhiem vụ của quảng cáo. 5

Ngày nay nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã làm xuất hiện nhiều pú 11

Phần II 13

Phân tích thực trạng hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 13

I. Thực trạng của hoạt động quảng cáo trong các doanh nghiệp kinh doanh ở Việt Nam. 13

1. Doanh số quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam. 13

Tốc độ tăng theo năm 14

2. Các loại hình quảng cáo ở Việt Nam. 14

3. Các phương tiện quảng cáo bên trong hệ thống kinh doanh hiện nay dược các doanh nghiệp thường xuyên sử dụng như: 16

3.1, Quảng cáo trên biển hiệu, băng rôn, áp phích, quảng cáo bằng tủ bán hàng, ô dù, máI hiên di động và quảng cáo thông qua nhân viên bán hàng. 16

3.2. Quảng cáo trên báo,tạp chí. 25

3.3. Quảng cáo trên Internet 27

4. Quyết định về thông tin quảng cáo. 29

Phần III 37

đánh giá về chương trình quảng cáo 37

1. Phương pháp nghiên cứu hiệu quả truyền thông 37

Kết luận 40

 

 

doc44 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1147 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoạt động quảng cáo đối với các doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a chọn phương tiện quảng cáo có ý nghĩa rất lớn vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả quảng cáo. Việc lựa chọn phương tiện quảng cáo cần căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá, đặc điểm của khách hàng, đặc điểm của thị trường, khả năng của doanh nghiệp. Trong thực tế các phương tiện quảng cáo chủ yếu như sau: Báo và tạp chí đây là những phương tiện quảng cáo thông dụng được nhiều người sử dụng, do nó có những ưu và nhược điểm sau: + Ưu điểm: chẩn bị đơn giản, ít tốn kém hơn một số phương tiện khác . Cho phép tận dụng triệt để lợi thế về ngôn ngữ, hình ảnh và màu sắc . Có độc giả rộng. . Có khả năng lưu trữ và sử dụng lâu dàI + Nhược điểm: Dễ bị người đọc bỏ quamột số báo và tạp chí, có độc giả hẹp, không có đIều kiện để thu hút sự chú ý bằng âm thanh, hình ảnh. Quảng cáo qua radio, đây cũng là phương tiện quảng cáo thông dụng có khối lượng người nhận thông tin lớn, nhanh, rộng + ưu điểm: Nhiều người nghe có thể nhắc đI nhắc lạI nhiều lầnhầu như không hạn chế về không gian, thời gian, truyền tin nhanh + Nhược điểm: tính lâu bền thấp dễ bị người nghe bỏ qua. Quảng cáo qua tivi: Đây là phương tiện quảng cáo thông dụng có thể tiến hành ở bất cứ không gian nào + Ưu điểm: Cho phép khai thác triệt để hình ảnh, màu sắc, âm thanh, có độc giả rộng. + Nhược điểm: Đòi hỏi chi phí tốn kém, dễ bị người nghe, người xem bỏ qua - Doanh nghiệp còn có thể quảng cáo qua các phương tiện như: quảng cáo bằng phim, quảng cáo qua bao bì và nhãn hiệu sản phẩm, quảng cáo bằng balo áp phích, quảng cáo qua bưu điện. Phần II Phân tích thực trạng hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. I. Thực trạng của hoạt động quảng cáo trong các doanh nghiệp kinh doanh ở Việt Nam. 1. Doanh số quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam. Từ năm1986 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đẫ từng bước phát triển. Hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều,đa dạng về chủng loạI. Nhu cầu của kách hàng ngày càng cao cả về số lượng, chất lượng hàng hoá lẫn chất lượng phục vụ. Năm 1994, doanh số quảng cáo tăng 483,3% so với năm 1993. Đến năm 1995 doanh số quảng cáo tăng 1075% so với năm 1993. Như vậy tốc độ tăng không đáng kể bởi mức độ tăng năm 1994 là quá cao mà phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới hoạt động kinh doanh ở Việt Nam đã gặp phải một số khó khăn đáng kể. Sang năm 1996, doanh số quảng cáo tăng nhanh: đạt 2258%so với năm 1993 và đạt 192% so với năm 1995. Các doanh nghiệp đã giành một khoảng ngân sách nhất định cho hoạt động quảng cáo. Sang năm 1997 doanh số quảng cáo lạI tiếp tục tăng nhanh: đạt 3733% so với năm 1993 và 165% so với năm 1996. Sang năm 1998, do khủng hoảng tiền tệ ở Châu á, rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàI ngừng quảng cáo ở Việt Nam. ĐIều này làm ho doanh số quảng cáo ở Việt Nam giảm mạnh (tới 75%). Tuy nhiên, trong thời gian này, doanh số quảng cáo thu được từ doanh nghiệp Việt Nam vẫn được duy trì và có phần gia tăng do Việt Nam ít bị ảnh hưởng bởi cơn bão tiền tệ. Sang năm 1999 kinh tế các nước dần được khôI phục, các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoàI lạI từng bước phát triển, doanh số quảng cáo lạI tăng lên là 116 triệu USD, tăng 6% so vói năm 1998. Chính đIều này đã cho thấy các doanh nghiệp kinh doanh ở Việt Nam đã ngày càng quan tâm đến quảng cáo.theo số liệu đIều tra, hiện nay có khoảng 83,7% trong tổng số các doanh nghiệp đã tham gia quảng cáo dưới các hình thức khác nhau. Trong đó, có khoảng 20% trong số họ đã từng quảng cáo ở nước ngoài. Biểu 1: Doanh số quảng cáo ở Việt Nam Nguồn: SRG Việt Nam và ACNielsel Năm 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Doanh số- triệu USD 12,0 70,0 141,0 271,0 448,0 109 116 Tốc độ tăng(so với 1993)(%) 100,0 483,3 1075,0 2158,0 3633,3 808 866 Tốc độ tăng theo năm 100,0 483,3 101,4 92,2 65,3 -75,6 6,00 2. Các loại hình quảng cáo ở Việt Nam. Trong tổng doanh số về quảng cáo nói trên, phần đóng góp chủ yếu thuộc về các công ty nước ngoài. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoàI rất quan tâm đến quảng cáo. Họ chi phí nhiều do quảng cáo mặc dù giá cả khi họ tham gia quảng cáo cao hơn nhiều so với giá cả quảng cáo giành cho các doanh nghiệp trong nước. Tiếp đó doanh nghiệp sản xuất rồi mới đến các doanh nghiệp thương mạI – dịch vụ. Những số liệu trên mới chỉ thể hiện được con số quảng cáo của các doanh nghiệp thông qua các tổ chức dịch vụ quảng cáo. Trong khi đó, các doanh nghiệp có thể sử dụng rất nhiều cách khác nhau để quảng cáo. Tự quảng cáo là cách thức các doanh nghiệp có thể áp dụng. Hiện nay các doanh nghiệp tự quảng cáo thông qua việc in ấn, phát hành tờ rơI quảng cáo để giới thiệu khách hàng về công ty, về sản phẩm, quảng cáo tạI nơI bán hàng, quảng cáo trên trang phục của các nhân viên tiếp thị. Với cách thức quảng cáo này, có đến 50,4 các doanh nghiệp thực hiện ở trong nước và 8,2% các doanh nghiệp thực hiện ở nước ngoài. Đối với các cách thức quảng cáo thông qua các phương tiện thông tin đạI chúng, các công ty quảng cáo trong nước, theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, có khoảng 34,7% các doanh nghiệp thuê các đơn vị, tổ chức trên làm dịch vụ quảng cáo cho mình. Tất nhiên đối với việc quảng cáo ở nước ngoài, con số này chỉ đạt 4,4%. Quảng cáo thông qua các công ty quảng cáo, các phương tiện truyền thanh truyền hình của nước ngoàI chiếm tỷ lệ rất thấp. Công nghệ quảng cáo của các công ty nước ngoàI rất hiện đại, tuy nhiên giá cả cũng rất cao. Trong khi đó, ở VIệt Nam, ngân sách giành cho quảng cáo còn rất thấp, các doanh nghiệp quảng cáo của Việt Nam chưa đủ sức để kinh doanh quảng cáo ở nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh hàng hoá ở nước ngoài phải thuê các doanh nghiệp nước ngoài quảng cáo. Tuy nhiên, con số này cũng còn rất nhỏ bé (28,6% trong tổng số các doanh nghiệp xuất khẩu thuộc ngành chế biến thực phẩm). NgoàI các cách thực trên, các doanh nghiệp còn có một số cách thức quảng cáo khác như quảng cáo qua công ty mẹ, qua quan hệ công tác, bạn bè. Các hình thức quảng cáo của doanh nghiệp của các doanh nghiệp ở Việt Nam cũng rất đa dạng và phong phú. ở mỗi loạI hình quảng cáo khác nhau, số các doanh nghiệp tham gia cũng rất khác nhau. Sở dĩ có sự khác nhau đó là do tính đặc thù của sản phẩm cần quảng cáo, mục tiêu của quảng cáo, loạI khách hàng mục tiêu mà người quảng cáo lựa chọn. Bên cạch đó, ngân sách dành cho quảng cáo của các doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn các phương tiện quảng cáo. Trong tổng số chi phí cho quảng cáo thì các doanh nghiệp đã đóng góp một phần không nhỏ. Hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp ngày càng gia tăng, làm cho hoạt đọng quảng cáo trên thương trương ngày càng sôI động. Năm 1993 số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ khách sạn nhà hàng là 5.444 đơn vị; năm 1994 đã tăng lên đến 8.404 đơn vị; Năm 1995 có tới 9.297 doanh nghiệp hoạt động trong lĩch vực này. Trong số các doanh nghiệp kể trên, năm 1993 các doanh nghiệp kinh doanh có 1.419 doanh nghiệp nhà nước, 135 doanh nghiệp tập thể, 1.215 công ty trách nhiệm hữu hạn, 1299 doanh nghiệp tư nhân. Năm 1994, số doanh nghiệp nhà nước là 1.674 doanh nghiệp, số doanh nghiệp tập thể tăng lên đến 204 doanh nghiệp và các công ty trách nhiệm hữu hạn là 1.733 doanh nghiệp, số doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh so với năm 1993 (4.778 doanh nghiệp). Trong thời kỳ này, chưa có doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàI nào tham gia kinh doanh trên thương trường. Sang năm 1996, hàng hoá kinh doanh trên thị trường càng phong phú, đa dạng. Kinh tế phát triển, nhu cầu tăng mạnh làm cho số các doanh nghiệp kinh doanh tăng lên với vận tốc nhanh hơn nhiêu so với trước: 1.778 doanh nghiệp nhà nước, 268 doanh nghiệp tập thể, 4535 công ty trách nhiệm hữu hạn, 8123 doanh nghiệp tư nhân, 130 doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Con số này sang đến những năm 1998,1999 còn cao hơn nhiều. Nhằm đẩy mạnh kinh doanh, các doanh nghiệp đã không ngừng quảng cáo và sử dụng hầu hết các phương tiện quảng cáo bên ngoàI hệ thống và các phương tiện quảng cáo bên ngoàI hệ thống kinh doanh. 3. Các phương tiện quảng cáo bên trong hệ thống kinh doanh hiện nay dược các doanh nghiệp thường xuyên sử dụng như: 3.1, Quảng cáo trên biển hiệu, băng rôn, áp phích, quảng cáo bằng tủ bán hàng, ô dù, máI hiên di động và quảng cáo thông qua nhân viên bán hàng. Quảng cáo bằng biển hiện là phương tiện quảng cáo quan trọng. Nó là hình thức quảng cáo xuất hiện sớm nhất. Quảng cáo trên biển hiệu, áp phích là những phương tiện phổ biến hiện nay mà các doanh nghiệp sử dụng, đặc biệt là hệ thống bán lẻ. Hiện nay, gần như tất cả các doanh nghiệp kinh doanh ở Việt Nam đều có biển hiệu để quảng cáo tên, biểu tượng của doanh nghiệp. Các biển hiệu này được thuê hoặc tự làm và gắn ở trước trụ sở làm việc, trước cửa quầy hàng, cửa hàng của doanh nghiệp. Hình thức bên ngoàI về kích cỡ, vật liệu sử dụng và nội dung cơ bản trên biển hiệu cũng rất khác nhau. Có doanh nghiệp sử dụng biển hiệu sơn, có doanh nghiệp sử dụng biển hiệu đèn, có doanh nghiệp sử dụng biển hiệu đIửn tử…Những biển hiệu to, đa dạng, dễ thu hút sự chú ý nhất thuộc về biển hiệu của các cửa hàng, cửa hiệu kinh doanh bán lẻ. Để quảng cáo bằng biển hiệu, các doanh nghiệp thường thuê các đơn vị dịch vụ thiết kế quảng cáo làm biển hiệu cho mình. LoạI biểh hiệu đIửn tử đang được các doanh nghiệp sử dụng phổ biến ở nước ta. Băng rôn là một phương tiệh quảng cáo được nhiều doanh nghiệp sử dụng. Thông thường, phương tiện quảng cáo này được sử dụng trong một thời gian nhắn. Vídụ quảng cáo cho chiến dịch khuyến mạI, quảng cáo cho khai trương, quảng cáo cho sản phẩm mới. Quảng cáo qua phương tiện này tuy rẻ nhưng lượng khách hàng mục tiêu thu nhận được thông tin không nhiều. Hình thức này thường được sử dụng ở các siêu thị, các cửa hàng nhỏ, lẻ. Hiện nay, các doanh nghiệp thường treo băng rôn bằng cách buộc vào gốc cây ở hai bên dường. Quảng cáo bằng áp phích cũng là một loạI quảng cáo mà các doanh nghiệp hay sử dụng. Tuy nhiên, hình thứcnày thường được sử dụng tạI các của hàng và quầy bán hàng. Quảng cáo qua nhân viên bán hàng là cách thức dược sử dụng nhiêu nhất trong các doanh nghiệp.Những nhân viên bán hàng, với những trình độ hiểu biết về hàng hoá, về tâm lý khách hàng họ đã khéo léo quảng cáo sản phẩm cho doanh nghiệp, giới thiệu đặc tính của sản phẩm, cách thức sử dụng sản phẩm…Cách thức quảng cáo này tuy không thực hiện được trên diện rộng nhưng độ thuyết phục lạI cao. Hiệu quả thương mại. Nhiệm vụ của quảng cáo Thông Tin Hiện nay, đàI phát thanh và truyền hình trở thành phương tiện quảng cáo được các doanh nghiệp trong và ngoàI nước ưa chuộng. Quảng cáo qua đàI phát thanh, các doanh nghiệp đã và đang sử dụng khoảng 59 đàI phát thanh của các tỉnh,thành phố, 228 đàI phát thanh của huyện và thị trấn. ĐàI tiếng nói Việt Nam là phương tiện quảng cáo có thể truyền thông tin đến được với trên 70% dân số cuả cả nước và nhiều nước trên thế giới. Người tiêu dùng Việt Nam có thể nhận thông tin quảng cáo từ 4 kênh phát thanh chính: 2 kênh AM trong nước, 1 kênh FM 1 kênh SW. Trong đó có kênh phát sóng bằng 13 thứ tiếng trên thế giới, SW phát sóng 24/24 giờ trong một ngày. Tuỳ thuộc vào thị trường mục tiêu của từng doanh nghiệp, các doanh nghiệp lựa chọn cho phù hợp. FM là kênh có chất lượng âm thanh tốt và trung thực nên nó được sử dụng để truyền tin tức và ca nhạc quốc tế. Lợi thế của kênh này là phát được đi xa. Hiện nay kênh này đã đến được với đông đảo khán giả nghe đài ở mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp dân cư trên các khu vục khác nhau kể cả vùng núi và hải đảo. Khi sử dụng phương tiện quảng cáo là đài phát thanh, các doanh nghiệp không cần phải có một ngân sách quảng cáo lớn bởi quảng cáo thông qua đài truyền thanh có giá tương đối rẻ so vói quảng cáo trên các phương tiện truyền hình (nếu giá cao nhất cho quảng cáo 30 giây trên truyền hình là 5.400.000đ thì giá cao nhất cho quảng cáo trên đài phát thanh cũng chỉ khoảng 800.000đ/phút). Tần số phát sóng cao, thời gian chờ đợi để được phát chương trình quảng cáo ngắn, dễ dàng sửa đổi nội dung khi cần thiết. Thiết kế một thông điệp quảng cáo trên truyền thanh đơn giản hơn nhiều so với thiết kế một chương trình quảng cáo trên truyền hình ( xem biểu số 3). Biểu số 3: Giá quảng cáo trên một số đài phát thanh lớn trên cả nước việt nam TT Đài phát thanh Giá chi doanh nghiệp trong nước(đồng) Giá cho doanh nghiệp liên doanh Giá cho doanh nghiệp nước ngoài 1 TP.HCM 600.000-800.000 80-160 USD 120-240USD 2 Tiếng nói VN 300.000 600.000đ 150USD 3 Cần Thơ 50.000-80.000 100.000-150.000đ 200.000-300.000đ 4 Hải Phòng 20.000-30.000 40.000-60.000đ 60.000-100.000 5 Quảng Nam Đà Nẵng 150.000 200.000 250.000-300.000 Nguồn: Báo giá của các đài phát thanh thành phố HCM, Cần Thơ, Tiếng nói Việt Nam, Hải Phòng, Quảng Nam Đà Nẵng Bên cạnh những mặt mạnh đó quảng cáo trên truyền thanh có những yếu điểm nhất định làm hạn chế việc quảng cáo của các doanh nghiệp. Thứ nhất: quảng cáo trên truyền thanh chỉ sử dụng được âm thanh mà không sử dụng được hình ảnh, mầu sắc. Do đó, sức lôi cuốn đối tượng truyền tin bị hạn chế. Thứ hai: Với sự gia tăng của số lượng vô tuyến được sử dụng trong dân cư, sự gia tăng của các đài truyền hình, sự gia tăng của các kênh truyền hình, gời phát sóng trên truyền hình, số lượng người nghe đài cũng giảm đi và thời gian nghe đài của thính giả cũng bị thu hẹp lại.Chính vì vậy, lượng thính giả nhận thông tin từ thông điệp quảng cáo cũng giảm đáng kể. Quảng cáo trên đài phát thanh ngày càng gia tăng về số lượng cũng như chất lượng. Quảng cáo trên đài phát thanh có giá rẻ, thời lượng phát sóng cao, đến với người tiêu dùng cả ở những nơi xa xôi hẻo lánh. Chương trình truyền thanh có chất lượng ngày càng cao đã gây được sự chú ý nhiều hơn của người tiêu dùng. Từ năm 1993, đài truyền hình Việt Nam trở thành phương tiện quảng cáo thông dụng và ngày càng được người tiêu dùng ưa chuộng. Hầu như nhân dân ở các thành phố, thị xã, thị trấn của Việt Nam đều đã được xem các kênh truyền hình Việt Nam. Đến năm 2001 dự kiến 90% dân số được xem truyền hình. Nhận biết được lợi thế quảng cáo qua truyền hình, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung, các doanh nghiệp thương mại nói riêng sử dụng truyền hình để quảng cáo ngày càng nhiều. Hiện nay ở Việt Nam các doanh nghiệp có thể quảng cáo trên đài truyền hình trung ương hoặc đài truyền hình của các tỉnh, thành phố trong cả nước. Truyền hình ngày càng trở thành thông tin đại chúng được công chúng ưa chuộng. Quảng cáo qua truyền hình có ưu điểm hơn nhiều so với quảng cáo qua đài phát thanh. Do đó, đài truyền hình Việt Nam đã thu hút được đông đảo các doanh nghiệp quảng cáo. Tuy nhiên, từ năm 1993 đến nay, trong kết quả nghiên cứu của những công ty chuyên nghiên cứu thị trường cho thấy chỉ có năm 2001 thời lượng quảng cáo trên truyền hình của các doanh nghiệp đứng trong top ten của các hàng quảng cáo trên truyền hình. Biểu 4: 10 ngành hàng quảng cáo nhiều trên truyền hình. TT Năm 2000 Năm 2001 Ngành hàng Số lần Ngành hàng Số lần 1 Nước ngọt 1253 Nước ngọt 6872 2 Bia 3168 Bia 7471 3 Bánh kẹo 850 Bánh kẹo 789 4 Sữa bột 468 Sữa bột 560 5 Kem đánh răng 520 Kem đánh răng 674 6 Mì ăn liền 645 Mì ăn liền 912 7 Dầu gội đầu 4956 Dầu gội đầu 8043 8 Bột giặt 2654 Bột giặt 4403 9 Trà 456 Trà 578 10 Ti vi 635 Ti vi 721 Nguồn: SRG Việt Nam Năm 2002 thời lượng quảng cáo trên truyền hình của các loại cửa hàng kinh doanh cũng tăng lên, nhưng tốc độ tăng không cao bằng các ngành hàng khác. Hơn nữa, các doanh nghiệp ngày càng sử dụng đa dạng các phương tiện quảng cáo như báo, tạp chí và quảng cáo qua băng rôn… Chính vì vậy,cho đến nay, các cửa hàng kinh doanh không còn trong danh sách top ten các ngành quảng cáo trên truyền hình. Qua số liệu điều tra, 10 doanh nghiệp chi phí cho quảng cáo qua đài truyền hình Việt Nam năm 2001 nhiều nhất là Pepsi, Bia Tiger, Mì Lẩu Thái, nước ngọt Milinda, Bia Heniken, kem đánh răng P/S, bột giặt Ômô, dầu gội đầu Double- Rich ... Hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ nhiều cho hoạt động bán hàng của doanh nghiệp. Biểu 5: Đơn giá quảng cáo trên truyền hình Hà Nội TT Giờ phát sóng Giá cho doanh nghiệp trong nước Giá cho doanh nghiệp liên doanh và nhà nước Ngày thường 1 Ngoài bản tin & chuyên đề 6h00-9h00 550 2.320 2 Trong phim & giải trí trưa 8h00-12h00 852 4.297 3 Trước phim & giải trí trưa 12h00-2h30 852 4.297 4 Trong phim & giải trí trưa 12h30-3h30 1.980 7.673 5 Ngoài bản tin & chuyên đề 14h30-5h00 550 2.302 6 Trong giải trí chiều 16h00-6h30 852 4.297 7 Trong phim & giải trí chiều 17h00-17h30 1.100 5.525 8 Trước thời sự chiều tối 18h00-9h00 1.320 6.138 9 Ngoài phim & giải trí tối 20h00-21h30 2.200 9.975 10 Trong phim & giải trí tối 21h30-2h30 4.400 16.880 11 Trong giải trí (bóng đá QT) Sau 22h45 1.980 7.673 Chủ nhật 12 Ngoài phim & giải trí sáng 9h00-10h00 1.980 7.673 13 Trong phim & giải trí sáng 10h20-1h00 2.750 10.742 Nguồn: Đài truyền hình Hà Nội. Chi phí cho quảng cáo trên truyền hình có xu hướng ngày càng tăng lên. Giá dịch vụ quảng cáo trên các đài truyền hình địa phương thấp hơn so với giá quảng cáo trên đài truyền hình Việt Nam. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn phương tiện quảng cáo thích hợp. Chi phí cho quảng cáo trên truyền hình của các doanh nghiệp ngày càng gia tăng và sự thay đổi đó tuỳ theo từng ngành hàng, tuỳ theo tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ngoài nước.Những năm trước đây, các chương trình quảng cáo trên truyền hình phần lớn là do các doanh nghiệp tự xây dựng hoặc đi thuê các công ty thết kế quảng cáo dàn dựng, việc thuê đài hình là chỉ thuê kênh phát mà thôi, bởi lẽ quảng cáo của các doanh nghiệp Việt Nam chưa có sức thuyết phục cao, kỹ xảo điện ảnh kém, mức độ chinh phục khách hàng còn nhiều hạn chế. 3.2. Quảng cáo trên báo,tạp chí. Quảng cáo trên báo, tạp chí là quảng cáo thông dụng không những ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Báo, tạp chí là những phương tiện thông tin đại chúng được người Việt Nam ưa chuộng. Theo thông kê của Bộ Văn Hoá và thông tin, hiện nay Việt Nam có gần 500 loại báo, tạp chí và bản tin khác nhau mà các doanh nghiệp có thể thực hiện các quảng cáo cho doanh nghiệp mình. Thời báo kinh tế, báo Thương Mại, báo Lao Động, báo Đầu tư, báo Hà Nội mới, tạp chí tiếp thị và quảng cáo, tạp chí Công nghiệp, tạp chí Thương mại...được nhiều doanh nghiệp thích dùng. Các doanh nghiệp bán buôn, bán hàng công nghiệp thường quảng cáo trên các tạp chí, báo chuyên ngành như báo Thương mại, tạp chí Thương mại, tập san thông tin kinh tế. Các doanh nghiệp bán lẻ thương quảng cáo trên ct trình quảng cáo là đề ra những nhiệm vụ quảng cáo. Những nhiệm vụ này có thể rút ra từ những quyết định trước đây về việc lựa chuong trình quảng cáo là đề ra những nhiệm vụ quảng cáo. TT Tên báo Tuần suất phát hành Số lượng phát hành Giá trang trong giữa Giá trang bìa 1 Diễn đàn doanh nghiệp Báo tuần 50.000 2,5 2,5 2 Sài gòn giải phóng Báo ngày 130.000 18,7 18,7 3 Nhân dân Báo ngày 300.000 15,0 15,0 4 Tuổi trẻ chủ nhật Báo tuần 150.000 4,5 4,52.420 5 TIếp thị và gia đình Báo ngày 10.000 9,9 11,869 6 Tuổi trẻ Báo tuần 175.000 19,5 19,9 7 Lao động Báo ngày 80.000 22,0 24,0 8 Hà Nội mới Báo ngày 35.000 1.350USD 9 Thanh niên Báo ngày 150.000 10,0 14,0 10 Tiền phong Báo3số/tuần 100.000 900USD Nguồn: SRG Việt Nam và các toà soạn báo. 3.3. Quảng cáo trên Internet Thương mại điện tử ra đời và phát triển với tốc độ nhanh chóng. Thương mại điện tử dần trở thành một phương tiện quảng cáo khá phổ biến. Theo số liệu của APEC thì năm 1999 doanh số của thương mại điện tử trên toàn cầu đạt khoảng 70 tỷ USD. đến năm 2002 con số này có thể lên tới hàng ngàn tỷ USD. Quảng cáo trên Internet cũng ngày càng chiếm được vị trí quan trọng trong làng quảng cáo.Theo đánh giá năm 1997, quảng cáo thương mại trên Internet chiếm 1,05% trong tổng số hàng hoá, dịch vụ trong thương mại điện tử trên thế giới. Đến năm 2000 tỷ lệ trên đã là 6,9%. Quảng cáo trong lĩnh vực này đang từng bước thu hút được sự chú ý của các doanh nghiệp. Đây là một phương tiện quảng cáo hữu hiệu nhưng nó chưa được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đang quảng cáo trên Internet phần lớn là các doanh nghiệp kinh doanh hàng điện tử, vi tính. Mức độ thu hút đối tượng nhận thông tin quảng cáo chưa cao bởi số lượng người truy cập Internet ở Việt Nam chưa nhiều. Quảng cáo bằng pano tấm lớn. Quảng cáo bằng pano tấm lớn là phương tiện quảng cáo rất phổ biến hiện nay. Theo số liệu được công bố trên báo Văn hoá, tạp trí tiếp thị và quảng cáo, tính đến tháng 12/1998 quảng cáo bằng pano tấm lớn ở Hà Nội có khoảng 209 biển, ở thành phố Hồ Chí Minh còn lớn hơn nhiều. Có 4 công ty lớn kinh doanh loại hình quảng cáo này đó là VINEXAD; công ty quảng cáo trẻ, công ty AE, công ty TNHH quảng cáo và hội chợ. Năm 1996, ở Hà Nội chỉ có 300-400 biển quảng cáo lớn nhỏ, trong đó có khoảng trên 100 biển tấm lớn. Các biển quảng cáo tấm lớn thường được dựng ở các khu trung tâm, nơi đông dân cư, trên đường cao tốc. Biển quảng cáo này rất đa dạng và giá cả của từng loại biển cũng không cố định. Nó phụ thuộc vào từng loại biển, độ lớn của biển, vị trí nơi treo biển, thời hạn treo biển…So với năm 1996 số biển quảng cáo tấm lớn năm 1998 tăng gấp đôi. Chi phí quảng cáo ngoài trời ở Việt Nam khoảng 37 triệu USD. Chi phí của các doanh nghiệp để quảng cáo tấm lớn qua VINEXAD tăng lên qua các năm. Thông thường, các doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá nhập khẩu, làm đại lý cho các hãng ở nước ngoài mới sử dụng pano tấm lớn để quảng cáo. 4. Quyết định về thông tin quảng cáo. Sau khi xác định những nhiệm vụ quảng cáo và ngân sách quảng cáo, ban lãnh đạo cần xây dựng một quan điểm sáng tạo chung về quảng cáo, chiến lược sáng tạo về quảng cáo. Trong quá trình xây dựng chiến lược có thể tách ra ba giai đoạn: hình thành ý tưởng thông tin, đánh giá và lựac chọn các phương án thông tin, thực hiện thông tin. - Hình thành ý tưởng thông tin: để nảy sinh những ý tưởng nhằm giải quyết các nhiệm vụ đặc ra cho quảng cáo, những người sáng tác thường sử dụng những biện pháp khác nhau. Nhiều ý tưởng đã nảy sinh do chuyện trò, trao đổi với người tiêu dùng, các đại lý, các chuyên gia và các đối thủ cạnh tranh. Một số người sáng tác đã cố hình dung xem người mua trông đợi ở hàng hoá một kiểu ban thưởng nào trong bốn kiểu: thoả mãn về lý trí, thoả mãn về tình cảm, thoả mãn xã hội hay thoả mãn lòng tự ái của mình và dưới dạng từng cảm xúc. Bằng cách kết hợp các kiểu ban thưởng với các kiểu cảm xúc họ có khả năng sáng tạo ra rất nhiều thông tin quảng cáo khác nhau về thể loại. - Đánh giá và lựa chọn các phương án thông tin: người đăng quảng cáo cần đánh giá các phương án thông tin có thể có. Twedt đã đề nghị đánh giá thông tin trên cơ sở tính chất phù hợp với mong muốn, tính chất độc đáo và tính chất trung thực của chúng. Trước hết thông tin phải thông báo cho người nhận một điều gì đó đang mong muốn hay lý thú về hàng hoá. Ngoài ra, nó phải thông báo cho người nhận một cáI gì đó độc đáo hay đặc biệt, không có những nhãn hiệu khác cùng loạI hàng hoá đó. Cuối cùng thônh tin phải trung thực hay có bằng chứng. Thực hiện thông tin: mức độ tác động của thông tin không chỉ phụ thuộc vào nội dung truyền đạt mà còn phụ thuộc cả vaò cách truyền đạt. Việc thực hiện thông tin có thể có ý nghĩa quyết định khi nói về những hàng hoá rất giống nhau, như các chất tẩy rửa, thuốc lá, cà phê và bia. Người quảng cáo cần đưa tin làm sao để nó thu hút được sự chú ý và quan tâm của công chúng mục tiêu. Thông thường người quảng cáo chuẩn bị đề cương trong đó nói rõ nhiệm vụ, nội dung, luật cứ và văn phong của thông tin. Sau đó người sáng tác phải tìm phong cách, văn phong, lời lẽ và hình thức thể hiện thông tin đó. Về phong cách thì bất kỳ thông tin nào cũng có thể được thực hiện theo nhũng phương án khác nhau. Vẽ tả chân: thể hiện một hay nhiều người đang sử dụng hàng hoá trong một khung cảnh quen thuộc. Ví dụ: một gia đình ngồi quanh bàn ăn với vẻ mặt hàI lòng về nhãn hiệu bánh quy mới. Nhấn mạnh lối sống: thể hiện hàng hoá hoà với một lối sống nhất định. Ví dụ, trong quảng cáo rượu Whisky Scottland vẽ một người đàn ông thanh lịch, tuổi trung niên tay cầm ly Whisky, một tay lái thuyền buồm. Tạo ra một khung cảnh thơ mộng: hình ảnh hàng hoá hay sử dụng hàng hoá được thể hiện trong một khung cảnh thơ mộng. Ví dụ, trong quảng cáo dầu thơm “Jontue” của hãng “Revlon”vẽ một người phụ nữ mặc váy soa trắng đang đI chân đất từ căn nhà cổ kiểu kiến trúc Pháp qua bãI cỏ đến với một chàng thanh niên tuấn tú cưỡi trên một con ngựa trắng đang mời gọi nàng Tạo ra một tâm trạng hay hình ảnh: thể hiện xung quanh hàng hoá một khung cảnh gợi lên tâm trạng hay hình ảnh tươI đẹp, tình yêu hay thanh bình. Không sử dụng một lời nào nói về hàng hoá mà chỉ để nó tự gợi lên một cách gián tiếp. Hài nhạc kịch: thể hiện một hay nhiều nhân vật đang hát những bài về hàng hoá. Phương án này thường được sử dụng để quảng cáo nước giải khát. Sử dụng nhân vật biểu tượng: tạo ra một nhân vật biểu tượng của hàng hoá. Nhân vật đó có thể là hoạt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docF0006.doc
Tài liệu liên quan